Chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật

Tất cả các cá nhân trưởng thành trong xã hội đều có nhu cầu việc làm để đảm bảo mức sống cho bản thân. Người khuyết tật cũng vậy. Tuy nhiên, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Tức là, người khuyết tật không có khả năng lao động hiệu quả (xét trên khía cạnh thể chất) so với các cá nhân là người lao động bình thường, vì vậy người khuyết tật không thể thực hiện các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, hoặc các công việc đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm. Đối với từng dạng khuyết tật, các bộ phận khuyết tật có ảnh hưởng nhất định đến các nhóm công việc khác nhau khiến người khuyết tật không thể thực hiện các công việc này (ví dụ: Người khuyết tật nói không thể hát, tức không thể làm ca sĩ).

Do những suy giảm chức năng của bộ phận dẫn đến thu hẹp phạm vi công việc mà người khuyết tật có thể thực hiện, những người này khó có cơ hội việc làm hơn so với những người lao động khác. Vì vậy vấn đề tạo việc làm cho người khuyết tật trở nên quan trọng hơn và cần được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và xã hội cho hoạt động tạo việc làm cho người khuyết tật.

Người khuyết tật tự tạo việc làm là việc người khuyết tật tự tạo ra công việc và kiếm lợi nhuận từ công việc đó cho mình và cho những người lao động khác mà không cần phải trở thành người lao động trong quan hệ lao động với người sử dụng khác.

Hộ gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật là các nhóm cá nhân (có quan hệ được nêu trên) thực hiện hoạt động kinh doanh, sản xuất nhỏ lẻ, tạo công việc, việc làm cho người khuyết tật trong quá trình sản xuất, kinh doanh (và có trả tiền lương, thù lao cho người khuyết tật hoàn thành công việc như những người lao động khác).

Theo Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/04/2012 của Chính phủ ngày 10/04/2012 của Chính phủ, người khuyết tật tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được hưởng các chính sách sau:

- Vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Điều kiện, thời hạn và mức vốn cho vay thực hiện theo các quy định hiện hành áp dụng đối với các dự án vay vốn giải quyết việc làm: Người khuyết tật tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi khi chứng minh được việc đã tạo việc làm cho người khuyết tật (có số lượng người lao động là người khuyết tật cụ thể hoặc người khuyết tật tự tạo việc làm phải chứng minh được mình là người khuyết tật bằng Giấy chứng nhận khuyết tật). Người khuyết tật tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật cũng không được hưởng mức vốn vay ưu đãi trong tất cả các trường hợp vay vốn từ Ngân hàng Chính sách mà chỉ được hưởng mức vay vốn ưu đãi trong trường hợp vay vốn giải quyết việc làm, tạo việc làm, sản xuất, kinh doanh.

- Hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm: Người khuyết tật tự tạo việc làm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được cơ quan Nhà nước, các tổ chức về khoa học, công nghệ trong xã hội hỗ trợ hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ chuyển giao công nghệ sản xuất, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đối với người khuyết tật.

Đối với các sản phẩm do người khuyết tật làm ra, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm do người khuyết tật làm ra.

Xem thêm: Tổng hợp bài viết về Luật người khuyết tật

Luật Hoàng Anh

Dần làm chủ cuộc sống

Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong số người khuyết tật, có 58% là phụ nữ, 42% là nam giới. Đa số người khuyết tật trong độ tuổi lao động sống ở nông thôn, công việc của họ chủ yếu là phụ giúp gia đình làm nông, lâm, ngư nghiệp, công việc không ổn định, thu nhập thấp. Có 40% người khuyết tật ở độ tuổi lao động và còn khả năng lao động, trong đó chỉ có 30% số người này là có việc làm, tạo thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Như vậy, nước ta còn khoảng 2 triệu người khuyết tật có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động, chưa có việc làm.

Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều đề án, chính sách về an sinh xã hội, tạo việc làm, dạy nghề cho người khuyết tật. Đặc biệt, ngày 20.6.2017 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 899/QĐ-TTg “Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - việc làm và an toàn lao động giai đoạn 2016 - 2020”. Trong “Hỗ trợ tạo việc làm cho người khuyết tật” là một nội dung quan trọng trong Dự án Phát triển thị trường lao động và việc làm thuộc chương trình này.

Thực hiện chính sách trên nhằm tạo việc làm cho người khuyết tật trong năm 2018, Cục Việc làm, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ký hợp đồng đặt hàng với 28 cơ quan, đơn vị với tổng kinh phí là 12,5 tỷ đồng để thực hiện các hoạt động hỗ trợ lao động di cư, hỗ trợ tạo việc làm cho lao động thanh niên, người dân tộc thiểu số, phụ nữ nghèo nông thôn và người khuyết tật.

Theo đánh giá của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách trên hiện nay số cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật đã tăng lên cả về số lượng, quy mô và chất lượng đào tạo, công tác dạy nghề cho người khuyết tật từng bước được xã hội hóa với sự tham gia của khu vực tư nhân. Tính đến đầu quý III.2018, có 156 cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho người khuyết tật, trong đó có 55 cơ sở dạy nghề chuyên biệt, 200 cơ sở có tham gia dạy nghề cho người khuyết tật, nhiều trường hợp người khuyết tật được xem xét để được miễn giảm học phí.

Ngoài ra, các hội, đoàn thể cũng tổ chức dạy nghề, giải quyết việc làm cho hàng nghìn người khuyết tật. Đáng ghi nhận, nhiều người khuyết tật tìm kiếm được việc làm, dần dần làm chủ cuộc sống, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội. Đặc biệt, nhiều người khuyết tật trở thành người đứng đầu các cơ sở sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho nhiều người cùng cảnh ngộ khác tại địa phương.

Chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật

 Cần có chính sách phù hợp

Mặc dù vậy, bên cạnh đó vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức trong việc giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Trong đó, nổi lên là tỷ lệ người khuyết tật sau đào tạo nghề tìm được việc làm còn thấp và chủ yếu là tự tạo việc làm. Nguyên nhân do 80% người khuyết tật sống ở nông thôn, trình độ văn hóa thấp, thiếu thông tin về việc làm. Bản thân người khuyết tật thường sống khép kín, thụ động, cộng thêm những rào cản xã hội như thái độ phân biệt, đối xử... nên không quan tâm đến việc tìm việc làm.

Để giải quyết bài toán việc làm cho người khuyết tật, phản ánh từ nhiều địa phương cho rằng, việc xây dựng chính sách cũng như hỗ trợ cho người khuyết tật cần phải nhìn nhận từ quan điểm coi người khuyết tật không chỉ là đối tượng cần được ưu tiên, mà họ còn cần được nhìn nhận là lực lượng lao động tiềm năng, có vai trò tích cực với xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người khuyết tật không phải là giúp đỡ, là làm từ thiện... mà là đáp ứng nhu cầu chính đáng là được làm việc và được ghi nhận của họ.

Theo đó, Nhà nước ban hành các chính sách quan tâm đến người khuyết tật, có cơ chế chính sách về tài chính hỗ trợ người khuyết tật học nghề, hỗ trợ người sử dụng lao động nhận người khuyết tật vào làm việc, hỗ trợ những người khuyết tật có ý tưởng mở cơ sở sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của tất cả mọi người trong xã hội, nhằm xóa bỏ cảm giác mặc cảm tự ty của gia đình và bản thân người khuyết tật, giúp họ hòa nhập cộng đồng, tìm được việc làm phù hợp, đóng góp sức mình vào việc xây dựng và phát triển đất nước…

Hỗ trợ tạo việc làm, nhằm tìm cho người khuyết tật một công việc phù hợp không chỉ giúp nhóm lao động này tự tin vượt lên hoàn cảnh, hòa nhập cộng đồng, góp phần giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội… mà còn khẳng định vai trò của họ, giúp họ tham gia đóng góp vào các hoạt động xã hội, góp phần vào công cuộc xây dựng phát triển đất nước. Chính vì vậy, cần phát huy hơn nữa vai trò của các trung tâm đào tạo nghề. Cùng với đó các cơ quan chức năng xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật để có những phân tích, đánh giá nhu cầu học nghề, việc làm của từng nhóm đối tượng, từ đó có chính sách hỗ trợ phù hợp, hiệu quả.

ĐỀ BÀI: Chính sách việc làm cho lao động là người khuyết tật tạiđịa phươngMỤC LỤCI - ĐẶT VẤN ĐỀ1.2.3.Một số khái niệmĐặc điểm của người khuyết tật, lao động khuyết tậtVai trò chính sách việc làm cho lao động là người khuyết tậtII - Thực trạng NKT Ở TỈNH HẢI DƯƠNG1.2.3.Thực trạng NKT tỉnh hải dương1.1.Số lượng NKT1.2.Hoàn cảnh sống1.3.Việc làmTình trạng chính sáchĐánh giáIII- GIÁI PHÁPI-Đặt vấn đề1.Một số khái niệm• Người khuyết tật là gìNgười khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiềubộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiệndưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặpkhó khăn• Việc làm cho người khuyết tật là gìDạy nghề gắn với giải quyết việc làm không chỉ giúp ổnđịnh cuộc sống của người khuyết tật, mà còn góp phầnkhẳng định giá trị của họ đối với gia đình, xã hội.Chính sách việc làm cho người lao động là gì- Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồichức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, cóviệc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểmcủa người khuyết tật.- Nhà nước khuyến khích người khuyết tật tự tạo việclàm, hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tậtĐặc điểm của người khuyết tật, lao động khuyết tậta. Nguyên nhân NKT- Bẩm sinh di truyền- Dị tật- Tai nạn giao thông- Tại nạn lao động- Thương tật do chiến tranhb. Phân loại NKT- Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chứcnăng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạnchế trong vận động, di chuyển.- Khuyết tật nghe, nói: là tình trạng giảm hoặc mất chứcnăng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếngvà câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổithông tin bằng lời nói.•2.- Khuyết tật nhìn: là tình trạng giảm hoặc mất khả năngnhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vậttrong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.- Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn trigiác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và cóbiểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.- Khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năngnhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc khôngthể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sựviệc.- Khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chứcnăng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, họctập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp đượcquy định các dạng khuyết tật trên.3.Vai trò chính sách việc làm cho lao động là người khuyếttật--Nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của người khuyết tật,đồng thời tạo cơ hội việc làm cho người khuyết tật, từ đógóp phần bảo vệ, chăm sóc và giúp đỡ người khuyết tậtsống độc lập, hòa nhập cộng đồng, tham gia bình đẳng vàocác hoạt động xã hội.Giảm tỷ lệ thất nghiệp của người khuyết tật từ đó, hướngđến giảm tỷ lệ thất nghiệp chungTạo điều kiện để NKT được lao động, làm việc 1 cáchbình đẳngTạo tiền đề để NKT có sự tự tin, bỏ qua sự bi quan, tự ticủa bản thângiúp ổn định cuộc sống của người khuyết tật, và còn gópphần khẳng định giá trị của họ đối với gia đình, xã hội-Giúp đỡ những người khuyết tật tăng cường hay khôi phụcviệc thực hiện các chức năng xã hội của họ, huy độngnguồn lực, xác định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợNKT, gia đình và cộng đồng triển khai hoạt động chămsóc trợ giúp họ một cách hiệu quả, vượt qua nhwuxng ràocản, đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động xã hộitrên nền tảng sự công bằng như những người khác trongxã hộiII - Thực trạng NKT Ở TỈNH HẢI DƯƠNGĐất nước ta trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt lạithường xuyên bị thảm họa như: thiên tai bão lụt, hỏa hoạn,tai nạn giao thông… Vì vậy, người khuyết tật có chiềuhướng không giảm. Tỉnh Hải Dương là một trong nhữngtỉnh có tỷ lệ NKT tương đối lớn.1. SỐ LƯỢNG NKTTổng số NKT trên địa bàn tỉnh là 26.156 người, chiếm tỷlệ 1,6% dân số toàn tỉnh.HUYỆNChí LinhTP Hải DươngNam SáchThanh HàNinh GiangThanh MiệnKim ThànhTứ KỳGia LộcCẩm GiàngBình GiangKinh mônSỐ LƯỢNG3.638 người923 người1.785 người2.319 người1.402 người1.916 người1.823 người3.108 người3.258 người1.718 người1.966 người2.291 ngườiCHIẾM2,5%0,7%1,3%1,4%1%1,5%1,5%1,9%2,2%1,4%1,9%1,4%------Trong đó:Phân bố theo nhóm tuổi+ NKT ở độ tuổi lao động từ 16-40 là tuổi cao nhất, chiếm32,7% tổng số NKT+ NKT ơ nhóm tuổi từ 1-5 tuổi là thấp nhất 487 người,chiếm 1,9% chủ yếu dị tật bẩm sinhPhân bố theo giới+nam 11.212 người( chiếm 42,9%)+nữ 14.944 người (chiếm 57.15%)Phân bố theo nghề nghiệp+NKT không có khả năng lao động 15.456 người(chiếm58,1% tổng số NKT)+ NKT chủ yếu ở nông thôn làm ruộng 7.234 người(chiếm27,7%)Phân loại NKT theo từng nhóm tàn tật+ NKT về vận động cao nhất 7.413 người(chiếm 28,3%+ NKT về mất cảm giác là thấp nhất 228 người(chiếm0,9%)Phân bố mức độ tàn tật của NKT+ mức độ 0 là 10.830 người(chiếm 41,4% tổng số NKT)+ mức độ 1 là 9.480 người(chiếm 36,2%)+ mức độ 2 là 5.846 người( chiếm 22,4%)Phân loại mức độ khuyết tật theo nhóm---+ nhóm khó khăn vận động cao nhất là 7.413 người+ nhóm mất cảm giác có số lượng thấp nhất là 228 người+ mức độ tàn tật của nhóm khó khăn vận động chủ yếu ởmức độ 2(40,5%) và mức độ 1(31,9%)+ mức độ mất cảm giác lại chủ yếu ở mức độ 0 và 1:41,7% và 36,8%Phân loại theo nhsom khó khăn vận động+ trong nhóm khó khăn vận động chủ yếu là liệt 1 chi dưới1.853 người, chiếm 25%; tiếp đến là bại não 1.642 người,chiếm 22,2%+ người cụt 2 ch trên thấp nhất 45 người, chiếm 0,6%Phân loại nhóm khó khăn vận động theo nguyên nhân+ người có khó khăn vận động nguyên nhân chủ yếu là dichứng bệnh tật và chưa rõ nguyên nhân 5.517 người,chiếm 60,9%+ người khó khăn vận động do nguyên nhan bẩm sinh1.920 người, ciếm 25,9%+ người khó khăn vận động do tai nạn đứng thứu 3 là 651người, chiếm 8,8%+ ngwuoif khó khăn vận động do bị thương chỉ có 325người, chiếm 4,4%Phân loại nhóm khó khăn vận động theo mức độ+ người khó khăn vận động do lieeyj 1 chi dưới chủ yếu ởmức độ 0( chiếm 50%) và mức độ 2(chieesm31,7%).Người ở mức độ 1 chỉ có 18,3%+ người khó khăn vận động do bại não chủ yếu ở mức độ2(chiếm 51%) và mức độ 1(chiếm 41,8%), ở mức dộ 0 chỉcó 7,2%. Nhìn chung trong nhóm khó khăn vận động chủyếu ở 2 mức độ:2 và 11.2Hoàn cảnh sống- Theo báo cáo của sở lao động-TB&XH turnh Hải dươngthì phần lớn NKT sống cùng với gia đình( chiếm 85,9%),số NKT sống độc thân( chiếm 4,31%), số NKT sống trongbảo trợ XH của tỉnh là 0,99%, số NKT sống langthang(chiếm 8,8%)Như vậy, có thể thấy được hoàn cảnh sống của NKT gặprất nhiều khó khăn trong cuộc sống: NKT phụ thuộc hoàntoàn và không hoàn toàn chiếm 75%,c hỉ có 25% NKT cócuộc song tự lập. họ phải sống trong nhwuxng ngôi nhf đãxuống cấp 1 cách trầm trọng, quá dột nát, sụt lún, khôngđảm bảo đến tính mạng của họ; họ thiếu cả đồ dùng sinhhoạt tối thiểu cần có như:tivi, đài, tủ…đã vậy, thu nhập giađình NKT quá thấp dưới 80.000đồng/người/tháng(chiếm63,1%), rất ít NKT có thu nhập khá trên 150.000đồng/người/tháng(chiếm 8%)- Họ luôn có tâm lý mặc cảm, tự ti, lo lawsg, song khépmình, không hòa nhập và cho rằng mình là người bỏ đitrong xa hội. họ thường xuyên khủng hoảng tâm lý, khôngmuốn chấp nhận sự thật hay ở trong trạng thái căng thẳng,khó chịu, mệt mỏi.1.3việc làmỞ tỉnh Hải dương có gần 30 số NKT có việc làm, tự nuôisống mình và tham gia đóng góp cho XH bằng nhiều côngviệc khác nhau. Tỷ lệ NKT có nhu cầu song chưa có việclàm là hơn 10%.2. Tình trạng chính sácha. Chính sách là gì- Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiệnđường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong mộtthời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó.Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùythuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinhtế, văn hóa…c.--- đặc điểm: + Có một cấp thẩm quyền ban hành+ Mang lợi ích công+ Mọi người đều có quyền tiếp cận (công khai, minh bạch)+ Nhìn chung là bắt buộc thi hành (tuy nhiên cũng cónhững hình thức không mang tính bắt buộc, thường làcác chính sách khuyến khích, hỗ trợ)+Thường thể hiện dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật,mang tính hành động, tập trung giải quyết một vấn đềđang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo nhữngmục tiêu xác định.Tình trạng chính sáchNhờ sự hỗ trợ của tổ chức phi chính phủ APHEDA và quỹhỗ trợ IRÍSH AID, Hội người khuyết tật tỉnh Hải Dươngđã tổ chức 2 cuộc họp mạng lưới cho 25 hội viên khuyếttật, một khóa tập huấn 3 ngày cho 20 hội viên khuyết tậtnòng cốt, phối hợp thực hiện cuộc đối thoại chính sách tạithị xã Chí Linh, Hải Dương nhằm tuyên truyền cho các tổchức, cá nhân hiểu về chủ chương, chính sách, sự quantâm của Đảng, Nhà nước đối với người khuyết tật. Đặcbiệt, tuyên truyền để chính người khuyết tật nhận thứcđược ý nghĩa cuộc sống về bản thân mình, tự xóa đi mặccảm, dần dần hòa nhập cộng đồng xã hội, thực hiện lờiBác Hồ dậy: “tàn nhưng không phế”.Hội người khuyết tật tỉnh Hải Dương có gần 100 hội viên,đến nay đã phát triển được CLB thanh niên người câmđiếc; Chi hội người khiếm thính tỉnh Hải Dương; CLBngười khuyết tật thị xã Chí Linh; CLB người khuyết tậthuyện Gia Lộc… Hoạt động truyền thông đã được triểnkhai thực hiện với sự tham gia ủng hộ của các ban, ngành,đoàn thể, các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân, đặcbiệt là hệ thống cơ quan thông tin đại chúng. Hội đã vậnđộng thông qua các chương trình thăm hỏi động viên cáchội viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhân những ngàylễ, tết với tổng giá trị hơn 300 triệu đồng.-Nhân dịp Tết Nguyên Đán 2015, Hội người khuyết tật tỉnhHải Dương đã phối hợp với tổ chức APHEDA, Đài truyềnhình tổ chức đi thăm và tặng quà cho 30 người khuyết tậtTP Hải Dương nhân ngày Người khuyết tật Việt Nam18/4; Hội cũng đã phối hợp với Trung tâm dịch vụ việclàm 8/3 phụ nữ Tỉnh tổ chức buổi truyền thông cho hơn200 người ở huyện Ninh Giang với nội dung tuyên truyềnvề Luật người khuyết tật; Phối hợp với Đài truyền hìnhlàm phóng sự nhân đạo cho một gia đình người khuyết tậtở xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, cấp 6 xe lăn cho ngườikhuyết tật có nhu cầu.-Hội người khuyết tật Hải Dương phối hợp với tổ chứcAPHEDA khai giảng 2 lớp học dậy nghề làm hương, hàngmã…Những thành tích Hội người khuyết tật tỉnh Hải Dương trợgiúp người khuyết tật vượt lên khó khăn, học nghề và tìmkiếm việc làm, xóa đi những mặc cảm, hòa nhập cộngđồng, góp phần an sinh xã hội rất đáng được khích lệ.Có được những thành tích đáng kể trên là nhờ vào sự chỉđạo sáng suốt của Lãnh đạo Hội; sự đoàn kết, thống nhấttừ trên xuống dưới, đồng cam, cộng khổ vượt qua mọi khókhăn, thách thức để tìm được hướng đi đúng đắn cho Hộinói chung và hội viên nói riêng. Đồng thời, Hội cũng nhậnđược sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các ban, ngành,-----đoàn thể, các tổ chức, cá nhân ở Trung ương và địaphương.Để tạo điều kiện cho Hội hoạt động được ổn định, phù hợpvới nguyện vọng của người khuyết tật, Hội mong muốn SởLĐTB&XH Tỉnh quan tâm hơn nữa, định hướng và hỗ trợkinh phí cho công tác phát triển mạng lưới ở 4 huyện: ChíLinh, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Ninh Giang và trong công tác đàotạo dạy nghề, dạy chữ. Hội được tham gia thực hiện Đề án1019 dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật, thamgia các vấn đề, các hoạt động có liên quan đến ngườikhuyết tật trên địa bàn tỉnh. UBND Tỉnh hỗ trợ kinh phícho Hội hoạt động thường xuyên, các Sở, Ban, Ngànhquan tâm hơn nữa việc tuyên truyền và tổ chức thực hiện,giám sát thi hành Luật người khuyết tật và các văn bảnchính sách liên quan đến người khuyết tật.Số lượng người khuyết tật được học nghề hiện còn quá ítvà chiều hướng tăng không đáng kể. Tỷ lệ người khuyếttật sau đào tạo nghề tìm việc làm còn thấp và chủ yếu là tựtạo việc làm. Hầu như Nguyên nhân là do người khuyết tậtsống ở nông thôn, trình độ văn hóa thấp, điều kiện kinh tếkhó khăn, khó tự trang trải việc học nghề. Cộng thêmnhững rào cản xã hội như thái độ phân biệt, mặc cảm, tự ti.Bên cạnh đó, người khuyết tật thường thiếu thông tin vềviệc làm, nhất là người khiếm thính. Các công trình kiếntrúc, phương tiện giao thông công cộng không phù hợpkhiến họ khó tiếp cận học nghề, việc làm.Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, mặc dùĐảng, Nhà nước đã ban hành hệ thống chính sách, phápluật tương đối đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi chongười khuyết tật được dạy nghề, tạo việc làm nhưng donhiều nguyên nhân nên kết quả thực hiện còn hạn chế,chưa đạt được mục tiêu mà chính sách đề ra. Hiện, sốngười khuyết tật được dạy nghề hàng năm chỉ đạt 5.0006.000 người/tổng số 1,5 triệu người cần được dạy nghềtrong cả nước. Đa số người khuyết tật trình độ học vấnthấp, khoảng 70% người khuyết tật không thể sống tự lập.Một số người khuyết tật tuy có việc làm nhưng công việckhông ổn định, thu nhập còn thấp...3. Đánh giá• Khó khăn- NKT gặp khó khăn trong tìm việc làm: Trong quá trìnhtiếp cận cơ hội học nghề, tìm việc làm, NKT gặp rất nhiềukhó khăn. Thiếu thông tin về học nghề, việc làm là mộttrong những trở ngại, nhất là người khiếm thính. Để khắcphục cần có sự quan tâm của gia đình, đoàn thể, tổ chứchội, chính quyền địa phương giới thiệu, cung cấp thông tincho NKT, những điều này không được như mong đợi.Cùng với đó là bản thân NKT còn tự ti không mạnh dạnliên hệ hoặc chủ động đề nghị giới thiệu, giúp đỡ.- Rào cản giao thông cũng là thách thức không nhỏ. Quyđịnh cấm xe 3 bánh chở hàng, nhưng đồng thời lại chưa cógiải pháp tháo gỡ thỏa đáng khiến một bộ phận NKT sốngbằng nghề chở hàng xe ba bánh mất việc, không có thunhập và cũng chưa chuyển đổi nghề khác phù hợp. Đi lạibằng giao thông công cộng thì xe buýt không tiếp cậnđược, thái độ phục vụ còn thờ ơ. Đến đi lại bằng đườnghàng không còn trường hợp bị từ chối phục vụ. Khó khăntrong đi lại đồng nghĩa với khó khăn tìm kiếm việc làm(trừ một số người làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,nhận gia công tại nhà....)- Rào cản về môi trường xây dựng như: Trụ sở nơi làmviệc, cơ sở học nghề không có lối đi NKT. Rào cản vềnhận thức khi hầu hết chủ doanh nghiệp cho rằng sử dụngNKT sẽ thêm nặng trách nhiệm, tốn kém. Còn ở địaphương vẩn tồn tại nhận thức giải quyết việc làm chongười lành còn chưa xong, làm sao lo được cho NKT.Nhận thức này sai lầm, vì tình trạng thất nghiệp là một tồntại xã hội, không giải quyết triệt để được. Nếu việc gì cũngphải chờ lo cho xong người lành mới đến NKT thì họkhông bao giờ có cơ hội việc làm.- Quy định NKT làm việc 7h/ngày khiến nhiều doanhnghiệp ngại tuyển dụng NKT vì không đảm bảo hoạt độngsản xuất bình thường. Với một số công việc đòi hỏi trìnhđộ cao, NKT có thể đáp ứng nhưng không được sự quantâm đào tạo. NKT tự tạo việc làm gặp nhiều khó khăntrong tiếp cận vốn vì vay Ngân hàng Chính sách thì khôngcó tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn phức tạp....- Sau khi Luật NKT được ban hành và có hiệu lực từngày 1/1/2011, hàng loạt các Nghị định, Quyết định, thôngtư, hướng dẫn thực hiện chính sách liên quan đến NKT đãđược ban hành và đi vào thực tiễn, nhưng con số thống kêvẫn không hề thay đổi, thiếu sự thống nhất. Điều này ảnhhưởng không nhỏ tới việc triển khai có hiệu quả các chínhsách pháp luật của Nhà nước liên quan đến NKT, đặc biệtlà việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch, chương trìnhdài hạn, ngắn hạn hỗ trợ NKT, đảm bảo an sinh xã hội.Trong điều kiện đó, cần thiết phải tổ chức riêng một cuộcđiều tra cụ thể về số lượng, độ tuổi, giới tính, phân loại,phân dạng khuyết tật thật cụ thể, chi tiết để làm cơ sở choviệc triển khai thực hiện chính sách pháp luật của Nhànước- Người khuyết tật, đặc biệt là phụ nữ khuyết tật tại ViệtNam có rất ít cơ hội được đào tạo nghề có chất lượng Phầnlớn các trung tâm dạy nghề đều ở khu vực thành thị vàthường không có nhiều chỗ. Hầu hết các khóa đào tạo chongười khuyết tật đều được tổ chức tại các trung tâm riêng,với các lớp học riêng hoặc thông qua các doanh nghiệpcủa người khuyết tật- Trình độ học vấn của người khuyết tật tại Việt Nam rấtthấp: 41% chỉ biết đọc biết viết; 19,5% học hết cấp một;2,75% có trình độ trung học chuyên nghiệp hay chứng chỉhọc nghề, và ít hơn 0,1% có bằng cao đẳng hoặc đại học.Số lượng người khuyết tật đông nhưng lại có trình độ họcvấn thấp dẫn đến tình trạng rất khó kiếm việc làm cho đốitượng này. Hiện nay mới chỉ giải quyết việc làm cho 50%số người khuyết tật trong độ tuổi lao động, chủ yếu làmviệc trong khu vực nông nghiệp (trên 70%).- Thách thức với người khuyết tật đi tìm việc ngày cànglớn hơn khi tình hình kinh tế chung của thế giới ảnh hưởngđến các doanh nghiệp Việt Nam khiến cho việc tuyển dụngnhân lực của các doanh nghiệp ngày càng khắt khe hơn.Đa số các doanh nghiệp khi tuyển dụng đòi hỏi người laođộng phải làm được việc ngay, và vì thế công cuộc tìmviệc cho người khuyết tật ngày càng khó khăn hơn.- Rào cản lớn nhất hiện nay là xã hội vẫn nhìn NKT bằngcon mắt thương hại, đối đãi với NKT theo quan điểm từthiện, nhân đạo chứ chưa theo cách tiếp cận tích cực là bảođảm quyền cơ bản của họ. Việc đi lại, giao tiếp của NKTcòn khó khăn; trình độ văn hóa còn thấp. Nhiều NKT chưađược học nghề, chưa có việc làm dù chỉ là công việc giảnđơn với thu nhập thấp. Phần lớn NKT có gia cảnh nghèokhó, thậm chí rất nghèo… Những yếu tố đó khiến NKTthường mang trong mình cảm giác tự ti- Việc tuyển sinh học nghề đối với NKT rất khó khăn vìnhiều lý do, như: Gia đình NKT không muốn cho con đihọc; NKT thường có trình độ học vấn thấp, thậm chíkhông biết chữ nên tự ti, mặc cảm và rất ngại tham gia họcnghề; xã hội nhìn NKT với con mắt thiếu tin tưởng và chorằng họ học nghề không để làm gì… Đó là chưa kể giáotrình, cách truyền đạt kiến thức cho NKT cũng gặp khókhăn do mức độ tật của từng NKT khác nhau.- Việc thiếu một hệ thống thông tin toàn diện về NKT đãgây nên không ít khó khăn trong việc hỗ trợ nhóm đốitượng này thụ hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nướccũng như hòa nhập cộng đồng. Việc cải tiến, xây dựng hệthống thông tin thống nhất và phù hợp là thực sự cần thiết.- NKT thường có tuổi đời ngắn hơn những người bìnhthường khác vì lý do sức khỏe, ảnh hưởng của khiếmkhuyết. Việc nắm bắt, cập nhật tình trạng của NKT cầnđược thực hiện thường xuyên, đồng bộ và có cán bộchuyên trách thực hiện.- Chính sách hỗ trợ tuyển dụng chưa nhiều+ Người lành lặn tìm được việc làm đã khó, NKT tìm việclàm còn khó hơn. Vì vậy, điều kiện tiên quyết là phải nângcao trình độ chuyên môn của NKT. NKT phải được đàotạo nghề phù hợp, phải có sự đầu tư cả về dạy và học đểvững chuyên môn, giỏi tay nghề thì mới đáp ứng được yêucầu của nhà tuyển dụng. Tuy nhiên, khi những đơn vịdoanh nghiệp thực hiện việc đào tạo, tuyển dụng lao độngNKT một cách tự nguyện, từ tâm thì công tác hỗ trợ củanhà nước vẫn quá ít.- khó khăn ở chỗ làm sao để dung hòa lợi ích giữa ngườilao động NKT và doanh nghiệp, khi mà nhiều người laođộng khuyết tật có trình độ tay nghề còn chưa cao, thiếu tựtin. Chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp tuyển dụng NKTlàm việc còn nhiều hạn chế.• Thuận lợi- Theo quy định hiện hành, các cơ sở dạy nghề dànhriêng cho NKT được ưu tiên cấp địa điểm thuận lợi, đượchỗ trợ vốn, cấp kinh phí đào tạo, miễn giảm thuế, đượcvay vốn với lãi suất ưu đãi. Đối với các cơ sở dạy nghềkhác, khi nhận NKT vào học nghề, nâng cao trình độ taynghề thì sẽ được ưu tiên đầu tư, bảo đảm định mức kinhphí đào tạo... Nhờ đó, số cơ sở dạy nghề ở nước ta đã tăngcả về số lượng, quy mô và chất lượng đào tạo. Tính đếnnay, cả nước có trên 1.000 cơ sở tham gia dạy nghề choNKT. NKT tham gia học nghề được xem xét cấp học bổngvà trợ cấp xã hội, được miễn, giảm học phí căn cứ vàomức độ khuyết tật và mức suy giảm khả năng lao động.- Ngoài các chính sách hỗ trợ nêu trên, Nhà nước đã cónhiều biện pháp xúc tiến việc làm cho NKT như ban hànhchính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụnglao động là NKT, hỗ trợ cơ sở sản xuất kinh doanh củaNKT, thành lập quỹ quốc gia về việc làm. Đặc biệt, từ năm2006, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội thườngxuyên tổ chức các hội chợ việc làm, trong đó có khu vựcdành riêng cho NKT với sự tham gia của nhiều doanhnghiệp, cơ sở dạy nghề. Do vậy, NKT có nhiều cơ hội việclàm hơn, số lượng người có việc làm đã tăng lên hằngnăm.- NKT ở những xã xây dựng nông thôn mới được tạo cơhội thoát nghèo, cải thiện điều kiện sống thông qua cácchương trình xây nhà, công trình vệ sinh; tặng vật nuôihay các chương trình hỗ trợ thức ăn chăn nuôi, tập huấn kỹthuật, kỹ năng làm kinh tế…- Số lượng NKT lớn, lại còn mang nhiều dạng khuyết tậtvà cư trú rải rác rộng khắp trên cả nước, mỗi dạng tật chỉphù hợp với một số nghề nhất định nên dạy nghề cho họcó nhiều khó khăn và chi phí cũng cao hơn so với dạynghề thông thường. Thêm vào đó là cơ chế thị trườnghướng tới mục tiêu lợi nhuận, đã trở thành “lực cản” đốivới dạy nghề và giải quyết việc làm cho người khuyết tật;bên cạnh đó là người khuyết tật sự quan tâm chưa đúngmức của các bộ, ngành liên quan…• Đánh giá chung- Nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Huyện ủy,UBND huyện, sự phối hợp tích cực của các ngành, đoànthể từ huyện đến các xã, thị trấn, Huyện đã thực hiện tốtcác chusnh sách đối với NKT; huy động các nguồn lực từuxã hội trợ giúp chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng,giáo dục, bảo trợ xã hội…, giúp NKT hòa nhập cộng đồngcũng như phát huy tiềm năng của NKT, đóng góp chungvào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Huyện.- Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn 1 số hạn chếnhư: NKT còn mặc cảm trong việc tham gia vào các chínhsách dạy nghề, 1 số địa phương chưa thật ựu quan tâmtrong công tác tuyên truyền, vận động thực hiện các chínhsách đối với NKT; cơ sở vật chất, phương tiện trợ giúp vàtạo điều kiện cho NKT còn hạn chế.- Nếu được tạo điều kiện thuận lợi, người khuyết tật cũnglàm tốt công việc không thua người bình thường. Sự nhiệttình, chăm chỉ và sự tập trung cao của người khuyết tậttrong công việc là lợi thế của họ so với người bình thường.Tuy nhiên, hiện nay bài toán hiệu quả kinh doanh củadoanh nghiệp đã làm cho nhiều chủ doanh nghiệp phải đắnđó khi chấp nhận tuyển người lao động là người khuyếttật.- Vấn đề tìm việc và trụ lại được với công việc là mộtthách thức rất lớn đối với những người khuyết tật khimuốn đi làm. Sự tự ti về bản thân, tâm lý gia đình khôngmuốn con mình đi làm, định kiến của xã hội và chính sáchcủa nhà nước là những nguyên nhân chính dẫn đến khótìm việc cho người khuyết tật hiện nay, ông Thương củaTrung tâm Khuyết tật và Phát triển cho biết.- Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm, thông qua việcthực hiện các chính sách hướng đến việc giải quyết việclàm cho NLĐ, đặc biệt là lđ khuyết tật. tuy nhiên, cácchính sách này trong thời gian qua vẫn chua hoặt động 1cách hiệu quả nhất, người khuyết tật thất nghiệp cònnhiều, huyện Phú Xuyên, HN là 1 trong những nơi có sốlượng người khuyết tật còn hạn chế. Điều này gây ra nhiềukhó khăn đối với cuộc sống người khuyết tật cũng như sựphát triển KT-XH của huyện nói riêng và HN nói chungIII - ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP1. Tiếp tục hoàn thiện chính sách- Cần nghiên cứu, có cơ chế phù hợp về việc NKT làmviệc 7 giờ/ngày. Cần có quy định về ngành nghề dànhriêng cho NKT. Cần chặt chẽ hơn trong các quy định về tổchức dạy nghề cho NKT như: Giáo án phù hợp, chính sáchthỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịchcho người khiếm thính. Thời gian học nghề đối với NKTcần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với người khôngkhuyết tật. Tạo điều kiện cho NKT tiếp cận các nguồn vốnvay, hổ trợ kinh phí cho các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuấtkinh doanh của NKT. Đặc biệt quan tâm và tạo điều kiệncho đơn vị, cơ sở của NKT tự tạo việc làm phát triển như:Cho họ được tham gia thực hiện các dự án, chương trìnhvề việc làm cho NKT; ưu đãi về vốn, thuế, mặt bằng, địađiểm tổ chức sản xuất,....- Lồng ghép vấn đề việc làm cho NKT vào các chươngtrình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao độngnông thôn.- Có chính sách khuyến khích dạy nghề cho NKT tạicộng đồng. Vì phần lớn NKT sống ở gia đình, gắn vớicộng đồng dân cư nên hướng dạy nghề, tạo việc làm choNKT ở cộng đồng là thích hợp và thuận tiện nhất.2. Công tác chỉ đạo điều hành, triển khai thực hiện đềán- Để thực hiện mục tiêu đến 2020, dạy nghề, tạo việc làmcho 300 nghìn người khuyết tật, các bộ, ngành hữu quancần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sáchđối với người khuyết tật tới các địa phương, doanh nghiệp,cộng đồng, gia đình, bản thân người khuyết tật; khảo sát,thống kê, phân loại người khuyết tật theo dạng tật và khảnăng lao động.- tăng cường công tác quản lý cũng như sự phối hợp giữacác ban ngành, đoàn thể huyejn và UBND các xã, thị trấn.- Lồng ghép Đề án Trợ giúp NKT vào các chương trình,dự án phát triển kinh tế- xã hooijcura địa phương.- Tăng cường công tác tuyên truyền, huy động và nângcao chất lượng nguồn nhân lực của địa phướng tham giavào việc thwujc hiện Đề án Trợ giúp NKT- Theo dõi, kiểm tra, giám sát kết quả thwujc hiện Đề ánvà báo cáo kết quả thwujc hiện theo quy định3. Công tác tuyên truyền, giáo dục- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến đường lối,chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nướcvề NKT, làm chuyển biến 1 cách cơ bản nhận thức của xãhội, gia đình và bản thân NKT; đồng thời giúp NKT hiểurõ quyền, nghĩ vụ và phát huy vai trò, trách nhiệm củamình với gia đình và xã hội.- Tổ chức tuyền truyền rộng rãi trên các phương tiệnthông tin đại chúng; phát hành các loại ấn phẩm(ápphích…), tổ chức truyền thông trực tiếp, thông qua hệthống văn bản, cuộc họp, hội nghị…về NKT và các loạihình dịch vụ đối với NKT; phòng chống phân biệt đối xửđối với NKT.- Đào tạo, tập huấn nâng cao nhạn thức cho các hội, đoànthể, đội ngũ cán bộ xã hội về thái độ, cách ứng xử, làmviệc với NKT và các phương pháp trợ giúp NKT. Tổ chứccác hội nghị, hội thảo giữa các tổ chức, cá nhân và giađình NKT để chia sẻ kinh nghiệm, chăm sóc, hỗ trợ NKT.- Tổ chwusc các hoạt động kỷ niệm ngày NKT VN 18/4và ngày Quốc tế NKT 3/12 hàng năm, đồng thời tổ chwuschội nghị tuyên dương các tập thể, cá nhân, người bảoteowj có thành tích xuất sắc trong việc trợ giúp NKT vànhững NKT vượt khó trong học tập, lao động, tham giacác haojt động văn hóa, văn nghệ, thể dục-thể thao.4. Trợ giúp dụng cụ chỉnh hình cho NKTĐầu tư trang thiết bị cho các cơ sở y tế tuyến huyện và xãnhằm thwucj hiện tốt các dịch vụ phát hiện sớm khiếmkhuyết ở trẻ sơ sinh vầ khám sang lọc khiếm khuyết tậttrước sinh. Đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộy tế thực hiện chức năng chăm sóc sức khỏe và phục hồichức năng cho NKT.5. Trợ giúp tiếp cận giáo dục- Tổ chức tuyên truyền và vận động phụ huynh có trẻkhuyết tật đưa trẻ ra lớp, tạo điều kiện cho trẻ khuyết tậtmầm non được can thiệp giáo dục sớm và trẻ khuyết tậttrong độ tuổi đi học được đến trường với các hình thứcgiái dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt, trong đó giáo dụchòa nhập là hình thức chính.- Đầu tư, cải tạo, mở rộng cơ sở vật chất, trang thiết bịdạy học và phục hồi chức năng tại các cơ sở giáo dục đápứng nhu cầu giáo dục hòa nhập và chuyên bệt cho trẻkhuyết tật.- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở giáodục cho trẻ khuyết tật, có chính sách ưu đãi về thuế chocác trường tư thục, tư nhân tiếp nhận trẻ khuyết tật6. Dạy nghề, tạo việc làm- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề, đápứng nhu cầu của người khuyết tật, nghiên cứu xây dựng vànhân rộng mô hình dạy, học nghề gắn với tạo việc làm phùhợp cho người khuyết tật, xây dựng chương trình, giáotrình, trang thiết bị dạy nghề phù hợp với người khuyết tật.- Đẩy mạnh hoạt động dạy nghề và tạo điều kiện thuậnlợi để người khuyết tật có cơ hội tiếp cận việc làm nhằmđảm bảo cuộc sống và hòa nhập cộng đồng, tư vấn họcnghề, việc làm theo khả năng của người khuyết tật.- Đầu tư thiết bị dạy nghề, đào tạo, tập huấn kỹ năng tìmviệc làm, khởi sự doanh nghiệp, quản lý tài chính, đồngthời bồi dưỡng kỹ năng cho người khuyết tật.7. Trợ giúp pháp lý- Truyền thông về trợ giúp pháp lý cho người khuyết tậtthông qua các hoạt động thích hợp.- Vận động các tổ chức, các nhân trong và ngoài Huyệnủng hộ, trợ giúp người khuyết tật, đồng thời giúp ngườikhuyết tật hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và phát huy vai tròtrách nhiệm của mình trong việc hòa nhập vào đời sống xãhội.8. Trợ giúp người khuyết tật trong hoạt động văn hóa,thể thao và du lịch- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho người khuyết tật tham giacác hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao và vui chơi, giảitrí nhằm nâng cao sức khỏe về thể chất và tinh thần.- Tạo điều kiện cho người khuyết tật có nhu cầu tham gialuyện tập thể dục, thể thao tại Nhà Văn hóa huyện và cácxã có Nhà Văn hóa.- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho người khuyết tật có nhu cầutham gia các hội thao, hội diễn văn nghệ do huyện tổ chức.- Tạo điều kiện và hỗ trợ cho người khuyết tật tiếp cận dulịch.9. Kinh phí thực hiện- Kinh phí thực hiện được đảm bảo từ nguồn ngân sáchcủa Trung ương, Tỉnh hỗ trợ, từ ngân sách Huyện và cácnguồn vận động khác- Nhà nước cần khôi phục lại cơ chế bắt buộc doanhnghiệp tiếp nhận NKT vào làm việc theo một tỷ lệ nhấtđịnh (có thể là 1%), nếu không nhận đủ thì doanh nghiệpphải đóng một khoản tương ứng vào quỹ giải quyết việclàm cho NKT...10.phát triển doanh nghiệp- VN có truyền thống lâu dài về phát triển doanh nghiệpcho người khuyết tật, tuy nhiên, ngoài ra không có dịch vụcụ thể nào về đào tạo phát triển DN hoặc về phát triển DNcho NKT làm kinh doanh. Việc thành lập HKDNKTVN đểcung cấp dịch vụ và đại diện cho lợi ích của các doanhnghiệp của người khuyết tật là 1 cơ hội nhằm thay đổi tìnhhình đó, cung cấp đào tạo và hỗ trợ cho các doanh nhân vàDN, tuy nhiên, cho đến nay năng lực của họ vẫn còn hạnchế.11.Việc làmVN có hệ thống pháp luật và chsinh sách mạnh giúp xúctiến việc làm cho người khuyết tật. Chính sách hạn ngạchbắt đầu được thực hiện tại một sốtỉnh, nhưng vẫn chưađược thực thi tại nhiều nơi. Việc thực thi hạn ngạch và thutiền phạt của các doanh nghiệp không tuân thủ sẽ mang lạicơ hội quan trọng cho các cơ quan nhà nước VN vì đó lànguồn tài chính để tỉnh rót cho các hoạt động dạy nghề vàhỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.12.Cần sự quan tâm của các ngành và toàn xã hội- Để cải thiện tình trạng trên, nâng cao cơ hội cho NKThọc nghề, có việc làm cần sự phối hợp đồng bộ, có hiệuquả của các nghành hữu quan và sự quan tâm của cả cộngđồng. Phải phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa choNKT, tạo điều kiện cho họ học tập và học càng cao càngtốt. Cần đào tạo cho NKT ở mọi trình độ văn hóa. Đào tạonghề phải gắn với tạo việc làm, có thu nhập. Quan tâm đếnvấn đề can thiệp sớm, phục hồi chức năng ngay từ khi cònnhỏ để tránh khuyết tật nặng, tránh gây khó khăn tronghọc nghề và tìm việc làm sau này.- Tạo điều kiện cho NKT đi lại thuận lợi- Nếu như cùng chung một nghành nghề, một môi trườnglàm việc, thì hãy quan tâm chia sẽ và ưu tiên hơn 1 chútcho những người NKT.- Thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động về khảnăng làm việc của NKT, thay đổi định kiến cho rằng NKTkhông đảm bảo sức khỏe làm việc, nhận NKT thêm phiềnphức, tốn kém, kinh doanh không có lãi. Bên cạnh nhữnglợi ích của việc sử dụng lao động NKT, cần phải nhận thứcđây cũng là trách nhiệm đối với xã hội. Vì nếu không đượclàm việc thì NKT sẽ phải sống phụ thuộc, gánh nặng giađình và cộng đồng.- Thông tin về dạy nghề, việc làm cho NKT phải đếnđược NKT. Nên thông qua tổ chức tự lực của NKT, tổchức vì NKT để tuyên truyền về các chương trình, các dựán, khóa học nghề, tuyển dụng NKT để họ nắm đượcthông tin và đăng ký tham dự. Cần tổ chức nhiều hơn hộichợ việc làm, ngày hội tuyển dụng dành cho NKT....13.Cải thiện tâm lý NKT- Cần thay đổi quan niệm trong tuyển dụng với NKT. Họkhông chỉ là đối tượng cần ưu tiên, mà còn là những laođộng đầy tiềm năng. Tuyển dụng NKT không phải là làmtừ thiện, mà vì năng lực của họ đáp ứng được yêu cầucông việc, đồng thời cũng là tạo điều kiện cho họ hòa nhậptốt hơn. Vì thế, cần phải có những cách đối xử bình đẳng.Tất cả đòi hỏi sự nỗ lực, phối hợp của tất cả các cấp,ngành, đơn vị liên quan và bản thân NKT để vấn đề việclàm ngày càng có những chuyển biến tích cực hơn, giúpNKT ổn định cuộc sống.