10 trung tâm điều trị nghiện hàng đầu ở Mỹ năm 2022

Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam có rất nhiều phương pháp cai nghiện, mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm nhất định. Tuy nhiên, thường chia thành 2 nhóm: nhóm phương pháp cai nghiện không dùng thuốc và nhóm dùng thuốc.

Phương pháp cai khô: Vấn nạn ma túy gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội và an ninh của mỗi quốc gia. Cai khô còn gọi là cai chay được áp dụng tại Mỹ năm 1938, bằng cách cô lập bệnh nhân, không cho tiếp xúc với môi trường bên ngoài, ngừng hoàn toàn việc sử dụng các chất ma túy mặc cho người nghiện lên cơn vật vã, kêu la. Cơn nghiện sẽ giảm dần sau 7-10 ngày nhưng người nghiện mệt mỏi, mất ngủ, đau nhức cơ xương kéo dài hàng tháng. Phương pháp này hiện nay được một số nước châu Á như Indonesia, Malaysia, Brunei sử dụng thành công.

Phương pháp giảm dần: Còn gọi là phương pháp cai dần hay giảm liều, bằng cách giảm liều lượng ma túy mỗi ngày một ít trong thời gian từ 13-30 ngày, đồng thời tăng cường thuốc bổ và thuốc an thần. Phương pháp này có ưu điểm là người nghiện thích nghi dần, cơn nghiện giảm từ từ, không vật vã như phương pháp cai khô, nhược điểm là đòi hỏi phải dùng chất ma túy, thời gian cắt cơn kéo dài.

Phương pháp phẫu thuật thùy trán: Phẫu thuật nhằm phá hủy một số điểm ở thùy trán của não quan hệ đến sự thèm muốn ma túy làm cho người nghiện không còn cảm thấy cần chất ma túy nữa. Phương pháp này có ưu điểm không những cắt cơn mà còn cai nghiện được nhưng có nhược điểm là sau khi phẫu thuật, bệnh nhân không phân biệt được sự phải trái của hành động. Viện Hàn lâm y học Nga đã công bố thành tựu nghiên cứu này do GS. Natalia Bectereva thực hiện. Trong số 34 người nghiện đã phẫu thuật, có 27 người không trở lại với ma túy (đạt tỷ lệ 80%). Hiện nay ở Ý người ta cải tiến thành phương pháp rạch thùy trán để giảm bớt những hậu quả do phẫu thuật gây ra.

Phương pháp thụy miên: Cho bệnh nhân giấc ngủ nhân tạo từ 3-7 ngày, nuôi dưỡng bệnh nhân bằng truyền dịch, săn sóc đặc biệt. Phương pháp này chỉ có tác dụng bớt cơn vật vã chứ không hết hẳn, thường kết hợp với chlorpromazine 100-200mg/ngày + diazepam 10-60mg/ngày + phenobarbital 100mg. Bệnh nhân lên cơn vật vã trong khi ngủ và sau đó di chứng nghiện còn kéo dài hàng tháng. Phương pháp này có ưu điểm làm giảm bớt cơn vật vã, bệnh nhân không đau đớn, nhưng nhược điểm là nếu có bệnh lý trong nội tạng sẽ gặp khó khăn trong chẩn đoán và điều trị, ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh. Thời gian cai nghiện từ 7-10 ngày.

Dùng các thuốc hướng tâm thần: Phương pháp này đã được Bộ Y tế Việt Nam ban hành và áp dụng từ năm 1995, bằng cách dùng các thuốc giải lo âu (diazepam), thuốc an thần kinh (tisercin, nozinan) và các thuốc chống trầm cảm (meliplamin, amitriptylin) cắt cơn trong vòng 7-10 ngày. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, rẻ tiền, dễ áp dụng, tuy nhiên nhiều tác dụng phụ, người bệnh vật vã nhiều, các triệu chứng dị cảm, dòi bò và rối loạn tiêu hóa hay gặp. Sử dụng thuốc hạ huyết áp clonidin. Được sử dụng ở Úc và một số nước châu Âu, thuốc có tác dụng cắt cơn tương đối êm dịu nhưng cũng hay gặp một số tác dụng phụ khác như hạ huyết áp ở bệnh nhân.

Thuốc Đông y: Thuốc Đông y có nguồn gốc từ thảo dược, có tính an toàn, không độc, có hiệu lực trong hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy, quá trình cắt cơn êm dịu, thuốc có khả năng bình ổn các triệu chứng của hội chứng cai, như là triệu chứng dị cảm và thèm ma túy. Nhược điểm của các thuốc Đông y chưa thực hiện được nghiên cứu mù kép và cơ chế tác dụng của thuốc. Hiện nay có 2 thuốc Đông y đã được Bộ Y tế cấp số đăng ký cho phép lưu hành trong các trung tâm cai nghiện (thuốc cedemex và thuốc bông sen). Báo chí là một liệu pháp tâm lý được các học viên cai nghiện ma túy yêu thích.

Phương pháp dùng thuốc đối kháng: Phương pháp dùng thuốc đối kháng naltrexone điều trị duy trì hỗ trợ chống tái nghiện các chất dạng thuốc phiện, đã được áp dụng tại một số quốc gia trên thế giới. Phương pháp này có ưu điểm là làm cho bệnh nhân chán chất ma túy nhưng có nhược điểm là lên cơn vật vã, bứt rứt, khó chịu, táo bón, độc với gan và thận, có thể gây sốc thuốc khi bệnh nhân vẫn sử dụng chất ma túy. Hiện nay có 2 biệt dược đã được Bộ Y tế cho phép sử dụng để điều trị duy trì chống tái nghiện các chất dạng thuốc phiện đó là: thuốc danapha - natrex 50 và thuốc albernil.

Phương pháp điều trị bằng chất thay thế: Trên thế giới, các chất để điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện như methadone, buprenophine, LAAM... Trong đó methadone là loại thuốc chính được sử dụng trong phương pháp điều trị cai nghiện thay thế các chất dạng thuốc phiện. Liệu pháp methadone từ năm 1985 đã được chính phủ Mỹ công nhận là liệu pháp có hiệu lực, chương trình methadone được xem là một quốc sách và được triển khai trong cả nước. Nhằm đánh giá tầm quan trọng và hiệu quả của việc điều trị thay thế bằng methadone, đầu năm 2005, WHO đã bổ sung methadone vào danh mục các loại thuốc thiết yếu của WHO. Ở Việt Nam, Viện Sức khỏe tâm thần Trung ương đã tiến hành triển khai nghiên cứu và thử nghiệm điều trị thay thế bằng methadone từ cuối năm 1996 cho tới nay đã triển khai trên cả nước.

Phương pháp điện châm: Dùng điện châm, ngày châm nhiều lần tùy thuộc vào trạng thái đói thuốc của bệnh nhân. Phương pháp điện châm điều trị hỗ trợ cai nghiện ma túy đã được Bộ Y tế ban hành vào năm 2003. Phương pháp điện châm không chỉ cắt cơn nghiện cho bệnh nhân mà hiệu quả điều trị còn kéo dài, qua đánh giá sau một số năm người nghiện vẫn không tái nghiện (tỷ lệ tái nghiện vào khoảng 10-15%). Điện châm có ưu điểm cắt cơn nhanh, ít tốn kém, dễ thực hiện tại tuyến cơ sở.

Liệu pháp tâm lý: Có thể dùng liệu pháp tâm lý đơn thuần hay liệu pháp tâm lý kết hợp với thuốc hướng thần. Ở Nga đó là liệu pháp tâm lý theo học thuyết Paplov đang được áp dụng rất thành công tại Viện hành vi Nga. Tại Mỹ đó là phương pháp cộng đồng trị liệu (TC). Phương pháp này có ưu điểm là chỉ bằng lời nói, không tốn kém nhưng đòi hỏi phải có bác sĩ chuyên khoa tâm thần hoặc các chuyên gia tâm lý được đào tạo nắm vững kỹ năng điều trị tâm lý (thuyết phục, ám thị...) vì vậy khó thực hiện ở các tuyến cơ sở.

                                                                                                                                                        Khoa TT (Tổng hợp)