100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022

Vừa qua, The Asian Banker - Tạp chí tài chính ngân hàng hàng đầu của khu vực châu Á đã công bố bảng tổng kết, đánh giá và xếp loại các ngân hàng mạnh nhất của châu Á Thái Bình Dương năm 2017. VPBank được đánh giá thuộc Top 100 ngân hàng bán lẻ châu Á - Thái Bình Dương.

100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022

Cụ thể, theo bảng tổng kết, Việt Nam có 7 ngân hàng được xếp vào danh sách này gồm VPBank, HSBC Việt Nam, BIDV, Techcombank, ACB, Sacombank, TPBank . Trong đó, các tiêu chí đánh giá bao gồm tính bền vững, khả năng bán hàng cũng như sự minh bạch trong chiến lược kinh doanh và giá trị thương hiệu.

Trong danh sách này, VPBank được đánh giá cao về các tiêu chí như khả năng bán hàng cũng như sự minh bạch trong chiến lược kinh doanh và giá trị thương hiệu.

Báo cáo tài chính năm 2017 với kết quả nổi bật ở tất cả các chỉ số quan trọng, cho thấy hiệu quả và sự tăng trưởng bền vững của chiến lược tập trung vào phân khúc bán lẻ của VPBank. Doanh thu từ phân khúc khách hàng cá nhân, tài chính tiêu dùng và doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang chiếm gần 80% trong tổng doanh thu của Ngân hàng.

Năm 2018, VPBank tiếp tục duy trì chiến lược ngân hàng bán lẻ, trong đó tập trung đẩy mạnh hoạt động số hóa các dịch vụ và sản phẩm tài chính của Ngân hàng, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng và tạo động lực tăng trưởng mới cho Ngân hàng. Bên cạch việc giới thiệu các sản phẩm tài chính được số hóa, VPBank cũng sẽ tăng cường liên kết với các công ty công nghệ tài chính, các đối tác chiến lược nhằm tạo ra một hệ sinh thái tài chính đa dạng và tiện lợi hơn cho mọi phân khúc khách hàng.

Ngoài ra, cuối năm 2017, VPBank cũng vừa được Brand Finance, công ty tư vấn định giá thương hiệu hàng đầu thế giới, xếp hạng là một trong bốn ngân hàng có giá trị thương hiệu cao nhất và là một trong 22 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam năm 2017. Đây là kết quả định giá hàng năm đối với 7.000 thương hiệu trên thế giới và Brand Finance là công ty duy nhất sử dụng phương pháp đánh giá thương hiệu đáp ứng các tiêu chuẩn của ISO 10668 về tiêu chuẩn đánh giá. Như vậy, tính riêng trong lĩnh vực ngân hàng, thứ hạng giá trị thương hiệu của VPBank đã tăng ấn tượng từ vị trí thứ 7 năm 2016 lên vị trí thứ 4 năm 2017, và chỉ đứng sau ba ngân hàng quốc doanh là BIDV, Vietinbank và Vietcombank.

CafeLand - Theo danh sách 500 ngân hàng mạnh nhất châu Á – Thái Bình Dương do Tạp chí tài chính The Asian Banker bình chọn mới đây cho thấy, một số ngôi sao ngân hàng Việt mới lọt vào danh sách và một vài ngân hàng đã không còn nằm trong danh sách.

Danh sách 500 được The Asian Banker lựa chọn dựa trên tiêu chí: Quy mô tài sản và một số tiêu chí khác như tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro/tổng nợ xấu; tỷ lệ nợ xấu; chỉ số an toàn… Trong đó tiêu chí chiếm tỷ trọng lớn nhất là quy mô tổng tài sản (17,5%), tỷ lệ chi dự phòng/tổng nợ xấu (12,5%), tỷ lệ nợ xấu (12,5%), tỷ lệ cho vay/huy động (10%), chỉ số an toàn vốn (10%), … Ngoài ra, niềm tin về khả năng sinh lời lâu dài từ kinh doanh cốt lõi của các ngân hàng cũng được tính đếm.

100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022

Trong danh sách này có 14 ngân hàng đến từ Việt Nam, Vietcombank vẫn là ngân hàng đứng đầu trong số 14 ngân hàng lọt top 500 và xếp thứ 29, tăng 19 bậc so với xếp hạng năm 2017.

Techcombank tiếp tục duy trì vị trí thứ hai trong số 14 ngân hàng, vị trí thứ 76 của khu vực, đồng thời nới rộng khoảng cách với các ngân hàng phía sau, trong đó cao hơn VietinBank tới 88 bậc, hơn BIDV 100 bậc.

Năm nay, MBBank đã đoạt vị trí thứ 3 của VietinBank năm 2017, trở thành ngân hàng xếp thứ 3 trong số 14 ngân hàng; trong khi đó VietinBank đứng vị trí thứ 5.

Tiếp tới, ACB đứng thứ 4 trong Top 14 ngân hàng Việt được xếp hạng.

Một số ngân hàng có sự bứt phá về thứ hạng trong bảng xếp hạng 500 ngân hàng mạnh nhất Châu Á lần này. Đáng chú ý là ACB tăng 47 bậc; VPBank tăng 77 bậc; SHB tăng 45 bậc và Sacombank tăng 133 bậc.

Ngoài ra, Agribank, SCB và Eximbank là 3 ngân hàng mới lọt Top 500 ngân hàng mạnh nhất Châu Á.

Đáng chú ý, trong bảng xếp hạng năm nay không còn tên các ngân hàng xuất hiện trong năm trước là VIB, TPBank, SeABank và PVcomBank.

Như vậy, 14 ngân hàng lọt Top 500 ngân hàng mạnh nhất lần lượt là: Vietcombank, Techcombank, MBBank, ACB, VietinBank, Agribank, BIDV, VPBank, HDBank, SCB, SHB, Sacombank, LienVietPostBank, EximBank.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

"AIIB" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem AIIB (định hướng).

Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạng tầng châu Á
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
Tên viết tắtAIIB
Thành lập
  • 4 tháng 10 năm 2014 (Ban thư ký đa phương lâm thời)
  • 25 tháng 12 năm 2015
LoạiTổ chức khu vực
Vị thế pháp lýHiệp định (chưa thi hành)
Mục đíchCho vay tín dụng
Trụ sở chínhBắc Kinh, Trung Quốc

Vùng phục vụ

châu Á, kể cả châu Đại Dương

Thành viên

1 thành viên sáng lập

    • 100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Trung Quốc

    [1]

57 Thành viên sáng lập dự kiến

    • 100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Úc
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Áo
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Azerbaijan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Bangladesh
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Brasil
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Brunei
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Campuchia
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Trung Quốc
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Đan Mạch
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Ai Cập
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Phần Lan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Pháp
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Gruzia
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Đức
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Iceland
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Ấn Độ
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Indonesia
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Iran
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Israel
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Ý
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Jordan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Kazakhstan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Hàn Quốc
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Kyrgyzstan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Kuwait
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Lào
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Luxembourg
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Maldives
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Malta
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Mông Cổ
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Myanmar
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Malaysia
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
         
      Nepal
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Hà Lan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      New Zealand
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Na Uy
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Oman
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Pakistan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Ba Lan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Philippines
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Bồ Đào Nha
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Qatar
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Nga
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Ả Rập Xê Út
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Singapore
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
      Tây Ban Nha
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Sri Lanka
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Nam Phi
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Thụy Điển
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Thụy Sĩ
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Tajikistan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Thái Lan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Thổ Nhĩ Kỳ
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      UAE
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Vương quốc Anh
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
       
      Uzbekistan
      100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
      Việt Nam

Ngôn ngữ chính

Tiếng Anh[2]

Tổng thư ký

Kim Lập Quần (Ban thư ký đa phương lâm thời để thành lập AIIB)

Cơ quan chính

  • Ban thư ký
    đa phương lâm thời[3]
  • Ban giám đốc
Trang webwww.aiibank.org

Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (tiếng Anh: Asian Infrastructure Investment Bank, viết tắt: AIIB) là một tổ chức tài chính quốc tế đang trong quá trình thành lập với mục tiêu là hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tổ chức này là sáng kiến của chính quyền Trung Quốc[4] và được sự ủng hộ của các Thành viên Sáng lập Dự kiến bao gồm 37 nước trong khu vực và 20 nước ngoài khu vực, 51 trong số đó đã ký Điều khoản Thỏa thuận để hình thành cơ sở pháp lý cho ngân hàng. Các nước có GDP lớn nhưng không phải quốc gia sáng lập là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada.

Một số người xem AIIB là đối thủ của IMF, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),[5] vốn là những tổ chức tài chính được xem là bị chi phối bởi các nước phát triển như Hoa Kỳ. Liên Hợp Quốc xem việc mở ra AIIB là sự "mở rộng quy mô tài chính cho phát triển bền vững"[6] cho các mối quan tâm của Quản trị Kinh tế Toàn cầu.[7]

Trung Quốc đề xuất ý tưởng thành lập ngân hàng này vào năm 2013[8] và sáng kiến này được ra mắt tại một buổi lễ ở Bắc Kinh vào tháng 10 năm 2014.[9] Các Điều khoản Thỏa thuận đã được 50 Thành viên Sáng lập Dự kiến ký kết vào ngày 29 tháng 6 năm 2015, và sẽ trở thành một thành viên chính thức sau khi được từng chính phủ thông qua. Đến tháng 7 năm 2015, có một quốc gia (Myanmar) đã chính thức thông qua thỏa thuận.[1]

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên nhân cho sáng kiến thành lập là do sự không hài lòng của Trung Quốc về ưu thế của Hoa Kỳ trong quỹ IMF, mà theo Trung Quốc không công bằng về sự phân chia quyền lực toàn cầu.[10] Vì Hoa Kỳ từ chối, không chịu thay đổi về tỷ lệ lá phiếu, Trung Quốc bắt đầu từ năm 2013 bỏ ra những nỗ lực để hình thành nhà băng này.

Nền tảng pháp lý và Thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

Bản ghi nhớ

Tên đầy đủ:

  • BẢn ghi nhớ về việc thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á

100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022

  Bên ký kết tiềm năng

  Bên ký kết (trong khu vực)

  Tham gia (ngoài khu vực)

  Bên ký kết (ngoài khu vực)

Ngày kí29 tháng 6 năm 2015
Nơi kíBắc Kinh, Trung Quốc
Ngày đưa vào hiệu lựcchưa thi hành
Điều kiệnĐược 10 quốc gia thông qua, bao gồm 50% vốn pháp định
Bên kí50
Bên tham gia1[1]
Người gửi lưu giữChính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Ngôn ngữTiếng Trung, tiếng Anh (dùng trong tranh chấp) và tiếng Pháp

Bản ghi nhớ là nền tảng pháp lý cho việc thành lập Ngân hàng. 57 thành viên sáng lập dự kiến có tên trong Phụ lục A của biên bản sẽ đủ quyền ký kết và thông qua Bản ghi nhớ, và trở thành thành viên của Ngân hàng. Các quốc gia là thành viên của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế hoặc Ngân hàng Phát triển châu Á vẫn có thể trở thành thành viên sau khi được phê chuẩn gia nhập.[11]

Biên bản được các Thành viên Sáng lập Dự kiến thỏa thuận các điều khoản, với Hồng Kông tham gia qua đại diện Trung Quốc.[12][13]

Các thành viên sáng lập[sửa | sửa mã nguồn]

57 Thành viên Sáng lập Dự kiến có thể trở thành Thành viên Sáng lập bằng cách:

  • Ký kết Bản Ghi nhớ trong năm 2015
  • Thông qua Bản Ghi nhớ trong năm 2015 hoặc 2016

Đến tháng 7 năm 2015, có 50 quốc gia đã ký Bản ghi nhớ, một trong số đó đã thông qua. Bảy quốc gia ký cam kết thành lập nhưng không ký vào Bản ghi nhớ vào ngày ngày 29 tháng 6.[14][15] Các bước để trở thành Thành viên Sáng lập được ghi ở dưới, cũng như phần trăm phiếu bầu và cổ phần, nếu giả sử toàn bộ thành viên sáng lập dự kiến đều trở thành thành viên chính thức, và không có thành viên nào khác gia nhập.

Quốc gia (Khu vực) Thành viên Sáng lập
Dự kiến
Ký kết
(Bản ghi nhớ)[1]
Thông qua
(Bản ghi nhớ)[1]
Vốn góp % số vốn góp % phiếu bầu
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Trung Quốc* (sáng lập)
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 297.804 30,34 26,06
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Úc
3 tháng 4 năm 2015[16] 29 tháng 6 năm 2015 36.912 3,76 3,46
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Áo
11 tháng 4 năm 2015[17] 29 tháng 6 năm 2015 5.008 0,51 0,70
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Azerbaijan
15 tháng 4 năm 2015[18] 29 tháng 6 năm 2015 2.541 0,26 0,48
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Bangladesh*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 6.605 0,67 0,83
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Brasil
12 tháng 4 năm 2015[19] 29 tháng 6 năm 2015 31.810 3,24 3,02
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Brunei*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 524 0,05 0,31
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Campuchia*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 623 0,06 0,32
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Đan Mạch
12 tháng 4 năm 2015[19] 3.695 0,38 0,58
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Ai Cập
14 tháng 4 năm 2015[20] 29 tháng 6 năm 2015 6.505 0,66 0,83
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Phần Lan
12 tháng 4 năm 2015[19] 29 tháng 6 năm 2015 3.103 0,32 0,53
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Pháp
2 tháng 4 năm 2015[21] 29 tháng 6 năm 2015 33.756 3,44 3,19
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Gruzia
12 tháng 4 năm 2015[19] 29 tháng 6 năm 2015 539 0,05 0,31
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Đức
1 tháng 4 năm 2015[22] 29 tháng 6 năm 2015 44.842 4,57 4,15
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Iceland
15 tháng 4 năm 2015[18] 29 tháng 6 năm 2015 176 0,02 0,28
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Ấn Độ*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 83.673 8,52 7,51
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Indonesia*
25 tháng 11 năm 2014[23] 29 tháng 6 năm 2015 33.607 3,42 3,17
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Iran
7 tháng 4 năm 2015[24] 29 tháng 6 năm 2015 15.808 1,61 1,63
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Israel
15 tháng 4 năm 2015[18] 29 tháng 6 năm 2015 7.499 0,76 0,91
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Ý
2 tháng 4 năm 2015[21] 29 tháng 6 năm 2015 25.718 2,62 2,49
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Jordan
7 tháng 2 năm 2015 29 tháng 6 năm 2015 1.192 0,12 0,37
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Kazakhstan*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 7.293 0,74 0,89
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Hàn Quốc
11 tháng 4 năm 2015[17] 29 tháng 6 năm 2015 37.388 3,81 3,50
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Kuwait
24 tháng 10 năm 2014 5.360 0,55 0,73
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Kyrgyzstan
9 tháng 4 năm 2015[25] 29 tháng 6 năm 2015 268 0,03 0,29
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Lào*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 430 0,04 0,30
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Luxembourg
27 tháng 3 năm 2015[26] 29 tháng 6 năm 2015 697 0,07 0,32
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Malaysia
24 tháng 10 năm 2014 1.095 0,11 0,36
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Maldives
31 tháng 12 năm 2014[23] 29 tháng 6 năm 2015 72 0,01 0,27
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Malta
9 tháng 4 năm 2015[25] 29 tháng 6 năm 2015 136 0,01 0,27
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Mông Cổ*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 411 0,04 0,30
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Myanma*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 1 tháng 7 năm 2015 2645 0,27 0,49
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
   
Nepal*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 809 0,08 0,33
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Hà Lan
12 tháng 4 năm 2015[19] 29 tháng 6 năm 2015 10.313 1,05 1,16
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
New Zealand
5 tháng 1 năm 2015[27] 29 tháng 6 năm 2015 4.615 0,47 0,66
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Na Uy
14 tháng 4 năm 2015[20] 29 tháng 6 năm 2015 5.506 0,56 0,74
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Oman*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 2.592 0,26 0,49
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Pakistan*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 10.341 1,05 1,16
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Philippines
24 tháng 10 năm 2014 9.791 1,00 1,11
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Ba Lan
15 tháng 4 năm 2015[18] 8.318 0,85 0,98
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Bồ Đào Nha
15 tháng 4 năm 2015[18] 29 tháng 6 năm 2015 650 0,07 0,32
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Qatar*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 6.044 0,62 0,79
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Nga
14 tháng 4 năm 2015[28] 29 tháng 6 năm 2015 65.362 6,66 5,93
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Ả Rập Saudi
13 tháng 1 năm 2015[29] 29 tháng 6 năm 2015 25.446 2,59 2,47
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Singapore*
24 tháng 10 năm 2014[30] 29 tháng 6 năm 2015 2.500 0,25 0,48
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Nam Phi
15 tháng 4 năm 2015[18] 5.905 0,60 0,77
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Tây Ban Nha
11 tháng 4 năm 2015[17] 29 tháng 6 năm 2015 17.615 1,79 1,79
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Sri Lanka*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 2.690 0,27 0,50
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Thụy Điển
15 tháng 4 năm 2015[18] 29 tháng 6 năm 2015 6.300 0,64 0,81
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Thụy Sĩ
28 tháng 3 năm 2015[31] 29 tháng 6 năm 2015 7.064 0,72 0,87
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Tajikistan
13 tháng 1 năm 2015[29] 29 tháng 6 năm 2015 309 0,03 0,29
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Thái Lan
24 tháng 10 năm 2014[30] 14.275 1,45 1,50
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Thổ Nhĩ Kỳ
10 tháng 4 năm 2015[32] 29 tháng 6 năm 2015 26.099 2,66 2,52
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
5 tháng 4 năm 2015[33] 29 tháng 6 năm 2015 11.857 1,21 1,29
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
28 tháng 3 năm 2015[31] 29 tháng 6 năm 2015 30.547 3,11 2,91
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Uzbekistan*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 2.198 0,22 0,45
100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
 
Việt Nam*
24 tháng 10 năm 2014 29 tháng 6 năm 2015 6.633 0,68 0,84
Vốn chưa phân phối 18.486
Tổng cộng 57
37 Khu vực
20 Ngoài khu vực
50
95,06% vốn góp
1
0,27% vốn góp
1.000.000 100,00 100,00

Ghi chú: Các thành viên trong khu vực được tô màu xanh

  • * Ký kết Biên bản ghi nhớ (MOU)
  • 100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
    Philippines – Đang xem xét ký kết[34]

Các quốc gia không phải Thành viên Sáng lập Dự kiến[sửa | sửa mã nguồn]

Trong các quốc gia không phải là Thành viên Sáng lập Dự kiến, Bỉ, Canada, Cộng hòa Séc,[35] Hungary, Đài Loan và Ukraina đang xem xét gia nhập AIIB với tư cách thành viên. Colombia, Nhật Bản và Hoa Kỳ không có dự định tham gia. Đài Loan,[36] và theo Emergingmarkets.com, Bắc Triều Tiên[37] bị Trung Quốc từ chối tư cách Thành viên Sáng lập Dự kiến.

Lãnh thổ Phụ thuộc[sửa | sửa mã nguồn]

Bản Ghi nhớ cho phép các lãnh thổ không có chủ quyền cũng có thể trở thành thành viên của ngân hàng. Ngoài các yêu cầu dành cho các quốc gia có chủ quyền, quyền thành viên của lãnh thổ phụ thuộc phải được quốc gia lãnh trách nhiệm ngoại giao cho lãnh thổ đó ủng hộ.

Các quốc gia khác[sửa | sửa mã nguồn]

100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
Hoa Kỳ – Không tham gia

  • Các quan chức Hoa Kỳ để thể hiện sự lo ngại về việc AIIB có đảm bảo được tiêu chuẩn quản lý cao hay không, và liệu nó có an toàn về môi trường và xã hội không.[43] Hoa Kỳ được báo cáo là đã dùng áp lực ngoại giao để tìm cách ngăn các đồng minh chủ chốt, như Úc, không tham gia ngân hàng,[44] và thể hiện sự thất vọng khi các nước khác, như Anh, gia nhập.[30][43]

100 ngân hàng hàng đầu ở Châu Á năm 2022
Nhật Bản – "Đang xem xét" / Không tham gia

  • Masato Kitera, trưởng phái đoàn của Tokyo tại Bắc Kinh, đã từng nói Nhật Bản có thể gia nhập AIIB.[45] Bộ trưởng Tài chính Nhật BảnTarō Asō cũng từng bày tỏ sự quan tâm về việc tham gia AIIB, nhưng sau đó đổi quan điểm. Yoshihide Suga, Thư ký Nội các Nhật Bản, tuyên bố với công chúng rằng Nhật Bản vẫn chờ đợi lời giải thích đầy đủ từ Trung Quốc về AIIB khi ông nói, "Tính đến nay, Nhật Bản sẽ không tham gia AIIB và chúng tôi vẫn chưa nhận được lời giải thích đầy đủ từ phía Trung Quốc" và "Nhật Bản e ngại rằng (AIIB) có được quản trị hợp lý hay nó có làm tổn hại đến các tổ chức tín dụng khác hay không". Ông nói nói rằng Nhật Bản không còn xem xét khả năng gia nhập ngân hàng. Phát ngôn viên Chính phủ Nhật cũng thông báo rằng Nhật sẽ không gia nhập AIIB. Thủ tướng Nhật Bản Shinzō Abe cũng nói thêm rằng Nhật không cần gia nhập ngân hàng.[46]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

<references>

  1. ^ a b c d e “Articles of Agreement of the Asian Infrastructure Investment Bank”. Government of the Netherlands. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
  2. ^ “Articles of Agreement - AIIB”. Asian Infrastructure Investment Bank. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  3. ^ “About: the Secretariat”. Asian Infrastructure Investment Bank. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  4. ^ “21 Asian countries sign MOU on establishing Asian Infrastructure Investment Bank”. Xinhuanet. ngày 24 tháng 10 năm 2014.
  5. ^ Branigan, Tania (ngày 13 tháng 3 năm 2015). “Support for China-led development bank grows despite US opposition”. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2015.
  6. ^ “World Economic Situation and Prospects 2015” (PDF). United Nations. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  7. ^ United Nations Financing for Development Office. “Global Economic Governance”. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2015.
  8. ^ “China says new bank to complement existing institutions”. The Washington Post. ngày 21 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2015.
  9. ^ “Three major nations absent as China launches World Bank rival in Asia”. Reuters. ngày 5 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2015.
  10. ^ China spaltet den Westen - und bringt die Finanzarchitektur ins Wanken, 19.03.2015
  11. ^ “Asian Infrastructure Investment Bank – Articles of Agreement” (PDF). Asian Infrastructure Investment Bank. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  12. ^ “Financial Secretary – My Blog – 亞投行”. Government of Hong Kong. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2015.
  13. ^ “The Status of AIIB, About AIIB”. Asian Infrastructure Investment Bank. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  14. ^ “Seven Stragglers Leave AIIB Crowd at an Even 50”. The Wall Street Journal. ngày 29 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  15. ^ “Government defers signing of deal to join China-led bank”. The Philippine Star. ngày 29 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  16. ^ “Australia approved as AIIB founder”. Xinhua News Agency. ngày 13 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  17. ^ a b c “Spain, ROK, Austria join AIIB as founding members”. China Daily. ngày 11 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  18. ^ a b c d e f g “AIIB membership means opportunity for Iceland: official”. Xinhua News Agency. ngày 18 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  19. ^ a b c d e “Georgia, Denmark, Brazil, Netherlands, Finland Join China's AIIB Bank”. Sputnik. ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  20. ^ a b “Egypt, Norway, Russia approved as AIIB founders”. China Daily. ngày 15 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  21. ^ a b “Italy, France approved as AIIB founding members”. People's Daily. ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  22. ^ “Germany becomes AIIB prospective founding member”. Xinhuanet. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  23. ^ a b “Indonesia becomes 22nd founding member of AIIB”. Xinhua News Agency. ngày 27 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014.
  24. ^ “Iran Joins China-Led Asian Bank”. Fars News Agency. ngày 7 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  25. ^ a b “Malta, Kyrgyzstan join AIIB as founding members”. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  26. ^ “Luxembourg becomes AIIB's prospective founding member”. Xinhua News Agency. ngày 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  27. ^ “New Zealand becomes 24th founding member of AIIB”. China Daily. ngày 5 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  28. ^ “Russia officially joins $50bn China-led infrastructure bank”. RT. ngày 14 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2015.
  29. ^ a b “Saudi Arabia, Tajikistan to join Beijing-backed development bank”. Reuters. ngày 13 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  30. ^ a b c “The infrastructure gap”. The Economist. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2015.
  31. ^ a b “U.K. and Switzerland follow Brazil to China-backed Asia investment bank”. Reuters. ngày 28 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2015.
  32. ^ “Turkey joins AIIB as founding member”. Xinhua News Agency. ngày 11 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  33. ^ “UAE joins AIIB as prospective founding member”. Gulf News. ngày 5 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  34. ^ “Philippines, with great need in infrastructures, non-committal in joining China-led financial institution”. Ang Malaya Net. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  35. ^ “Číňané do Asijské rozvojové banky přibrali 57 zemí. Česko se vstupem váhá”. Hospodářské noviny (bằng tiếng Séc). ngày 15 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  36. ^ a b Taiwan unable to become AIIB prospective founding member: China. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2014.
  37. ^ “No way North Korea' — DPRK refused entry to China-led AIIB”. Emerging Markets. ngày 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
  38. ^ “筹建亚投行第三次谈判代表会议在哈萨克斯坦举行” (bằng tiếng Trung Quốc). Ministry of Finance of PRC. ngày 31 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  39. ^ “香港参加亚投行筹备会议 (Hong Kong attended the preparing meeting of AIIB)” (bằng tiếng Trung Quốc). guancha.cn. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  40. ^ “Taiwan to apply to join China-backed AIIB investment bank”. Reuters. ngày 31 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2015.
  41. ^ “Legislature not against AIIB bid”. Taipei Times. ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  42. ^ “Foreign Ministry Spokesperson Hua Chunying's Regular Press Conference on ngày 31 tháng 3 năm 2015”. .FMPRC. ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2015.
  43. ^ a b Watt, Nicholas; Lewis, Paul; Branigan, Tania (ngày 15 tháng 3 năm 2015). “US anger at Britain joining Chinese-led investment bank AIIB”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  44. ^ “Europeans defy US to join China-led development bank”. Financial Times. ngày 16 tháng 3 năm 2015. Australia, a key US ally in the Asia-Pacific region which had come under pressure from Washington to stay out of the new bank, has also said that it will now rethink that position.
  45. ^ “Japan denies plan to join China-led development bank”. Yahoo!. Agence France-Presse. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  46. ^ “Taiwan to join China-led regional bank, Japan says not now”. Yahoo!. Elaine Kurtenbach. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.

Một tỷ lệ lớn của ngành ngân hàng nằm ở các quốc gia Đông Nam Á. Khu vực này có các ngân hàng có tài sản trị giá hàng tỷ đồng, chúng tôi sẽ xem xét 10 trong số lớn nhất.

10. Ngân hàng thương mại Siam & NBSP;

Ngân hàng thương mại Siam được thành lập tại Thái Lan trong năm 1904. Ngân hàng này có 287 chi nhánh, hơn 900 máy ATM và 27.000 nhân viên. Ngân hàng thương mại Siam là ngân hàng thương mại đầu tiên ở Thái Lan.

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): 109,4 đô la

9. Ngân hàng Krung Thái

Ngân hàng Krung Thai có trụ sở tại Thái Lan, Bangkok và Watthana, và được thành lập vào năm 1966. BTB là một công ty TNHH Công cộng và được thành lập trong việc sáp nhập Ngân hàng Kaset và Ngân hàng Monton. Ngân hàng có hơn 29.000 nhân viên và 500 chi nhánh.Kaset Bank and Monton Bank. The bank has over 29,000 employees and 500 branches.

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): $ 111.3

8. Ngân hàng công cộng Berhad

Ngân hàng công cộng Berhad có trụ sở tại Kuala Lumpur và Malaysia, ngân hàng chủ yếu hoạt động tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngân hàng công cộng Berhad được thành lập lần đầu tiên vào năm 1966 và là ngân hàng lớn thứ ba của các cổ đông. Nó có tổng cộng 19.000 nhân viên, 264 chi nhánh ở Malaysia cũng như 148 người khác ở nước ngoài.

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): $ 112.2

7. Kasikornbank

Được thành lập lần đầu tiên vào năm 1945 tại Thái Lan bởi Choti Lamsam, Kasikornbank đã có mặt trên sàn giao dịch chứng khoán từ năm 1976. Ngân hàng có 887 chi nhánh, 8184 máy ATM và hơn 20.000 nhân viên. & NBSP;

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): $ 122.1

6. Ngân hàng Bangkok

Ngân hàng Bangkok được thành lập lần đầu tiên vào năm 1944 bởi Chin Sophonpanich. Ngân hàng có tổng cộng hơn 1165 chi nhánh và hơn 27.142 nhân viên. Bangkok Bank cung cấp nhiều dịch vụ như ngân hàng kỹ thuật số, ngân hàng internet, ngân hàng di động cũng như các dịch vụ ATM. Ngân hàng có trụ sở tại Bangkok và hoạt động tại hơn 15 quốc gia.

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): $ 127,6

5. CIMB

Trụ sở chính tại Kuala Lumpur, Malaysia, Tập đoàn CIMB lần đầu tiên được thành lập trong năm 2006. CIMB là một ngân hàng đầu tư có hơn 1.080 chi nhánh chỉ trong khu vực này. Ngân hàng có các chi nhánh và dịch vụ có sẵn ở 18 quốc gia khác nhau với tổng số hơn 40.000 nhân viên. CIMB là ngân hàng Đông Nam Á lớn thứ 5 với hơn 16 triệu khách hàng.

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): 149,7 đô la

4. Maybank

Maybank được thành lập vào năm 1960 bởi Khoo Teck Puat. Đây là một ngân hàng toàn cầu Malaysia chủ yếu hoạt động tại Singapore, Malaysia và Indonesia. Maybank là một trong những ngân hàng có giá trị nhất trong lĩnh vực này với 22 triệu khách hàng. Ngân hàng cũng có 2600 chi nhánh ngân hàng cùng với hơn 43.000 nhân viên. & NBSP;

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): $ 213.0

3. Ngân hàng Hoa Kỳ & NBSP;

Được thành lập bởi Wee Kheng Chiang tại Singapore trong năm 1935. Ngân hàng Hoa Kỳ là một ngân hàng đầu tư cũng như một dịch vụ tài chính, với hơn 500 văn phòng trên 19 quốc gia khác nhau. Ngân hàng có 68 chi nhánh ở Singapore một mình cùng với trụ sở chính. Trong tổng số Ngân hàng Hoa Kỳ có khoảng 24.853 nhân viên. & NBSP;

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): $ 326.7

2. Ngân hàng OCBC

Tập đoàn ngân hàng ở nước ngoài được gọi là OCBC Bank là một công ty dịch vụ tài chính và ngân hàng đa quốc gia. Được thành lập lần đầu tiên tại Singapore trong năm 1932 bởi ông Lee Kong Chian, người đã sáp nhập ba ngân hàng (Ngân hàng Thương mại Trung Quốc Limited, Ngân hàng Ho Hong Limited & Ngân hàng ở nước ngoài Trung Quốc) để thành lập Ngân hàng OCBC. Ngân hàng có hơn 570 chi nhánh và sĩ quan trên 18 quốc gia mà họ hoạt động, khoảng 100 trong số này được đặt tại Hồng Kông. & NBSP;(Chinese Commercial Bank Limited, the Ho Hong Bank Limited & the Oversea-Chinese Bank Limited) to form OCBC Bank. The bank has more than 570 branches and officers across the 18 countries they operate in, around 100 of these are located in Hong Kong. 

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): 394,5 đô la

1. Ngân hàng DBS & NBSP;

DBS Bank là ngân hàng lớn nhất của tài sản ở Đông Nam Á, với hơn 24.000 nhân viên, 250 chi nhánh và 1100 máy ATM trên 50 thành phố khác nhau. Ngân hàng DBS được thành lập tại Singapore trong năm 1968 và là một dịch vụ tài chính và ngân hàng đa quốc gia. Ngân hàng được biết đến là ngân hàng an toàn nhất trên toàn châu Á, cung cấp một loạt các dịch vụ như ngân hàng tiêu dùng, ngân hàng kinh doanh và ngân hàng tư nhân. & NBSP;

Tổng tài sản (hàng tỷ đô la Mỹ): 491.9 đô la

100 ngân hàng hàng đầu trên thế giới là gì?

100 ngân hàng hàng đầu trên thế giới.

Ngân hàng nào không có ngân hàng nào trên thế giới?

(IDCBY) Ngân hàng lớn nhất thế giới về tổng tài sản thuộc Quản lý (AUM) là Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc.Industrial and Commercial Bank Of China Ltd.

Ngân hàng nào an toàn nhất ở châu Á?

Vui lòng bấm vào để quay lại trang AB 500 ..

5 ngân hàng quốc tế hàng đầu là gì?

10 ngân hàng hàng đầu trên thế giới..
01 - Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (ICBC) ....
02 - Tập đoàn Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc.....
03 - Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc.....
04 - Ngân hàng Trung Quốc Ltd..
05 - JPMorgan Chase.....
06 - Nhóm tài chính Mitsubishi UFJ.....
07 - BNP paribas.....
08 - HSBC Holdings plc ..