Các chỉ tiêu kỹ thuật của thuốc mỡ, kem bao gồm

1. Đại cương

Thuốc bôi điều trị ngoài da rất phong phú, đa dạng và  có các nguồn gốc sau:

+ Nguồn gốc hoá học:

– Vô cơ: kim loại, muối kim loại, á kim và các dẫn xuất của chúng như các oxyt, axit.

– Hữu cơ: các chất béo,  chất thơm, aldehyt, axeton, phenol, axit…

+ Các chất thảo mộc.

+ Các chất tổng hợp, bán tổng hợp.

2. Cơ chế tác dụng của thuốc bôi ngoài da

+ Làm tăng cường hay hạn chế, thậm chí cản trở sự bốc hơi nước qua da. Có loại làm tăng diện tích tiếp xúc của da, giúp bốc hơi nước qua da dễ dàng hơn,  làm mát da, chống sự ngưng tụ máu, giảm viêm. Ngược lại có loại thuốc bôi  làm bít da, hạn chế bốc hơi mồ hôi, làm tăng xung huyết da.

+ Ảnh hưởng tới tuần hoàn da, gây giãn mạch hoặc co mạch.

+ Tuỳ theo dạng thuốc và tá dược, thuốc sẽ ngấm vào da nhiều hay ít, nông  hay sâu.

Nhưng thường cả 3 loại tác dụng trên cùng phối hợp với nhau. Ví dụ: loại thuốc hồ, đồng thời làm tăng cường bốc hơi nước ở da, làm mát da, làm tản huyết, nhưng lại không cho phép thuốc ngấm sâu vào da. Ngược lại, thuốc mỡ làm cản trở bốc hơi nước ở da, gây xung huyết, giãn mạch.

+ Cần chú ý đến tác dụng lý hoá học của thuốc:

+ Thuốc làm thay đổi pH của da.

+ Thuốc có thể ảnh hưởng đến quá trình oxy hoá khử trong tế bào, do sử dụng thuốc khử  oxy hoặc nhượng oxy.

+ Thuốc bôi ngoài da còn có tác dụng toàn thân, gây nên những biến đổi sinh học nhất định, do thuốc ngấm vào dịch lâm ba, vào máu, tác động lên đầu dây thần kinh thụ cảm ngoại vi, hoặc tác động lên các trung tâm của thần kinh thực vật.

Như vậy, thuốc bôi ngoài da có cả tác dụng tại chỗ và toàn thân, chỉ định và sử dụng thuốc bôi ngoài da cần hết sức cẩn thận.

3. Sự hấp thu của thuốc qua da

+ Lớp “phim mỡ” trên da có ái tính với nước, do đó các chất nước vẫn có thể ngấm qua da được, nhưng các chất hoà tan trong mỡ (các muối thủy ngân, muối chì) dễ ngấm hơn.

+ Lớp sừng đóng vai trò một màng hữu cơ là trở ngại chính đối với sự hấp thu chất nước, để đảm bảo một sự hấp thu tốt qua lớp sừng, cần chú ý độ pH của thuốc (pH của lớp sừng thì toan rõ rệt: pH = 4, pH của trung bì thì hơi kiềm).

+ Thuốc còn ngấm qua da theo đường nang lông, tuyến bã, người ta đã chứng minh rằng: một chất muối vào cơ thể để phát huy tác dụng phải thông qua vùng da có nhiều mạch máu. Xoa, miết thuốc lên da tạo thuận lợi cho sự hấp thu thuốc, nhất là dạng thuốc mỡ.

+ Các vùng da có tổn thương hấp thu thuốc khác vùng da lành, vẩy tiết dày, tổ chức xơ sẹo hay quá sản lớp sừng hạn chế thuốc ngấm qua da.

+ Sự hấp thu thuốc qua da còn phụ thuộc vào đặc tính của các chất hóa học được sử dụng, các chất dễ bay hơi như clorofoc, iốt, thuỷ ngân sẽ được hấp thụ mạnh, các chất hoà tan trong mỡ sẽ ngấm vào da chậm hơn, các chất muối hoà tan trong nước sẽ ngấm vào da, đi vào hệ tuần hoàn.

Tóm lại: sự hấp thu của thuốc qua da phụ thuộc vào trạng thái lớp sừng, lớp mỡ bao phủ lên da, trạng thái các phần phụ của da, độ kiềm toan của da, đặc tính của các hoạt chất được sử dụng, dạng thuốc và dung môi được dùng, phản ứng của các thuốc đó trên da và hiện tượng phân ly ion của chúng. Ảnh hưởng và tác dụng phối hợp các yếu tố trên sẽ quyết định mức hấp thu của da và tác dụng của các loại thuốc bôi ngoài da.

4. Các dạng thuốc bôi

4.1. Cấu tạo chung của một công thức thuốc bôi

Thường gồm 2 thành phần chính:

+ Hoạt chất: có tác dụng điều trị, như iốt có tác dụng diệt nấm, axit salicylic làm bong vẩy…

+ Tá dược: là phương tiện vận chuyển  hoạt chất, đưa dẫn hoạt chất ngấm vào da, bản thân tá dược không có tác dụng điều trị, nhưng nó vẫn có một vai trò quan trọng, thuốc ngấm nông hay sâu phụ thuộc vào dạng thuốc, tá dược được dùng trong công thức thuốc bôi.

Tá dược thường được dùng là: nước, cồn, vaseline, lanoline, bột…

Khi chọn tá dược cần chú ý tác dụng lý, hoá học của hoạt chất, tính hoà tan và tương kỵ.

4.2. Các dạng thuốc bôi thông dụng nhất gồm

+ Dạng dung dịch (solutions).

+ Bột (poudres, powder).

+ Thuốc mỡ (pommades, ointment.).

+ Thuốc hồ (pates).

+ Kem (crème, cream).

+ Thuốc dầu (huiles).

+ Một số dạng khác: tẩm gạc, pha dung dịch (để ngâm, tắm).

4.2.1. Dung dịch (solutions)

Hoạt chất được pha trong tá dược thường là các dung môi lỏng thành một chất lỏng đồng đều, không vón, không tủa.

Tá dược thường là nước, cồn, đôi khi là các chất hoà tan dễ bốc hơi (ête, axêton, clorofoc, đôi khi dùng glycerin), các chất này ngấm mạnh.

+ Dung dịch trong nước: tá dược thường dùng là nước cất, nên dùng loại nước cất mới chế, có độ pH trung tính, trong nhiều trường hợp còn dùng dung dịch đẳng trương so với huyết thanh người bệnh, muốn vậy cho thêm vào dung dịch một lượng natri clorua hoặc một muối trung tính khác, hoặc một chất đường (glucô, saccarô).

Với một số chất nước, không tạo thành dung dịch thực sự mà tạo thành dung dịch giả, còn gọi dung dịch keo (solutions colloidales) trong đó có những hạt vô cùng bé, treo lơ lửng trong dung dịch. Các chất dạng albumin và dẫn xuất các loại xà phòng, các chất màu hoà vào nước sẽ cho những dung dịch keo.

+  Dung dịch trong cồn: thường dùng loại cồn 30°- 70°.

– Dung dịch trong cồn lợi hơn dung dịch trong nước là ngấm sâu hơn và dễ bốc hơi hơn, nhưng nếu dùng loại cồn mạnh có thể gây kích thích da và khô da do tẩy mỡ quá nhiều.

– Cồn được dùng để hoà tan một số muối khoáng, nhiều chất hữu cơ, thảo mộc, cồn làm cô đặc albumin có tác dụng sát trùng.

+ Một số dung dịch:

– Dung dịch jarish gồm có: axit boric 20 gam, glyxêrin 40 gam, nước cất vừa đủ 1000 gam.

– Dung dịch Milian gồm: xanh mêtilen, tím gentian, rivanol, như nhau (nn) 1 g, cồn 70° 10 gam, nước cất vừa đủ 1000 gam.

– Dung dịch Castellani: fuschin, axit boric nn 0,6 gam, axit phenic, axêton, (nn) 1,0 gam, resocxin, cồn 70° (nn) 3,0 gam, nước cất 50 gam.

Nhìn chung dung dịch có tác dụng nông, nhất thời thường dùng trong giai đoạn cấp tính hoặc bán cấp.

+ Một số cách sử dụng dung dịch như sau:

– Đắp gạc: phủ lên vùng tổn thương 8 – 12 lớp gạc, liên tục tưới, rỏ dung dịch thuốc vào đó tạo môi trường ẩm ướt dung dịch thuốc trong vòng 24h – 72h. Đắp gạc có tác dụng làm giảm viêm nề, chống sung huyết, chống chảy nước, sát khuẩn, chống ngứa, sạch mủ, bở vẩy tiết thường dùng cho tổn thương đang ở giai đoạn cấp, viêm mạnh, chợt loét, chảy dịch, nhiều vẩy tiết mủ.

– Gạc lạnh: cho chất thuốc vào nước đun sôi để nguội, dùng gạc thấm nước đó đắp lên độ 5 – 10 phút, 3 – 4 lần mỗi ngày, có tác dụng giảm viêm trong trường hợp viêm cấp tính, chảy nước nhiều như chàm cấp tính.

– Gạc nóng: tẩm gạc bằng nước nóng đắp lên da, làm giãn mao mạch, tăng cường thực bào, dịu viêm nhiễm.

– Dung dịch dùng để bôi lên da có tác dụng sát khuẩn như dung dịch Milian, dung dịch tím mêtin 1%.

– Ngâm, tắm:

Ngâm và tắm dung dịch thuốc tím pha loãng 1/10.000 để điều trị các bệnh da nhiễm khuẩn. Tắm bằng hơi lưu huỳnh tân sinh với tỉ lệ thích hợp điều trị ghẻ.

4.2.2. Thuốc bột (poudres, powder)

Có tác dụng làm mát da, chống xung huyết, giảm viêm, hút nước làm khô da,  làm giảm cảm giác chủ quan (ngứa, nóng…).

Tá dược thường dùng là hai loại  bột: bột thảo mộc và bột khoáng chất.

+ Bột thảo mộc thường dùng là bột gạo, bột mỳ, bột vỏ canh ki na, bột than. Bột gạo mịn hơn bột mỳ, có tác dụng hút nước rất mạnh. Bột cây canh ki na có tác dụng se da, sát trùng, hút nước mạnh. Bột than có khả năng hút nước, chống thối ruỗng khá tốt.

+ Bột khoáng chất: thường hay được dùng hơn.

Những loại bột khoáng chất chính là:

– Bột tan (talc) tức magiê silicat tự nhiên, hay dùng lẫn với kẽm oxyt, tác dụng hút nước và cách nhiệt.

– Bột kaolin, tức alumin silicat tự nhiên có tính hút nước.

– Bột magiê cacbonat có tính hút nước rất mạnh.

– Bột dermatol tức bismuth sous gallat là loại bột màu vàng.

Các hoạt chất đặc hoặc lỏng được trộn lẫn dễ dàng với các bột nói trên, tạo thành một thuốc bột đồng đều, mịn màng.

Thường dùng thuốc bột rắc lên trên tổn thương đang viêm nhiều, cấp tính hoặc đang chảy nước. Thuốc bột còn dùng để rắc vào vết loét lâu lành. Ví dụ: bột talc menthol 1%  chống ngứa (menthol 1 gam, bột talc, oxyt kẽm nn vừa đủ 100 gam).

4.2.3. Thuốc mỡ (pommade, ointment)

+  Là dạng thuốc bôi ngoài da quan trọng và phổ biến nhất.

+ Tá dược là các chất béo (vaseline, lanonine…), tỉ lệ bột hoạt chất < 30%.

+ Thuốc mỡ làm tăng khả năng hấp thu của da, ngấm sâu hơn các dạng thuốc khác nhiều, mềm da, nhưng, làm trở ngại sự bài tiết của da, gây bít da, hạn chế bốc mồ hôi, gây xung huyết.

Không dùng dạng thuốc mỡ trên các tổn thương đang ở giai đoạn cấp tính hoặc chảy nước. Thường dùng dạng thuốc mỡ cho tổn thương giai đoạn mãn tính.

Các tá dược thường dùng là:

– Mỡ lợn (axonge): dễ dàn mỏng, dễ ngấm, ít gây kích thích da, để lâu trở thành toan có mùi khó chịu, bảo quản  bằng cách cho thêm axit benzoic.

– Mỡ len cừu (lanoline): màu trắng ngà vàng, có mùi đặc biệt, chảy ở 40oC, có ái tính với nước, hấp thụ một khối lượng nước lớn, rất dễ ngấm qua da, thường trộn với vaselin để thuốc mềm và dễ dàn lên da hơn…

– Vaselin: là chất chiết xuất từ cặn cất dầu hoả, màu trắng, trong suốt, mềm, chảy ở 35oC, không có mùi vị, trung tính, không bị axit và kiềm phá hủy, không bị ảnh hưởng của không khí, độ ẩm, không tan trong nước, vaselin không hút nước, vì vậy khi pha chế loại thuốc mỡ có hoạt chất hoà tan trong nước, phải trộn lẫn vaselin với lanoline.

– Tỉ lệ bột hoạt chất trong công thức mỡ < 30%.

+ Ví dụ về thuốc mỡ:

– Mỡ Whitefield (còn gọi mỡ benzosali):

Axit benzoic 6 gam.

Axit salicylic 3 gam.

Vaselin vừa đủ 100 gam.

Có tác dụng bong sừng, diệt nấm.

– Mỡ Arievitch:

Axit salicylic 6 gam.

Axit lactic 12 gam.

Vaselin vừa đủ 100 gam.

Có tác dụng tiêu sừng, diệt nấm, băng vào móng bị nấm.

4.2.4. Thuốc hồ (pâtes)

+ Thành phần gồm hoạt chất và mỡ (vaselin và lanolin) nhưng có nhiều bột hơn, thường tỉ lệ bột trong công thức hồ là 30% – 50%, các loại bột thường dùng để pha chế thuốc hồ là: oxyt kẽm, amidon, kaolin, canxi cácbonat, magiê cácbonat.

+ Tác dụng thoáng da hơn thuốc mỡ, không ngấm sâu bằng thuốc mỡ, làm giảm viêm, giảm sung huyết, chống ngưng tụ huyết, làm khô da, không hạn chế sự bài tiết và bốc hơi ở da, thường dùng cho tổn thương da ở giai đoạn bán cấp.

+ Ví dụ:

– Hồ Brocq: dùng trong viêm da,eczema.

Kẽm oxyt            30 g.

Lanoline              30 g.

Vaseline                        40 g.

– Hồ Saloxil         3%: dùng trong eczema bán cấp.

Ichtyol                 3 gam.

Axit salicylic          3 gam.

Oxyt kẽm            15 gam.

Bột tacl               15 gam.

Vaseline vừa đủ     100 gam.

4.2.5. Thuốc kem (creme, cream):

+ Có thể coi kem là một loại thuốc mỡ có thêm glycerin và nước.

Thành phần gồm có: tá dược là vaselin, lanolin, glycerin, stearat.

Có tác dụng mát da, bảo vệ da, độ ngấm vừa phải. Thường dùng dạng thuốc kem cho tổn thương da giai đoạn bán cấp, dùng trong thẩm mỹ da.

+ Ví dụ: kem Dalibour sát khuẩn da.

Kẽm Sunfat           0,03 g.

Đồng Sunfat          0,0 6 g.

Kẽm oxyt           5 gam.

Lanolin                5 gam.

Nước vôi            10 gam.

Vaselin                10 gam.

4.2.6. Thuốc dầu (huiles, oil)

+ Chất pha trong tá dược là dầu olivơ, dầu lạc trung tính, dầu đu đủ tía, dầu vừng, có thể thêm bột 30 – 40%.

+ Tác dụng nông, dịu da. Dùng trong tổn thương cấp tính hoặc tổn thương nông.

+ Ví dụ: dầu kẽm.

Oxyt kẽm                 40 gam.

Dầu lạc            60 gam.

Có thể cho thêm rivanol 1%, hoàng đằng 3% để tăng tác dụng sát khuẩn.

4.2.7. Ngâm tắm (bain)

Sử dụng các dung dịch nói ở phần trên.

Ngâm: thường dùng cho các tổn thương ở đầu chi, mỗi ngày ngâm 1 – 2 lần.

Tắm cho trường hợp tổn thương toàn thân.

5. Một số biệt dược thuốc bôi ngoài da thường dùng

5.1. Thuốc sát khuẩn

– Dung dịch thuốc sát khuẩn dùng để ngâm rửa, đắp gạc các thương tổn da trợt loét, nhiễm khuẩn, chảy dịch, có mủ vẩy tiết như chốc lây, Eczema cấp nhiễm khuẩn:

Dung dịch rivanol 1o/oo, dung dịch (dd) yarish (có Axit boric3g, glycerin 40 ml, nước cất 1000ml), dd becberin 1%0, dd NaCl 9o/oo , dd KMnO4 1/4000, nước lá bàng, nước lá chè tươi.

– Dung dịch thuốc màu dùng để bôi vào các tổn thương da trợt loét , nhiễm khuẩn: dung dịch tím methyl 1%, dd xanh metylen 1%, dd Castellani, dd Milian.

– Kem mỡ kháng sinh bôi vào các tổn thương bệnh lý căn nguyên do vi khuẩn, hoặc nhiễm khuẩn khi tổn thương đã se khô: mỡ Chlorocid 1%, mỡ Tetracylin 1%, kem Silverin, kem Fucidin, kem Bactroban

5.2. Thuốc trị ghẻ

Dầu DEP (diethylphtalat), kem Eurax, dd pemethrin 1% dầu benzyl benzoat 33% dd, kem Kwell, mỡ diêm sinh 10% (cho trẻ em), 30% (cho người lớn).

5.3. Thuốc trị nấm hắc lào, nấm lang ben, nấm kẽ chân

– Cồn BSI 1,2,3%

– Cồn ASA, mỡ benzosali ( Whitefield).

Mỡ clotrimazol 1%, kem nizoral, kem lamisil, kem daktarin.

5.4. Thuốc trị eczema, viêm da

– Các dung dịch ngâm rửa, đắp gạc (đã nói ở trên) dùng cho eczema cấp trợt loét, chảy dịch, nhiễm khuẩn 3 – 5 ngày đầu.

– Các dung dịch thuốc màu (đã nói ở trên) bôi các tổn thương chợt loét, nhiễm khuẩn 7 – 10 ngày đầu.

– Hồ nước (thành phần oxyt kẽm, bột talc, glycerin, nước cất) mát da, giảm viêm, sát khuẩn làm khô tổn thương, che chắn bảo vệ vùng tổn thương, bôi ngày  2 – 3 lần dùng cho viêm da, eczema cấp.

– Kem mỡ corticoid: biệt dược kem Eumovat, kem Tempovate, Temproson, mỡ Flucinar, kem Benovate, mỡ Dermovate, mỡ Diproson, mỡ Celestoderm, Aristocort bôi eczema, viêm da giai đoạn bán cấp và mạn tính.

Kem mỡ corticoid + kháng sinh: mỡ Diprogenta, mỡ Celestoderm- neomycin, mỡ Flucort-N.

Kem mỡ corticoid + kháng sinh + chống nấm.

Mỡ Gentrison, Triderm, mỡ Endix, mỡ Ecodax.

5.5. Thuốc trị trứng cá

Eryfluid, Erythrogel, Dalacin T.

Metrogylgel, mỡ Panoxyl 2,5 – 5- 10 .

Kem Eclaran, Kem RetinA, mỡ Locacid, kem Erylik, kem Differin, kem Isotrex.

5.6. Thuốc trị vẩy nến

+ Mỡ Salicylic 2%, 3%, 5%.

+ Goudron, Coaltar.

+ Mỡ corticoid chỉ nên dùng 1 đợt 20 – 30 ngày bôi ngày 1 lần không bôi kéo dài quá. Không bôi loại mạnh, không bôi diện tích quá rộng để tránh tác dụng phụ.

– Mỡ Daivonex, Daivobet.

– Tazaroten.

5.7. Thuốc bôi trị mụn cóc

Dung dịch Duofilm, dd Collomark, dd Podophylin (chú ý bảo vệ quanh vùng da tổn thương bằng mỡ kẽm oxyde chẳng hạn, bôi thuốc đúng vào vùng tổn thương ngày 1 lần một đợt 3 ngày, tránh dây ra vùng da xung quanh gây trợt loét).

5.8. Thuốc bôi chống virus dùng cho écpét, zona

Kem mỡ acyclovir, mỡ Varrax.

5.9. Thuốc bôi điều trị rụng tóc liên quan Androgen

Dung dịch minoxidil.

Cồn chloralhydrat salicylic 3%.

5.10. Thuốc bôi chống xạm da, nám má

Mỡ leucodinin B 10%.

Kem Renova (bôi tối ngày 1 lần).

6. Một số điểm chú ý khi dùng thuốc bôi

+ Thuốc bôi không những có tác dụng tại chỗ mà còn có tác dụng toàn thân, thuốc bôi ngấm vào da, ngấm vào mạch máu, tác động vào thần kinh, qua đó tác động lên toàn bộ cơ thể (ví dụ: bôi mỡ salicylic diện rộng nên bệnh nhân thấy chóng mặt, nhức đầu…).

+ Sử dụng thuốc bôi ngoài da phải phù hợp với tính chất bệnh lý, giai đoạn bệnh, mức độ bệnh, vùng da, có khi cả tuổi, giới, thời tiết, nghề nghiệp. Ví dụ: eczema cấp đang trợt, chảy dịch, mủ, vảy tiết cần chỉ định dạng dung dịch đắp gạc, ngâm, rửa, thuốc màu… Eczema mãn dùng dạng mỡ giảm viêm, giảm cộm, bạt sừng, vùng nếp kẽ nên hạn chế bôi dạng mỡ gây lép nhép, bí da. Một số thuốc không bôi được ở vùng mặt, vùng sinh dục.

+ Với các bệnh căn nguyên bệnh sinh còn chưa rõ, nếu nhận định chính xác tổn thương, chỉ định thuốc bôi phù hợp có thể làm bệnh đỡ hoặc khỏi.

+ Với các tổn thương đang có nhiều dịch mủ, vẩy tiết nên cho ngâm rửa, đắp gạc các dung dịch sát khuẩn 1 – 3 – 5 ngày cho giảm viêm, sạch mủ, bở vảy tiết, sau đó chỉ định tiếp các thuốc bôi phù hợp với giai đoạn sau.

+ Không nên bôi một thuốc thời gian quá dài, cũng không nên liên tục thay thuốc làm khó đánh giá kết quả điều trị, cũng như nhận định chẩn đoán đúng sai… Thường một đợt bôi thuốc khoảng 10 – 15 ngày.

+ Cần lưu ý một số thuốc bôi cổ điển (goudron…) vẫn có tác dụng tốt, một số biệt dược mới có thể có tai biến tác dụng phụ chưa được nghiên cứu đầy đủ, chưa có nhiều kinh nghiệm sử dụng trên lâm sàng.

+ Theo dõi kỹ bệnh nhân trong thời gian dùng thuốc để có thể điều chỉnh kịp thời.

+ Theo dõi phản ứng da của từng bệnh nhân vì thuốc bôi có thể gây dị ứng.

CÁCH SỬ DỤNG MỠ CORTICOID BÔI NGOÀI DA

1. Đại cương

+ Năm 1962 Hydrocortisone được dùng lần đầu và từ đó corticoid tại chỗ.

Là thuốc chủ yếu dùng để điều trị các bệnh da có viêm. Theo thời gian mỡ corticoid ngày càng chứng tỏ tính hiệu quả và nó cũng an toàn nếu sử dụng một cách hợp lý.

+ Có nhiều dạng kem, mỡ corticoid bôi ngoài da có sẵn trên thị trường với nhiều tên biệt dược và độ mạnh chống viêm khác nhau.

+ Corticoid tại chỗ chia thành 7 nhóm dựa vào độ mạnh của hoạt tính chống viêm, nhóm 1 là mạnh nhất, nhóm 7 là yếu nhất.

(Các loại biệt dược thuộc nhóm 1 đến  nhóm 7 được trình bày ở phần cuối bài).

2. Cách lựa chọn và sử dụng thuốc bôi corticoid

+ Thành công hay thất bại trong điều trị phụ thuộc phần lớn vào việc lựa chọn corticoid bôi tại chỗ có độ mạnh phù hợp với tính chất bệnh lý, vùng da tổn thương.

+ Khi chọn lựa thuốc bôi Corticoids cần chú ý đến chẩn đoán là bệnh gì, vị trí mắc bệnh, lứa tuổi, vùng da để lựa chọn corticoid có độ mạnh phù hợp.

+ Một số bệnh như vẩy nến thể mảng và eczema ở bàn tay cần dùng loại corticoid bôi tại chỗ loại mạnh (nhóm 1), vẩy nến thể đồng tiền và lupus ban đỏ bôi corticoid nhóm mạnh (nhóm 1, 2).

Ngược lại viêm da da dầu dùng nhóm 5 – 7 (loại nhẹ) viêm da quanh mi mắt cũng dùng loại nhẹ 5 – 7.

+ Vị trí bàn chân bàn tay dùng nhóm loại mạnh (nhóm 1 – 3) vì da dày, trái lại vùng mặt, quanh mi mắt dùng nhóm loại nhẹ (5 – 7), vùng nếp kẽ nách bẹn, đáy chậu, nếp dưới vú vì ẩm ướt và hấp thu các viêm chỉ bôi thuốc nhẹ (5 – 7).

+ Thông thường bôi ngày 2 lần (có khi 3 – 4 lần).

Khi bôi mát xa nhẹ để thuốc ngấm vào da, thời gian bôi loại mạnh bôi trong vòng 2 tuần, loại nhẹ 5 – 7có thể bôi từ 2 – 6 tuần. Thường sau thời gian bôi 2 tuần nên đánh giá lại xem có đáp ứng tốt hay không.

+ Loại Corticoids tại chỗ siêu mạnh (nhóm 1) thường bôi 2 tuần sau đó cho nghỉ bôi 1 tuần để hạn chế tác dụng phụ (mỗi tuần không được dùng quá 45 – 60 gam) tức là kê đơn với số lượng giới hạn và theo dõi chặn chẽ.

Loại siêu mạnh này có thể dùng cho vảy nến mảng, eczema bàn tay bôi ngày 2 lần trong 2 tuần sau đó nghỉ thuốc 1 tuần nếu cần có thể dùng nhắc lại đến khi bệnh được kiểm soát.

+ Nếu bệnh da cần dùng loại corticoid bôi tại chỗ loại mạnh và vị trí vùng da dày (như bàn tay bàn chân) mà lại chỉ định loại corticoid bôi tại chỗ loại nhẹ thì không có kết quả, đây là lỗi thường gặp.

3. Phương pháp bôi thuốc

+ Trước khi bôi không cần rửa vùng tổn thương nếu vùng đó không bẩn, nếu rửa thì đợi da thật khô hãy bôi thuốc.

+ Thường bôi ngày 2 lần, sau khi bôi mỡ corticoid thì nên mát xa nhẹ để thuốc ngấm vào da.

+ Phương pháp bôi đơn thuần (Simple application) là bôi một lớp mỏng mỡ , kem corticoid xoa miết nhẹ mà không băng kín.

+ Phương pháp bôi vùi, băng kín (occlusive application).

Có tác dụng làm thủy hoá lớp sừng, làm tăng hấp thu corticoid và thường dùng có một số bệnh (như vẩy nến, eczema mạn liken hoá… dày sừng) và một số vị trí da dày (như bàn tay, bàn chân) để làm tăng hiệu quả chữa bệnh.

Cách làm: Sau khi bôi mỡ corticoid vào vùng tổn thương che kín bằng plastic từ 1 – 8 giờ thường băng kín vào ban đêm, lúc đi ngủ. Băng kín 1 đợt có thể từ          7 – 10 ngày hoặc cách nhật, cũng không nên băng vùi kéo dài quá vì 1 số ca có thể gây bí hơi, nhiễm khuẩn tụ cầu vùng da đó.

4. Tai biến, tác dụng phụ

+ Bôi corticoid tại chỗ có thể có tác dụng phụ sau:

– Viêm da tiếp xúc dị ứng (nhiều khi do chọn loại mỡ corticoid có lẫn kháng sinh neomycin và có thể neomycin gây nên viêm da tiếp xúc).

– Ngứa rát bỏng kích ứng, khô da (phần lớn do tá dược).

– Rậm lông.

– Giảm sắc tố.

– Hạt kê, viêm nang lông.

– Rạn da (Vergeture).

– Thiên đầu thống, đục thủy tinh thể (bôi vùng gần mắt chú ý bôi loại thật nhẹ tránh dây vào mắt và thời gian bôi ngắn).

– Hiện tượng bật bóng (Rebound phenomenon).

Ví dụ vảy nến bôi corticoid có giảm đỡ một thời gian sau lại tái phát nặng hơn.

– Trứng cá, trứng cá đỏ, viêm da quanh miệng.

– Vết trắng da do co mạch.

– Teo da và giãn mao mạch xuất huyết, giả sẹo hình sao, đường vạch rạn da.

– Nấm ghẻ biến dạng dễ nhiễm khuẩn.

+ Hấp thu hệ thống: bôi corticoid diện rộng và không kiểm soát có thể gây hấp thu hệ thống vào cơ thể sinh tác dụng phụ.

+Trẻ em dùng kem mỡ Corticoid chữa bệnh đã được dùng từ nhiều năm nay, trẻ em thường nhạy cảm hơn nên chú ý chỉ định loại nhẹ và tránh bôi diện rộng hoặc dài ngày gây hấp thu hệ thống, ức chế trục tuyến yên – dưới đồi.

5. Lựa chọn loại corticoid bôi tại chỗ theo bệnh

+ Nhóm 1 – 2:

Vảy nến.

Liken phẳng.

Lupus đỏ dạng đĩa.

Eczema bàn tay nặng.

Viêm da thần kinh.

Eczema dày sừng.

Liken xơ và teo.

Rụng tóc Pelade.

Eczema thể đồng tiền nặng.

Viêm da cơ địa người lớn dai dẳng Liken hoá.

+ Nhóm 3 – 5:

Viêm da cơ địa.

Eczema thể đồng tiền.

Eczema khô.

Viêm da  ứ trệ.

Viêm da da dầu.

Liken xơ teo âm đạo.

Loét kẽ (đợt ngắn).

Nấm (đợt ngắn).

Ghẻ (sau khi diệt ghẻ).

Loét kẽ (nặng).

Viêm quanh hậu môn (nặng).

Viêm da mặt nặng.

+ Nhóm 6 -7:

Viêm da quanh mắt.

Viêm da vùng tã lót.

Viêm quanh hậu môn nhẹ.

Loét kẽ nhẹ.

Tuy nhiên việc lựa chọn còn tùy thuộc vị trí mắc bệnh và các yếu tố khác, ví dụ: vùng mặt chỉ dùng thuốc bôi corticoid loại nhẹ, trẻ em cũng chỉ dùng loại nhẹ và bôi ngắn ngày.

6. Danh mục các nhóm thuốc corticoid bôi ngoài da theo độ mạnh:

+ Nhóm 1: siêu mạnh.

Condrane tape (flurandrenolide), kem mỡ temovate 0,05 (clobetasol propionate),

Kem mỡ ultravate 0,05 (halobetasol propionate), mỡ diprolene 0,05 (betamethasone dipropionate).

+ Nhóm 2, nhóm 3: loại mạnh.

Mỡ alphatrex 0,05 (betamethasone dipropionat).

Kem mỡ halog 0,1 (hacinonide).

Kem mỡ maxyvate 0,05 (diflorasone diacetate).

Mỡ maxivate 0,05 (betamethason dipropionate).

Kem mỡ topicort 0,25 (desoximetasone).

Kem mỡ aristocort 0,5 (triamcinolone acetonide).

Mỡ Diprosone 0,05 (bethamethason dipropionate).

+ Nhóm 4, nhóm 5 (loại vừa).

Mỡ benison 0,025 (betamethazon benzoate).

Mỡ cordran 0,05 (flurandrenolide).

Mỡ kem synalar 0,025 (fluocinolon acetonide).

Kem mỡ halog 0,025.

Kem cloderm 0,1 (clocortolone pivalate).

Mỡ kenalog 0,025.

Kem valisone 0,1 (betamethason valerate).

Kem aristocort 0,1.

+ Nhóm 6 nhóm 7 (loại nhẹ)

Kem celestone 0,2 (bethamethason valerate).

Kem medrol 0,25 (methyl prednisolon).

Kem synalar 0,01.

Kem kenalog 0,025.

6. Cách tính số lượng mỡ, kem corticoid bôi tại chỗ

Các chỉ tiêu kỹ thuật của thuốc mỡ, kem bao gồm