Chính trị học so sánh là gì

Chính trị học so sánh là gì
183
Chính trị học so sánh là gì
1 MB
Chính trị học so sánh là gì
5
Chính trị học so sánh là gì
75

Chính trị học so sánh là gì

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 183 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

Chính trị học so sánh là gì
pdf

8 0 12

Chính trị học so sánh là gì
ppt

31 0 15

TS Ngô Huy Đức CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH CÁCH TIẾP CẬN VÀ SO SÁNH CÁC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRÊN THẾ GIỚI Hà Nội 2 - 2010 MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, cùng với những thành công có ý nghĩa lịch sử của quá trình Đổi mới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta là vấn đề cấp thiết khi đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những căn cứ cho sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị mặc dù vẫn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng cũng đồng thời đòi hỏi các đột phá, các sáng tạo mới thích ứng với tình hình và mục tiêu phát triển trong giai đoạn hiện nay. Các đột phá và sáng tạo như vậy không chỉ đòi hỏi phải nghiên cứu thấu đáo các kinh nghiệm của nước ta và kinh nghiệm của các nước anh em lựa chọn mục tiêu XHCN, mà cũng cần tham khảo kinh nghiệm và tiếp thu những giá trị có tính phổ biến của nền văn minh chính trị nhân loại, thể hiện trong các mô hình và hoạt động của HTCT ở một số nước trên thế giới, từ đó có được các khái quát mang tính lý luận và khả năng ứng dụng trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy của Viện Chính trị học. Đặc biệt, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, cũng như yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực pháp lý quốc tế khi tham gia các hoạt động đối ngoại cũng đặt ra vấn đề cần hiểu biết HTCT của các nước trên thế giới, nhìn nhận đúng nền tảng chính trị, cấu trúc lợi ích, và các ràng buộc thể chế đối với các hoạt động chính trị thực tiễn nằm dưới các HTCT này. Cho đến nay, mặc dù đã có khá nhiều nghiên cứu về đời sống chính trị của các nước trên thế giới, các kết quả nghiên cứu này vẫn còn mang tính khá tản mạn. Một trong các điểm chưa thích hợp quan trọng nhất của các nghiên cứu trên là sự khác biệt trong góc độ nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu còn mang tính mô tả, hoặc phân tích từ góc độ văn hóa hay đất nước nói chung, do vậy khó có thể làm nổi bật các lý luận chính trị học, và các so sánh chính trị cần http://www.ebook.edu.vn 2 thiết, vốn đòi hỏi cách tiếp cận riêng. Nói cách khác, việc so sánh các HTCT đã không được đặt thành trọng tâm và được tuân theo các chuẩn mực khoa học cần thiết của chính trị học so sánh. Tình hình đó dẫn đến việc dù có rất nhiều thông tin và sự kiện, nhưng các nghiên cứu này lại khó có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu và giảng day chính trị học so sánh một cách có hiệu quả. Từ các lý do trên, mục tiêu tổng quát của cuốn sách là: Trên cơ sở tổng hợp các phân tích về một số hệ thống chính trị (HTCT) có tính chất đại diện, điển hình trên thế giới, so sánh và phân tích tính phổ biến và đặc thù của các hệ thống chính trị, làm rõ các giá trị văn minh chính trị có tính khái quát lý luận. http://www.ebook.edu.vn 3 Chương 1 NHẬP MÔN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH 1.1. GIỚI THIỆU VÀ ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu chính trị học, cũng như mọi khoa học, đều có một mục tiêu là tiếp cận tới những kiến thức chắc chắn và tin cậy. Hơn thế nữa, việc giải thích các hiện tượng, các liên hệ nhân - quả, tức các lý thuyết hay các mô hình lại phải chịu sự hạn chế về tính toàn diện. Cụ thể hơn, lý thuyết hay mô hình đó phải tập trung vào một số lượng nhỏ (thậm chí là rất nhỏ) nếu so với số lượng các yếu tố có tiềm năng đóng một vai trò nhất định trong hiện tượng mà ta muốn giải thích. Cũng như trong việc giải thích hiện tượng “dân chủ”: có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới mức độ phát triển “dân chủ”, nhưng người ta thường tập trung vào chỉ vào các yếu tố chính như: kinh tế, hiến pháp, luật, trình độ dân trí... Làm thế nào để chúng ta tin tưởng rằng đây là các yếu tố chính? Chỉ có thể bằng cách kiểm nghiệm thực tế. Đối với khoa học xã hội, khi chúng ta không thể tạo lập nên một phòng thí nghiệm như các khoa học tự nhiên để kiểm chứng, phương pháp so sánh là tất yếu. Vì trong việc so sánh giữa các trường hợp “dân chủ”, chính là người ta đang dùng các sự kiện thực tế như là các “phòng thí nghiệm” để kiểm chứng kết luận của lý thuyết. Đương nhiên, nếu kết luận không được chứng thực, tức giả sử như “dân chủ” chính là do điều kiện thời tiết và địa lý, hoặc tệ hơn, do tất cả mọi yếu tố ngẫu nhiên tạo nên, sự so sánh, chí ít cũng có tác dụng gợi nên một giả thuyết mới, một định hướng mới cho nghiên cứu và phát triển sự hiểu biết của chúng ta. Vậy chính trị học so sánh sẽ so sánh cái gì, như thế nào và để làm gì? Về căn bản, với tư cách là kiểm chứng (hay phát hiện các bằng chứng về giả thuyết mới), phương pháp so sánh về thực chất là sự kiểm soát các yếu tố của mối liên hệ nhân quả. Một ví dụ đơn giản nhất là giữ nguyên tất cả các yếu http://www.ebook.edu.vn 4 tố khác không đổi (ceteris paribus), trong khi chỉ xem xét hai yếu tố biến đổi là: “dân chủ” (kết quả) và “thu nhập” (nguyên nhân). Khi xem xét một loạt các nước khác nhau, người ta có thể kết luận rằng có sự tương quan, giữa hai yếu tố này: các nước càng giàu thì càng dân chủ hơn. Trong toán học, đây chính là phép lấy đạo hàm. Chính trị học so sánh lấy sự so sánh các hệ thống chính trị làm đối tượng nghiên cứu cơ bản nhằm rút ra các kết luận, các liên hệ (các tương quan) có tính nhân quả. Điều này không chỉ hàm ý là lấy các HTCT ở các nước khác nhau, mà còn có thể lấy HTCT trong cùng một nước, ở các thời kỳ khác nhau để so sánh. Hơn thế nữa, sự lựa chọn các trường hợp, các nước để so sánh không thể là sự lựa chọn tùy tiện. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, giả thuyết khoa học mà chúng ta phải có sự lựa chọn hợp với mục tiêu. Nếu lập luận cho rằng, “dân chủ là do số lượng đảng chính trị hợp pháp và có tiềm lực cạnh tranh quyết định” thì không thể chỉ lựa chọn các nước có đa đảng, mà bắt buộc phải lựa chọn cả các nước có một đảng và các nước này cũng cần phải có các yếu tố khác tương tự như văn hóa, kinh tế,... Nếu không, việc mức độ “dân chủ” khác nhau trong thực tế lại có thể do sự khác nhau của các yếu tố không liên quan đến số lượng đảng. Điều này cũng chỉ ra rằng chúng ta không bao giờ có thể chọn được các nước thỏa mãn các điều kiện kiểm nghiệm chặt chẽ như vậy. Đây là điểm yếu cố hữu của so sánh trong khoa học xã hội nói chung, và rất dễ được dùng để phản biện mọi kết luận, từ đó đưa ra các tư tưởng biệt phái: ví dụ một phản biện hay được sử dụng là “Điều này không thể đúng và áp dụng ở nước A vì các nước được nghiên cứu đều không có các điều kiện giống nước A”. Nói cách khác, những người theo trường phái này sẽ không tin (hoặc rất nghi ngờ) rằng có cái gọi là tính khoa học của các hoạt động chính trị, hoặc ít nhất, họ cho rằng, các giá trị chung sẽ có tính ứng dụng khá hạn hẹp. Tóm lại, chính trị học so sánh lựa chọn một số các HTCT điển hình, để kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng, và rút ra các kết luận nhân - quả thông qua việc so sánh các yếu tố đó mà chúng ta thường gọi là “các giá trị chung, phổ http://www.ebook.edu.vn 5 quát” của các HTCT. Có thể nói, lịch sử phát triển của CTHSS cũng chính là lịch sử của sự phát triển các phương pháp so sánh nhằm nâng cao độ tin cậy của các kết luận. 1.2. LƯỢC SỬ VÀ CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH CỦA CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH TRÊN THẾ GIỚI So sánh chính trị với nghĩa rộng nhất đã có từ lâu. Hầu hết các tác phẩm kinh điển từ thời Hy - La cổ đại, về căn bản là dựa trên cách phân tích so sánh. Thông qua các quan sát về các hoạt động, các cộng đồng khác nhau mà các nhà tư tưởng đã phát triển các lý thuyết và lập luận của mình. Arítxtốt khi viết tác phẩm “Chính trị” (Politics) đã dày công thu thập, đối chiếu và phân tích 158 bản hiến pháp của các thành bang Hy lạp thời đó. Thông qua sự phân tích so sánh, ông đã khái quát hóa và phát triển một hệ thống phân loại các kiểu chế độ chính trị cũng như lô-gíc của sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Nicolo Machiavelli với tác phẩm “Quân vương” (1580), Mác với tác phầm “Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ” (1853), “Những kết quả tương lai của Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ” (1853) và Tocqueville với “Nên dân trị Mỹ” (1892) đều là các tác phẩm kinh điển trong lịch sử phát triển của môn chính trị học so sánh. Các nhà tư tưởng phương Đông như Khổng tử cũng xem xét các cách cai trị thời Chiến quốc trong việc lập thuyết của mình. Tuy mang tính kinh điển như vậy, các tác phẩm nghiên cứu thời kỳ này có 6 đặc điểm hạn chế chủ yếu là: Thứ nhất, mô tả cấu trúc là chính, không hoặc ít so sánh. Từ đó, sự nhìn nhận về các mối liên hệ nhân quả, khả năng giải thích các sự khác biệt cũng không mạnh mẽ. Thứ hai, nhấn mạnh văn bản luật, dễ bỏ qua hiện thực và không thấy hết sự cách biệt giữa văn bản pháp lý và vận hành thực tế. Thứ ba, thiển cận với phạm vi nghiên cứu hẹp, chỉ tập trung vào các nước Âu Mỹ, cho rằng đó là các mô hình lý tưởng, chứa đựng các nhân tố hợp lý mà các http://www.ebook.edu.vn 6 nước khác, bất kể các đặc điểm lịch sử, văn hóa truyền thống đều có thể noi theo và áp dụng. Thứ tư, bảo thủ, cho rằng các mô hình lý tưởng sẽ không cần thay đổi nhiều. Nói cách khác là các mô hình này đã tính đến các yếu tố có tính căn bản nhất. Thứ năm, thiếu tính hệ thống và tầm nhìn lý thuyết, dễ sa vào tranh biện về đạo lý. Thứ sáu, không xác định rõ cách tiếp cận nên khó kiểm nghiệm một cách nghiêm khắc. Đặc biệt trong việc đo lường, chọn mẫu, nếu cách tiếp cận không rõ ràng và nhất quán, các kiểm nghiệm thực tế sẽ khó có thể tiến hành, hay không thỏa mãn các yêu cầu nghiêm khắc của khoa học. Mặc dù có nguồn gốc lý luận sâu xa như vậy, nhưng phải đến khoảng những năm 1950, việc nghiên cứu so sánh mới trở thành một chuyên ngành nghiên cứu của khoa học chính trị, với tên gọi là chính trị học so sánh. Trong suốt hai thập kỷ sau đó, khuynh hướng nghiên cứu so sánh đã có nhhững phát triển mạnh và rộng ở các nước phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ. Khuynh hướng này được hình thành từ 3 trào lưu cơ bản sau: Trào lưu thứ nhất, tại Mỹ, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu và giảng dạy về thể chế chính trị của các nước trong khối Ăng lô - Sắc Xông (như Anh, Canada, Scotland). Trong khi đó ở Tây Âu, các nhà nghiên cứu cũng có rất nhiều công trình giá trị nghiên cứu về các HTCT ở một loạt các nước khác nhau như: - Ralf Dahrendorf và Karl Bracher với “Xã hội và nền dân chủ Đức” (1967) phân tích về ảnh hưởng của chủ nghĩa Phát xít đối với xã hội Đức. - Samuel Beer với “Nền chính trị Anh trong kỷ nguyên của những người theo chủ nghĩa tập thể” (1966) khảo sát sự thay đổi về cấu trúc và tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Anh. - Hary Eckstein xem xét nền dân chủ Nauy qua “Sự phân chia và cố kết trong một nền dân chủ: trường hợp Na uy” (1966). http://www.ebook.edu.vn 7 - Hofman, người Đức, phân tích sự phát triển của Pháp qua các nền cộng hòa trong tác phẩm “Suy sụp hay đổi mới: nước Pháp từ những năm 1930” (1974). - Trong khi đó, tác giả người Pháp, Merle Faisnod lại tập trung vào tìm hiểu Liên Xô qua tác phẩm “Nước Nga được cai trị như thế nào?” (1963). - Các nhà nghiên cứu từ các nước khác như Italia có Robert Scalapino phân tích Nhật Bản “Nền dân chủ và phong trào đảng phái ở Nhật Bản trước chiến tranh”(1953). Trào lưu nghiên cứu các nền chính trị nước ngoài như vậy, dù đầu tiên chỉ có tính chất sư phạm như ở Mỹ hay mang tính quan sát, mô tả, cũng đã cung cấp khối lượng tư liệu và quan sát phong phú, làm cơ sở cho việc phân tích so sánh với phạm vi rộng hơn và sâu hơn. Trào lưu thứ hai, nghiên cứu một cách có hệ thống các thể chế chính trị thuộc các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là từ các nhà khoa học chính trị hàng đầu tại Mỹ. Trào lưu này không bằng lòng với việc chỉ dừng lại ở việc quan sát và mô tả. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng đi sâu, chú trọng đến việc giải thích sự khác biệt hay tương đồng giữa các thể chế chính trị khác nhau ở các nền văn hóa khác nhau. Do nhu cầu này mà việc xây dựng và kiểm nghiệm các lý thuyết đã được đặc biệt chú ý và tranh luận. Khuynh hướng như vậy đã ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng và chủ đạo của chính trị học so sánh nói riêng và khoa học chính trị nói chung trên thế giới. Nổi bật trong các nhà nghiên cứu này có thể kể ra là David Easton (Phân tích hệ thống về đời sống chính trị, 1965), Karl Deútch (Hệ thống thần kinh của chính phủ, 1963); Seymur Lipset (Con người chính trị: nền tảng xã hội của chính trị, 1968), Gabriel Almond và Sydney Verba (Nền văn hóa công dân, 1963), Robert Dahl (Nền chính trị đa nguyên: sự tham gia và đối lập, 1971), David Buttler và Donald Stokes (Sự biến đổi chính trị ở Anh, 1969), Moris Duverger (Các đảng phái chính trị, 1969). Đây đều là các tên tuổi đã có những ảnh hưởng lớn đến sự hình thành các lý thuyết, trường phái trong các lĩnh vực nghiên cứu của http://www.ebook.edu.vn 8 chính trị học như lý thuyết hệ thống, chủ nghĩa đa nguyên mới, lý thuyết bầu cử, lý thuyết đảng chính trị, văn hóa chính trị... Trào lưu thứ ba là trào lưu tập trung vào các vấn đề về phương pháp luận của nghiên cứu so sánh. Theo đó, các chuẩn mực và các nguyên tắc khoa học được tranh luận, xác lập và phát triển. Các nghiên cứu theo hướng này không chỉ làm rõ các khả năng và lợi thế của nghiên cứu so sánh mà còn chỉ ra các cấp độ cùng với các hạn chế của chính trị học so sánh. Ba trào lưu như vậy đã tạo nên những phát triển đặc biệt của CTHSS thời kỳ 1950 - 1970. Các nhà khoa học đã có cái nhìn bao quát hơn và tinh vi hơn, thể hiện thông qua một hệ thống các khái niệm cơ bản, các công cụ và các phương pháp nghiên cứu tin cậy hơn, cho dù vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn cãi. Chính trị học so sánh đã đi vào nghiên cứu sâu những biểu hiện thực tiễn của những nguyên lý chính trị, vai trò của lãnh đạo chính trị, các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động chính trị. Các đảng phái chính trị và nhóm lợi ích, mối liên hệ giữa nhà nước và xã hội công dân, lãnh đạo và quần chúng cũng được đào sâu nghiên cứu trong các nền văn hóa khác nhau. Xu hướng này ngày càng nhấn mạnh sự phân tích hướng đến phân tích vai trò chính trị đối với phát triển, do vậy cũng thường được gọi là chính trị học so sánh mới, với nghĩa là nó từ bỏ việc coi trọng quá mức các phân tích thể chế, chuẩn mực một cách trừu tượng, mà đặt các thể chế đó trong toàn bộ quá trình phát triển của xã hội, trong mối tương tác với tăng trưởng kinh tế, dân chủ hóa,... Điều này rõ ràng có ảnh hưởng bởi việc một loạt các nước thế giới thứ ba giành được độc lập và tìm kiếm cho mình các mô hình chính quyền hiệu quả để phát triển, cũng như việc có một loạt các nước XHCN đã có những thành công trong phát triển dù có mô hình chính trị khác biệt với các nước giàu có phương Tây. Ngay các nhà nghiên cứu ở phương Tây như Marx Horkheimer, Theodor Adonor, Hannah Arendt đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác và đưa ra lý thuyết phát triển phụ thuộc (Dependency Theory), có nhiều khác biệt với cách nhìn phổ biến lúc đó, vốn cho rằng các nước thứ ba chỉ cần lặp lại con http://www.ebook.edu.vn 9 đường mà các nước phát triển đã qua theo công thức: phi thực dân hóa - tăng trưởng kinh tế - dân chủ hóa. Trường phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước thế giới thứ ba, đặc biệt là các nước châu Mỹ La tinh, trong thực tế. Hiện nay, trào lưu nổi bật của CTHSS ở phương Tây được biết đến dưới tên gọi chủ nghĩa thể chế mới (Neo-institutionalism). Về thực chất, đây là sự kết hợp và phát triển lên tầm cao hơn của cách tiếp cận thể chế truyền thống bằng cách kết hợp với phát triển luận hiện đại. Theo đó, mặc dù vẫn tập trung vào nhà nước và các thành tố cơ bản của HTCT, những nội dung nghiên cứu đã có sự chuyển dịch về trọng tâm và phương pháp: - Nhấn mạnh vào hành vi chính trị (đặc biệt là bầu cử) - Những thay đổi trong tính chất của các đảng chính trị - Vai trò lãnh đạo chính trị với quá trình chính trị như dân chủ hóa - Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế như nhà nước phúc lợi - Sự liên quan giữa thể chế chính trị dân chủ với tăng trưởng, phát triển - Văn hóa chính trị với việc hình thành các nền dân chủ... Nói cách khác, các nghiên cứu như vậy đã làm cho nghiên cứu CTHSS trở nên ít mang tính chất so sánh pháp lý, ngày càng tập trung và đi sâu vào lĩnh vực của mối quan hệ kinh tế - chính trị và các quá trình xã hội thực tế như quá trình hoạch định và triển khai chính sách. Như vậy, cần coi chính trị học so sánh cũng chỉ là Chính trị học với trọng tâm đặc biệt là nghiên cứu các nền chính trị khác nhau (ở các quốc gia khác nhau, cũng như trong cùng một quốc gia nhưng ở các thời kỳ khác nhau). Theo nghĩa này, có thể nói có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong CTHSS. Ngay cả hệ thống phân loại các cách tiếp cận cũng đã khác nhau. Nếu lấy đối tượng chính trong nghiên cứu làm tiêu chí, người ta thường phân ra các cách tiếp cận cơ bản như: 1 – Cách tiếp cận thể chế (Institutional approach): đây là cách tiếp cận lâu đời nhất, lấy việc nghiên cứu các thể chế quyền lực cơ bản như hành pháp, lập pháp, tư pháp, đảng chính trị và hệ thống bầu cử làm trung tâm nghiên cứu. Việc so sánh lúc đó sẽ tập trung vào việc xem xét các thể chế này ở các nước http://www.ebook.edu.vn 10

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.