Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
|
Billboard Hot 100 là một bảng xếp hạng những đĩa đơn thành công nhất tại thị trường âm nhạc Hoa Kỳ. Bảng xếp hạng do tạp chí Billboard xuất bản cùng những số liệu được tổng hợp bởi Nielsen SoundScan dựa trên doanh số hàng tuần của từng đĩa thường (CD, vinyl và cassette) và doanh số tải kĩ thuật số, tần suất phát sóng và streaming. Ở thập niên 2000, ngày "kết thúc tuần" trên mỗi bảng xếp hạng là ngày thứ 7 của hai tuần kế tiếp. Chỉ những ca khúc phát hành thành đĩa thường được tính làm chỉ số cho đến năm 1988, khi tạp chí Billboard cho các đĩa đơn chỉ phát qua radio được phép xuất hiện trên bảng xếp hạng.[1] Trong khi Nielsen đã bắt đầu thu thập dữ liệu về doanh số kĩ thuật số từ năm 2003 cho một bảng xếp hạng riêng mang tên Digital Songs, thì phải đến bảng xếp hạng ngày 12 tháng 2 năm 2005, doanh số kĩ thuật số mới được chính thức công nhận là một chỉ số tính điểm trên Hot 100, trong bối cảnh doanh thu đĩa thường truyền thống sụt giảm.[2] Ngày 4 tháng 8 năm 2007, Billboard bổ sung thêm lượng stream trực tuyến vào phương thức tính điểm.[3]
Trong suốt thập niên 2000, có tổng cộng 129 đĩa đơn từng ngự trị ở ngôi đầu Hot 100. Mặc dù "Smooth" của Santana hợp tác với Rob Thomas đứng đầu bảng xếp hạng trong 2 tuần đầu tiên của năm 2000, bài hát lại không được tính là đĩa đơn quán quân của thập niên 2000 vì nó đã leo lên ngôi đầu Hot 100 vào tháng 10 năm 1999. Do đó, ca khúc chỉ được tính là đĩa đơn quán quân của thập niên 1990.[4] Nhìn chung, thập kỷ chứng kiến sự thống trị của các bản nhạc hip hop và R&B, cùng với sự giao thoa giữa nhạc pop và nhịp điệu dance, thay thế xu hướng ballad truyền cảm của thập niên 1990.[5] Trong khi nửa đầu của thập niên 2000 chứng kiến sự thích ứng của doanh số đĩa thường, thì nửa sau lại chào đón sự thống trị của doanh số streaming và kĩ thuật số. Thay đổi này xảy ra do sự phát triển của internet, dẫn đến việc âm nhạc được phân phối rộng khắp trên các trang bán hàng và nền tảng stream trực tuyến.[6]
Trong suốt thập kỷ, Usher là nghệ sĩ thành công nhất khi tích lũy 7 ca khúc quán quân và có 41 tuần ngự trị ở ngôi đầu, nhiều hơn bất kì đồng nghiệp nào khác. Beyoncé xếp kế tiếp với 5 bài quán quân và 36 tuần xếp đầu, nhiều nhất trong số các nhạc sĩ nữ. Những nghệ sĩ khác có ít nhất 4 ca khúc quán quân là Rihanna (5 bài) và Mariah Carey, Alicia Keys, 50 Cent, Ludacris, Nelly và Justin Timberlake (4 bài); các nghệ sĩ khác trụ ở đầu bảng xếp hạng hơn 20 tuần là The Black Eyed Peas (26), Nelly (23), 50 Cent (23) và Alicia Keys (22). "We Belong Together" của Mariah Carey là đĩa đơn thành công nhất thập niên trên Hot 100, với 14 tuần không liên tục ở ngôi quán quân năm 2005.[A] "Yeah!" của Usher hợp tác với Lil Jon và Ludacris cùng bài "Boom Boom Pow" của The Black Eyed Peas đồng hạng hai cho thành tích nhiều tuần quán quân cao thứ hai (12 tuần/bài).
Danh sách cụ thể[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng chú dẫn ♪ – Đĩa đơn quán quân cuối năm ♪ – Đĩa đơn thành công nhất thập kỷ[5]← th.niên 1990 • 2000 • 2001 • 2002 • 2003 • 2004 • 2005 • 2006 • 2007 • 2008 • 2009 • th.niên 2010→ |
Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]
Nghệ sĩ có nhiều tuần quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Các nghệ sĩ liệt kê dưới đây có nhiều tuần quán quân nhất trên bảng xếp hạng. Một số nghệ sĩ đạt thành tích quán quân cả với vai trò nghệ sĩ chính lẫn làm khách mời. Chẳng hạn như bài "Umbrella" của Rihanna hợp tác với Jay-Z được tính cho cả hai nghệ sĩ vì tên của họ của đều được ghi công trên đĩa đơn. Cách tính này cũng áp dụng cho những thống kê kế tiếp.
Usher | 41 |
Beyoncé | 36 |
The Black Eyed Peas | 26 |
Nelly | 23 |
50 Cent | |
Alicia Keys | 22 |
Jay-Z | 20 |
Mariah Carey | 19 |
Rihanna |
Nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Trong khi một số nghệ sĩ xuất hiện ở vị trí quán quân trong vai trò nghệ sĩ đơn ca hoặc thành viên của một nhóm nhạc, họ chỉ được tính cho phần nghệ sĩ đơn ca. Chẳng hạn như Justin Timberlake giành vị trí đầu bảng với 4 đĩa đơn ghi công nghệ sĩ đơn ca và 1 đĩa đơn ghi công thành viên của N Sync, thì phần ghi công cho N Sync không được tính.
| 7 |
| 5 |
| |
| 4 |
| |
| |
| |
| |
| |
| 3 |
| |
| |
| |
| |
| |
| |
| |
| |
| |
| |
|
Ca khúc quán quân lâu nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Mariah Carey | "We Belong Together" | 14 |
The Black Eyed Peas | "I Gotta Feeling" | |
Eminem | "Lose Yourself" | 12 |
Usher hợp tác với Lil Jon & Ludacris | "Yeah!" | |
The Black Eyed Peas | "Boom Boom Pow" | |
Destiny's Child | "Independent Women" | 11 |
Beyoncé | "Irreplaceable" | 10 |
Flo Rida & T-Pain | "Low" | |
Santana hợp tác với The Product G&B | "Maria Maria" | |
Nelly hợp tác với Kelly Rowland | "Dilemma" | |
Ashanti | "Foolish" | |
Kanye West hợp tác với Jamie Foxx | "Gold Digger" |
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Chú giải- ^ Bảng xếp hạng cuối thập niên được tổng hợp dữ liệu từ bảng xếp hạng tính từ ngày 4 tháng 12 năm 1999 đến 28 tháng 11 năm 2009.[7]
- ^ a b c d e f g h i j k Tên nghệ sĩ, bài hát, ngày xếp hạng và các tuần đứng quán quân được công bố bởi tạp chí Billboard với hệ thống dữ liệu do Nielsen SoundScan tổng hợp.[4][10]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2002[11]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 của năm 2003[12]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2004[13]
- ^ "We Belong Together" còn là đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2005.[14]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2006[15]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2007[16]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2008[17]
- ^ Đĩa đơn thành công nhất trên Billboard Hot 100 năm 2009[18]
- ^ Trust, Gary (30 tháng 5 năm 2018). “In 1998, 'Iris,' 'Torn,' & Other Radio Smashes Hit the Hot 100 at Last After a Key Rule Change”. Billboard. Truy cập 30 tháng 5 năm 2018.
- ^ Trust, Gary (12 tháng 2 năm 2015). “Ten Years Ago, the Digital Download Era Began on the Hot 100”. Billboard. Truy cập 12 tháng 2 năm 2019.
- ^ Mayfield, Geoff (4 tháng 8 năm 2007). “Hot 100 Retools, Adding Internet Streams”. Billboard. 119 (31). tr. 43.
- ^ a b “Hot 100 55th Anniversary: Every No. 1 Song (1958-2013)”. Billboard. 2 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 12 năm 2018. Truy cập 23 tháng 8 năm 2014.
- ^ a b Leight, Elias (31 tháng 10 năm 2014). “The Top 20 Billboard Hot 100 Hits of the 2000s”. Billboard. Truy cập 19 tháng 4 năm 2019.
- ^ Caulfield, Keith (14 tháng 12 năm 2009). “Eminem, Beyoncé Grab Top Spots On Decade-End Charts”. Billboard. Truy cập 14 tháng 12 năm 2019.
- ^ Trust, Gary (11 tháng 12 năm 2009). “Ask Billboard: The 'Fascinating' Lady Gaga”. Billboard. Truy cập 11 tháng 12 năm 2019.
- ^ Bronson, Fred (30 tháng 12 năm 2000). “The Year in Charts”. Billboard. 112 (53). tr. YE-12.
- ^ Fred, Bronson (29 tháng 12 năm 2011). “The Year in Charts”. Billboard. 113 (52). tr. YE-10.
- ^ “All No. 1 Songs of the 2000s Page 3”. Billboard. 2 tháng 8 năm 2013. Truy cập 23 tháng 8 năm 2014.
- ^ Bronson, Fred (28 tháng 12 năm 2002). “The Year in Charts”. Billboard. 114 (52). tr. YE-8.
- ^ “Hot 100 Singles & Tracks”. Billboard. 115 (52). 27 tháng 12 năm 2003. tr. YE-30.
- ^ Bronson, Fred (25 tháng 12 năm 2004). “Usher, The King of Pop: Artist Sets Hot 100 Record with Strings of No. 1 Songs”. Billboard. 116 (52). tr. YE-6.
- ^ Mitchell, Gail (17 tháng 12 năm 2005). “Green Day, 50 Cent Come Up Big in Vegas”. Billboard. 117 (51). tr. 21.
- ^ “Hot 100 Songs”. Billboard. 118 (51). 23 tháng 12 năm 2006. tr. YE-44.
- ^ “Hot 100 Songs of 2007”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập 3 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Hot 100 Songs of 2008”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập 6 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Hot 100 Songs of 2009”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 5 tháng 10 năm 2012. Truy cập 5 tháng 10 năm 2019.