Chứng cứ ngoại phạm là gì

(PLO)- Lời khai của những người làm chứng cùng cuốn sổ ghi chép công nợ thể hiện ngày xảy ra vụ án, bị cáo đang làm thuê cho họ ở nơi cách hiện trường vụ án cả trăm cây số...

Ngày 24-3, TAND tỉnh Hậu Giang sẽ tuyên án phúc thẩm (lần ba) vụ Huỳnh Hữu Nhơn (34 tuổi, ngụ thị trấn Rạch Gòi, huyện Phụng Hiệp, Hậu Giang) cướp tài sản. Sau nhiều phiên tòa, đến nay có thể khẳng định bị cáo Nhơn bị oan rất rõ.

Một vụ án truy xét

Theo hồ sơ, khoảng 16 giờ ngày 17-4-2016, tại xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, Hậu Giang xảy ra vụ cướp. Nạn nhân là anh Nguyễn Hoàng Ngân bị cướp túi xách chứa 1,35 triệu đồng cùng 15 tờ vé số. Sau khi anh Ngân báo công an xã, Trần Văn Rồi bị bắt. Rồi khai đi cướp cùng Nhơn. Vì vậy, cả Nhơn và Rồi bị khởi tố. Rồi đã chấp hành xong bản án 3,5 năm tù; còn Nhơn sáu năm qua miệt mài kêu oan.

Đây là vụ án truy xét, không phải bắt quả tang nên cơ quan tố tụng buộc tội chủ yếu căn cứ vào lời khai của bị hại, bị cáo Trần Văn Rồi và người làm chứng (nhưng không tận mắt chứng kiến vụ cướp). Tuy nhiên, những lời khai được dùng để buộc tội lại rất lỏng lẻo, nhiều điểm mâu thuẫn. Đa số người làm chứng đều khai chỉ thấy Rồi (trên đường, không phải thấy lúc đang thực hiện hành vi cướp) chứ không thấy Nhơn. Nói chung là không có lời khai nào thể hiện thấy Nhơn tham gia cướp với Rồi, trừ lời khai của Rồi. Tuy nhiên, những lời khai của Rồi lại không rõ ràng, đầy mâu thuẫn.


Một trang trong cuốn sổ ghi chép thuê nhân công mà bà Phạm Thị Thu Hương (người thuê Nhơn lái ghe chở mía) nộp cho tòa. Ảnh: HẢI DƯƠNG

Về phía Nhơn, ngay từ đầu bị cáo này đã kêu oan, bảo mình không tham gia cướp. ngày xảy ra vụ cướp, Nhơn đang làm thuê (chở mía) ở Kiên Giang, cách hiện trường vụ án 100 km.

Chứng cứ ngoại phạm quá thuyết phục

Việc Nhơn làm thuê ở Kiên Giang (vào thời điểm xảy ra vụ cướp ở Hậu Giang) được nhiều người ở Kiên Giang đứng ra làm chứng, trước sau họ khai như một, thuyết phục, rõ ràng. Những người làm chứng này là vợ chồng ông Nguyễn Hoàng Nam và bà Phạm Thị Thu Hương (thuê Nhơn lái ghe đi chở mía), ông Phạm Văn Lương (người ghi sổ nhân công vác mía), ông Dương Hoài Sơn (người thu tiền bến khi ghe mía đi qua).

Tại tòa, vợ chồng ông Nam - bà Hương đưa ra cuốn sổ ghi chép thể hiện thời điểm đó Nhơn đang làm thuê cho họ. Trong cuốn sổ này, có một trang ghi “GHE NHƠN, ngày 10/3/16AL”, trong đó có ghi tên nhiều người vác mía cho ghe mà Nhơn lái cùng số tiền công phải trả...

Tại tòa, ông Nam khai: “Chiều tối 9-3-2016 (âm lịch), Nhơn và em trai tôi đã chạy ghe về tới, em tôi lên bờ, còn Nhơn ở lại ghe. Ngày 10-3 bắt đầu xuống mía. Đáng lẽ ghe của Nhơn đi rồi nhưng do thiếu mía, Nhơn mới xin cho chở thêm để kiếm thêm tiền nên mới kéo dài đến chiều 11-3 âm lịch Nhơn mới đi. Quyển sổ chỉ ghi ngày 10-3 bởi vì chúng tôi thường chỉ ghi ngày xuống mía đầu tiên”.

Ông Nam, bà Hương nói họ có thói quen xài lịch âm nhưng khi đối chiếu lại lịch dương thì ngày 11-3 âm lịch nhằm ngày 17-4 dương lịch (ngày xảy ra vụ cướp ở Hậu Giang).

Theo ông Nam, quãng đường từ bãi mía ở Kiên Giang đến Nhà máy đường Vị Thanh (Hậu Giang) khoảng 100 km. Thời điểm đó, đường (đường bộ) đi rất khó, nhỏ và nhiều ổ gà. Còn đường thủy di chuyển rất lâu, trường hợp ghe chở mía nổi (nhẹ) thì chạy khoảng 12 tiếng, còn ghe chở khẳm (đầy) thì chạy đến 20 tiếng.

Ông Phạm Văn Lương thì khai ông được vợ chồng ông Nam thuê làm nhiệm vụ ghi lại công vác mía cho nhân công. “Chiều 9-3 (âm lịch), ghe của Nhơn đã về tới bãi mía nhưng trời tối nên không xuống mía. Đến ngày 10-3 Nhơn mới xuống mía, đến khoảng 15 giờ ngày 11-3 thì Nhơn chạy ghe đi. Tôi có ghi vào sổ công vác mía nên nhớ rõ” - ông Lương trình bày.

Tương tự, ông Dương Hoài Sơn cũng cho rằng khoảng 3 giờ chiều 17-4-2016 (tức ngày 11-3 âm lịch), Nhơn đóng tiền bến cho ông rồi mới chạy ghe đi. “Sở dĩ tôi nhớ được chính xác ngày tháng vì tôi là chủ bến thu tiền ghe, hỗ trợ các xuồng ghe qua đập và canh độ mặn để báo cáo cho Sở NN&PTNT. Đó cũng là chuyến ghe cuối cùng của mùa mía. Vào cuối mùa, chúng tôi thường tổ chức ăn uống, chia tay nhau nên tôi nhớ rất rõ. Đó là tất cả những gì tai tôi nghe, mắt tôi thấy” - ông Lương nói chắc nịch.

Vì sao gọi là vụ “cướp xuyên không”?

Vụ án này ngay từ đầu Pháp Luật TP.HCM đã phân tích, cho rằng có dấu hiệu oan. Với những chứng cứ thuyết phục, chúng tôi cho rằng khi xảy ra vụ cướp ở Hậu Giang, Nhơn đang làm thuê ở Kiên Giang, cách nhau cả 100 km. Vì thế, bị cáo Nhơn chỉ có thể “xuyên không” mới thực hiện được vụ cướp cùng với Rồi.

Bản án sơ thẩm lần một, hai và ba của TAND huyện Phụng Hiệp đều tuyên phạt Nhơn bốn năm tù. Trần Văn Rồi bị phạt ba năm sáu tháng tù và đã chấp hành án xong. Chỉ có Nhơn thì suốt sáu năm qua quyết tâm kêu oan.

Trong vụ này, có điều lạ là ngay từ đầu, vợ chồng nhân chứng Nguyễn Hoàng Nam và Phạm Thị Thu Hương đã khai về cuốn sổ ghi chép nhưng phải đến phiên tòa phúc thẩm lần ba này họ mới tin tưởng giao cho tòa. Hy vọng với bằng chứng ngoại phạm thuyết phục này, phán quyết của tòa sẽ chính thức minh oan cho Nhơn.

Bị cáo vụ 'cướp xuyên không': Có tội, em đã nhận rồi…

(PLO)- Với bằng chứng ngoại phạm quá rõ ràng, TAND tỉnh Hậu Giang cần mạnh dạn, dũng cảm tuyên bị cáo Huỳnh Hữu Nhơn không phạm tội, kết thúc kỳ án kéo dài, gây khổ đau cho bị cáo.

HẢI DƯƠNG

Những lời khai rõ ràng, mạch lạc của Tâm cũng như việc nôn nóng nắm bắt thông tin về vụ án của anh ta đã không che mắt được các trinh sát trực tiếp thụ lý vụ án. Thêm nữa, nguyên nhân của vụ án là do nạn nhân Phương đi lấy trộm cá vào ban đêm.

Hơn 3h sáng, xóm nhỏ thuộc địa bàn khu 3 xã Bình Bộ, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đang yên giấc bất ngờ bị đánh thức bởi tiếng kêu thất thanh. Những người hàng xóm chạy đến và chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng: anh Trần Văn Phương (35 tuổi), người cùng thôn, đang nằm bất tỉnh ở một góc vườn, trên ngực có nhiều vết máu và đã  tử vong.

Thông tin về vụ án được Công an huyện Phù Ninh chuyển đến Phòng CSĐT tội phạm về TTXH, Công an tỉnh Phú Thọ. Ngay lập tức, một tổ công tác của Đội Trọng án phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự đã có mặt tại hiện trường. Qua khám nghiệm sơ bộ, CQĐT xác định nạn nhân bị tử vong do một vết dao đâm thấu ngực phải.

Tại hiện trường vụ án, các trinh sát không thu được gì ngoài chiếc đèn pin mà người dân trong vùng thường dùng để đi đêm. Lúc này, việc thu thập tài liệu gặp nhiều khó khăn do chỉ có lời khai duy nhất của Lê Văn Tâm, với tư cách là nhân chứng của vụ án.

Tâm cho biết: Sau trận bóng đá, Tâm cùng vợ con trở dậy kiểm tra số đó đặt ở ven ruộng xem có cá không. Trên đường trở ra, Tâm phát hiện xác của anh Phương nằm bất tỉnh, ngoài ra anh ta không phát hiện có người nào ở đó...

Những lời khai rõ ràng, mạch lạc của Tâm cũng như việc nôn nóng nắm bắt thông tin về vụ án của anh ta đã không che mắt được các trinh sát trực tiếp thụ lý vụ án. Tiến hành nắm bắt nhân thân của Phương, các trinh sát cũng thu thập được nhiều thông tin quan trọng, phục vụ cho việc phá án. Phương nghiện rượu và thường có tính tắt mắt. Rất có thể nguyên nhân của vụ việc cũng bắt nguồn từ việc anh ta đi lấy trộm cá vào ban đêm.

Từ hướng nhận định trên, các mũi điều tra đã tăng cường rà soát. Sau khi sàng lọc, các trinh sát đã loại dần những đối tượng nghi vấn và hướng chú ý tập trung vào Tâm. Một mặt thu thập chứng cứ, mặt khác các trinh sát đã dùng biện pháp tâm lý, tác động đến những người thân trong gia đình anh ta. Đến lúc này, Tâm đã phải nhận tội. Với các chứng cứ thu thập được, Phòng CSĐT tội phạm về TTXH, Công an tỉnh Phú Thọ phối hợp với Viện Kiểm sát đã thống nhất đề nghị truy tố Tâm về hành vi giết người.

Ngoài công việc đồng áng, vợ chồng Tâm, Như  thường làm các đó bắt cá, tép trên cánh đồng. Hôm đó, sau khi trở về nhà, Tâm bảo con gái và vợ là chị Lê Thị Như đi tìm các đơm đặt cá. Khoảng 20 phút sau đó, khi anh Tâm quay ra đồng thì gặp con gái lớn là Nga hớt hải chạy về nói việc đã bị Phương lấy trộm đó cá...

Tâm đi theo hướng con gái chỉ thì phát hiện có ánh đèn pin của Phương. Cả hai bên lời qua tiếng lại, Tâm đã đâm Phương dẫn đến tử vong. Sau khi gây án, Tâm đã nói lại vụ việc với Như đồng thời yêu cầu vợ phải giấu con dao... CQĐT đang xem xét, đề nghị truy tố Lê Thị Như về hành vi không tố giác tội phạm

X.M.

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm chứng cứ
  • 2. Các thuộc tính của chứng cứ
  • 2.1 Tính khách quan của chứng cứ
  • 2.2 Tính liên quan của chứng cứ
  • 2.3 Tính hợp pháp của chứng cứ
  • 3. Các đặc điểm của chứng cứ:
  • 4. Nguyên tắc sử dụng chứng cứ
  • 5. Những quy định mới về chứng cứ và chứng minh theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

1. Khái niệm chứng cứ

Khái niệm chứng cứ là một trong những nội dung quan trọng của lí luận về chứng cứ. Khái niệm chứng cứ là cơ sở để giải quyết hàngloạt vấn đề liên quan như các thuộc tính của chứng cứ, các thủ tục thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ... góp phần quyết định vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan từng vụ án hình sự; định nghĩa chính xác khái niệm chứng cứ ảnh hưởng không nhỏ tới việc xác định địa vị pháp lí (quyền và nghĩa vụ tố tụng hình sự) của những người tham gia tố tụng, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân.

Do có vai trò quan trọng như vậy, cho nên khái niệm chứng cứ được người làm luật xác định cụ thể trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều 86, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:

“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vỉ phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ỷ nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Đồng thời, BLTTHS năm 2015 cũng quy định các nguồn chứng cứ là vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp và hợp tác quốc tế; các tài liệu, đồ vật khác (khoản 1 Điều 87).

Như vậy, chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án được chứa đựng ữong các nguồn khác nhau. Vì vậy, cần phân biệt chứng cứ với nguồn chứng cứ. Chứng cứ là các thông tin được chứa đựng trong các nguồn chứng cứ, do vậy, các nguồn không phải là chứng cứ. Tuy nhiên, bất kì chứng cứ nào cũng được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định để đảm bảo cho chứng cứ được đúng đắn, khách quan, hợp pháp. Trong lí luận cũng như thực tiễn tố tụng, không phải lúc nào chứng cứ và nguồn chứng cứ cũng được phân biệt rõ ràng.

Việc thu thập chứng cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định được hiểu là thu thập nguồn chứng cứ hoặc thu thập ngay chính chứng cứ. Thu thập con dao dính máu tại hiện trường vụ án là thu thập nguồn chứng cứ nhưng thu thập máu đọng lại trên nền nhà nơi xảy ra vụ án giết người qua khám nghiệm hiện trường lại là thu thập chứng cứ.

Khái niệm chứng cứ phải bao hàm được mối quan hệ giữa hình thức tố tụng và bản chất khách quan của chứng cứ, chủ thể và đối tượng chứng minh cũng như thể hiện đầy đủ các yếu tố nội hàm đặc trưng của chứng cứ.

Từ những phân tích trên, căn cứ vào quy định của BLTTHS năm 2015, có thể đưa ra định nghĩa khái niệm khoa học về chứng cứ như sau:

Chứng cứ là những gì có thật được xác định bằng các nguồn nhẩt định và được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định mà chủ thể chứng minh dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vỉ phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

2. Các thuộc tính của chứng cứ

Khái niệm chứng cứ nêu trên thể hiện đầy đủ các thuộc tính cần và đủ mà bất kì chứng cứ nào cũng phải có. Đó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Việc phân tích các thuộc tính của chúng cứ có ý nghĩa quan trọng không chỉ về lí luận mà còn có ý nghĩa quan trọng về mặt thực tiễn, giúp cho nhà làm luật quy định rõ ràng, chặt chẽ, đầy đù các trình tự, thủ tục của quá trình chứng minh, giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu thập, kiểm ưa, đánh giá chứng cứ đúng thủ tục pháp luật quy định, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án chính xác, khách quan.

2.1 Tính khách quan của chứng cứ

Tính khách quan là một ưong nhũng thuộc tính quan ưọng của chứng cứ. Theo định nghĩa thì chứng cứ là những gì có thật. Điều đó có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật khách quan, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Các thông tin, tài liệu, đồ vật đó phù hợp với các tình tiết của vụ án đang được chứng minh. Trong BLTTHS năm 2015, tính khách quan của chứng cứ được gọi là tính xác thực của chứng cứ (khoản 1 Điều 108).

Cũng có ý kiến cho rằng một số chứng cứ chứa đựng ưong lời khai của người tham gia tố tụng thì khó mang tính khách quan, dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng của yếu tố chủ quan, của ý chí người khai báo. Thực ra, chứng cứ ưong lời khai của người tham gia tố tụng là những thông tin về tội phạm được phản ánh khách quan trong ý thức người chứng kiến sự việc phạm tội đó. Vì vậy, về bản chất các thông tin được khai báo là khách quan. Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố khác nhau (như khả năng tiếp nhận thông tin, quan hệ với người phạm tội, người bị hại...) mà thông tín đó được tiếp nhận hoặc cung cấp sai lệch. Nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng là kiểm tra xem các thông tin đó có khách quan hay không. Các thông tin mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án hay người có thẩm quyền khác nhận được mà không khách quan thì dù bất ki lí do gì đều không được coi là chứng cứ.

Những thông tin, tài liệu, đồ vật dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, đồ vật đỏ không thể là chứng cứ của vụ án được.

Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, việc xác định đúng đắn tính khách quan của chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong chứng minh tội phạm. Việc sử dụng các thông tin, tài liệu bị bóp méo, bị xuyên tạc, bị làm giả để chứng minh cũng như kiểm tra, đánh giá chứng cứ phụ thuộc vào suy luận chủ quan của nguồn chứng cứ (suy luận chủ quan của người cung cấp lời khai, người báo cáo...) sẽ làm cho việc chứng minh thiếu chính xác, sự thật khách quan không được xác định. Trong bối cảnh đó vụ án sẽ bị giải quyết sai lệch.

2.2 Tính liên quan của chứng cứ

Chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật mà cơ quan, người có thẩm quyền dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự, thông thường nhiều thông tin, tài liệu được thu thập. Tuy nhiên, không phải tất các thông tin, tài liệu thu thập được đều là chứng cứ mà chỉ các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án, tức dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án mới là chứng cứ.

Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tài liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này thể hiện ở hai mức độ khác nhau:

Ở mức độ thứ nhất, mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng chứng minh. Đây là mối quan hệ cơ bản, chủ yếu. Thể hiện mối quan hệ này, chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết thực chất vụ án, tức xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp V.V..

Ỏ mức độ khác, có những thông tin, tài liệu, đồ vật không được dùng làm căn cứ trực tiếp để giải quyết thực chất vụ án nhưng lại được dùng để xác định các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trong trường hợp này tính liên quan của chúng được thể hiện một cách gián tiếp. Mặc dù là quan hệ gián tiếp nhưng trong nhiều trường hợp việc chứng minh tội phạm không thể thiếu được các thông tin, tài liệu, đồ vật này.

Ví dụ: Lời khai của người làm chứng rằng vào thời điểm tội phạm xảy ra, người bị tạm giữ có mặt tại nơi xảy ra tội phạm. Mặc dù người làm chứng không thấy được việc người bị tạm giữ có thực hiện hành vi phạm tội hay không nhưng lời khai đó của họ cũng giúp cho cơ quan điều tra trong việc xác lập phương án điều tra, lời khai đó cũng có thể dùng để bác bỏ lời khai của người bị tạm giữ về tình trạng ngoại phạm của mình.

Để coi một thông tin, tài liệu, đồ vật có phải là chứng cứ hay không, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án phải xác định được tính liên quan của thông tin, tài liệu, đồ vật đó ở cả hai mức độ.

Nếu thông tin, tài liệu, đồ vật không có ý nghĩa trong giải quyết vụ án thì chúng thiếu tính liên quan, vì vậy không phải là chứng cứ.

2.3 Tính hợp pháp của chứng cứ

Tính hợp pháp của chứng cứ là sự phù hợp của nó với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong các mặt sau đây:

Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của pháp luật. Những thông tin, tài liệu, đồ vật tuy tồn tại trong thực tế và có liên quan đến vụ án nhưng không được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định thì không được coi là chứng cứ.

Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015 thì chứng cứ phải được xác định bằng một trong các nguồn:

a) Vật chứng;

b) Lời khai, lời trình bày;

c) Dữ liệu điện tử;

d) Kết luận giám định, định giá tài sản;

đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án;

e) Kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;

g) Các tài liệu, đồ vật khác.

Chứng cứ của vụ án có thể được xác định bằng một hay nhiều nguồn khác nhau mà bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định.

Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi không chỉ ở việc chửng cứ phải được lưu giữ trong nguồn nhất định mà còn đòi hỏi mỗi loại chứng cứ phải được xác định bằng nguồn tương ứng xác định.

Ví dụ: Lời khai của người tham gia tố tụng được thể hiện trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung hoặc biên bản phiên toà. Mặc dù BLTTHS 2015 có quy định khi hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất bắt buộc hoặc có thể ghi âm, ghi hình có âm nhưng điều đó chủ yếu là để giám sát hoạt động tố tụng. Các bản ghi âm, ghi hình có được coi là biên bản (tức nguồn chứng cứ) hay không đang được bàn luận tiếp.

Tính hợp pháp đòi hỏi chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015:

“những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lí và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

Tuỳ theo đặc điểm, tính chất của từng loại chứng cứ mà BLTTHS quy định các trình tự, thủ tục thu thập khác nhau nhằm đảm bảo tính khách quan và giá tậ chứng minh của chứng cứ trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ bằng cách lấy lời khai, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của pháp luật (Điều 88 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ được dùng làm chứng nếu họ nói rõ vì sao biết được tình tiết mà họ trình bày (các điều 91, 92, 93, 94 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Vật chứng cứ phải được thu thập kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh, có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản theo quy định của pháp luật (Điều 105 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ); các tình tiết không được mô tả trong biên bản thu giữ vật chứng thì không phải là chứng cứ và không có giá trị chứng minh.

Ví dụ: Trong biên bản thu giữ vật chứng là cái áo của người phạm tội có miêu tả rằng áo thiếu một cúc và các cúc áo còn lại giống cúc áo thu giữ được tại hiện trường vụ án giết người và không miêu tả gì thêm. Tuy nhiên sau đó cơ quan giám định lại phát hiện trên ống tay áo có vết máu thì kết luận giám định về vết máu đó không phải là chứng cứ vì vết máu không được mô tả trong biên bản khi thu giữ chiếc áo. Các hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ như khám xét người (Điều 194 BLTTHS), khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện (Điều 195 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), khám nghiệm hiện trường (Điều 201 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), khám nghiệm tử thi (Điều 202 BLTTHS), xem xét dấu vết trên thân thể (Điều 203 BLTTHS).., phải có người chứng kiến, nếu thiếu người chứng kiến thì thông tin, tài liệu, đồ vật thu giữ được trong các hoạt động đó không được sử dụng làm chứng cứ.

Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi việc thu thập phải đúng trình tự do pháp luật quy định. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy có không ít trường họp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành thu giữ đồ vật, tài liệu không đúng thủ tục rồi sau đó mới tiến hành “hợp pháp hoá” để đưa vào hồ sơ vụ án hoặc “hợp pháp hoá” tài liệu trinh sát để sử dụng làm chứng cứ... Trong các trường họp đó chứng cứ đều thiếu tính hợp pháp nên không thể có giá trị chứng minh trong tố tụng hình sự.

Tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là các thuộc tính cần và đủ của chứng cứ. Chúng thể hiện các mặt khác nhau của chứng cứ nhưng liên quan rất chặt chẽ với nhau tạo thành thể thống nhất về nội dung cũng như hình thức, bảo đảm cho chứng cứ có giá trị chứng minh. Các thuộc tính đều có ý nghĩa pháp lí như nhau, không được coi thường thuộc tính nào. Thiếu một trong các thuộc tính này thông tin, tư liệu thu thập được không thể được coi là chứng cứ.

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy thông thường cơ quan tiến hành tố tụng ít coi trọng tính hợp pháp của chứng cứ. Nhiều trường hợp vụ án được giải quyết trên cơ sở những chứng

cứ được thu thập bất hợp pháp như hợp thức hoá nguồn chứng cứ, thu thập không theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, thu thập lời khai bằng cách bức cung, mớm cung, dùng nhục hình... nên dẫn đến sai lầm trong giải quyết thực chất vụ án. Trong số đó có những trường hợp xảy ra oan, sai nghiêm trọng.

3. Các đặc điểm của chứng cứ:

Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh, tất cả những người tham gia tố tụng cũng có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, phần lớn chứng cứ của vụ án do các đương sự chủ động cung cấp cho Toà án nhằm thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình. Toà án dựa vào những tin tức chứa đựng trong các tài liệu, vật chứng đó và trên cơ sở tranh tụng công khai tại phiên toà để đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc ra phán quyết đúng pháp luật, đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đương sự.

Vì thế chứng cứ rất quan trọng đối với việc chứng minh của cả cơ quan tố tụng và các bên đương sự. Chứng cứ có những đặc điểm chính sau đây:

1. Tính khách quan: Chứng cứ hình thành và tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không cò; do đó không thể coi là chứng cứ. Con người phát hiện, thu thập và tìm ra chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.

2. Tính liên quan: Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Giáo dục, 1998:” tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất”.Tính liên quan tỏng vụ việc tố tụng dân sự được hiểu là : các tình tiết, sự kiện, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ việc dân sự mà tòa án đang giải quyết. Chứng cứ là những thông tin làm cơ sở cho việc khẳng định sự tồn tại hoặc không tồn tại của những sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Các sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ khi nó chứa đựng những nội dung gắn liền với việc giải quyết của vụ án. Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định cụ thể các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc, đánh giá những gì có thật liên quan đến vụ việc mà thôi.

Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định nagy các tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là mối quan hệ qua khâu trgn gian mới tìm được tình tiết, sự kiện. Tuy nhiên, cho dù là mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp thì đây cũng là mối quan hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn sự việc dân sự mà không để xảy ra trường hợp thừa hay không đầy đủ chứng cứ.

3. Tính hợp pháp: Không phải bất kỳ thông tin thực tế nào liên quan đến các tình tiết sự kiện của vụ án đều có thể làm căn cứ cho Tòa án giải quyềt vụ án mà chỉ có những thông tin thực tế được thu thập, kiểm tra và đánh giá theo trình tự do luật định. Mặt khác, chỉ có những thông tin thực tế thu thập từ những nguồn do luật định mới có thể được coi là chứng cứ. Trước hết, chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong những loại nguồn của chứng cứ. Vật chứng luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng.

Vì vậy tòa án không chỉ thu thập đúng trình tự mà còn phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo tính đúng đắn hợp pháp của chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định một cách cụ thể: phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; Phải là phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp; Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự ; Phải được thu thập cung cấp theo đúng pháp luật tố tụng.

4. Nguyên tắc sử dụng chứng cứ

Để việc sử dụng chứng cứ đạt được mục đích, chủ thể tiến hành tố tụng cần phải quán triệt và thực hiện một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong sử dụng chứng cứ, đó là:

Nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ trong tố tụng hình sự: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được sử dụng những chứng cứ với đầy đủ các thuộc tính bắt buộc là khách quan, liên quan và hợp pháp. Các tài liệu, chứng cứ thu thập được qua biện pháp điều tra, trinh sát, phải được chuyển hóa thành chứng cứ hợp pháp mới được sử dụng. Những tài liệu, chứng cứ phải được kiểm tra, xác minh đầy đủ, phải phù hợp với thực tế khách quan, đảm bảo sự tin cậy vững chắc và có đủ căn cứ mới sử dụng được. Tuyệt đối không sử dụng chứng cứ chưa qua nghiên cứu, kiểm tra, xác minh làm căn cứ, cơ sở để đưa ra những quyết định pháp lý, hoặc sử dụng vào việc kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác. Khi sử dụng chứng cứ không được định kiến, chủ quan, thiên lệch, coi trọng chứng cứ này mà bỏ qua chứng cứ kia, chỉ coi trọng sử dụng chứng cứ gốc, chứng cứ trực tiếp mà bỏ qua, coi nhẹ chứng cứ sao chép, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gián tiếp, không chỉ sử dụng chứng cứ buộc tội mà sử dụng cả chứng cứ gỡ tội và ngược lại.

Khi sử dụng chứng cứ phải tuân theo đúng những quy định của pháp luật: Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định thế nào là chứng cứ, cũng như quy định về nguồn chứng cứ. Do vậy, khi sử dụng những chứng cứ phải chấp hành nghiêm chỉnh theo những quy định của pháp luật tố tụng. Chẳng hạn, khi sử dụng lời khai của bị can, bị cáo làm chứng cứ thì phải hết sức thận trọng vì “... Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội” (khoản 2 Điều 98 BLTTHS năm 2015). Đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Khi sử dụng lời khai của người làm chứng cần lưu ý:

“1. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.

2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó” (Điều 91 BLTTHS năm 2015).

Sử dụng chứng cứ phải đảm bảo tính kịp thời

Sau khi phát hiện, thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng cần tiến hành nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá ngay để sử dụng nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời của các hoạt động tiếp theo, vừa đảm bảo thời gian đã được quy định đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, vừa đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, hạn chế những thiệt hại cho xã hội, bắt giữ ngay người phạm tội không để chúng có thời gian lẩn trốn, tiêu hủy tài sản, chứng cứ tang vật, xóa hết dấu vết hoặc tiếp tục gây án. Mặt khác, các chứng cứ sau khi kiểm tra đánh giá, đã xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ thì chỉ được sử dụng đúng với giá trị của nó, việc sử dụng cần căn cứ vào giới hạn, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, không được phép phán đoán chủ quan, sử dụng gượng ép, ngoài khả năng chứng minh của từng chứng cứ. Sử dụng đúng giá trị chứng minh của chứng cứ cho phép người tiến hành tố tụng xác định đúng sự thật khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội.

5. Những quy định mới về chứng cứ và chứng minh theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Chứng cứ trong vụ án hình sự là căn cứ để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án, do đó BLTTHS năm 2015 có những đổi mới quan trọng, quy định chặc chẽ hơn trong vấn đề chứng cứ và chứng minh tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong công tác đấu tranh có hiệu quả hơn với tội phạm, đồng thời cũng tránh làm oan người vô tội.

Thứ nhất: BLTTHS thay đổi định nghĩa về chứng cứ và theo đó mở rộng thẩm quyền về thu thập chứng cứ. Điều 86 BLTTHS quy định:

“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Theo quy định trước đây thì việc thu thập chứng cứ chỉ có CQĐT, VKS, TA thu thập và được sử dụng làm chứng cứ. Khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định:

“Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”.

Cũng theo quy định này đã quy định cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo tính khả thi, tránh gây khó khăn trong thực tiễn thực hiện.

Thứ hai: Bổ sung thêm những vấn đề phải chứng minh nhằm đảm bảo tính khách quan, toàn diện, tránh xử lý vụ án theo hướng một chiều của các Cơ quan tiến hành tố tụng là chỉ buộc tội. Điều 85 BLTTHS quy định thêm những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự gồm:

“Nguyên nhân và điều kiện phạm tội” (khoản 5). “Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt”.

Thứ ba: Bổ sung thêm nguồn chứng cứ. Khoản 1 Điều 87 BLTTHS quy định nguồn chứng cứ gồm: dữ liệu điện tử (điểm c), kết luận định giá tài sản (điểm d), kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác (điểm e).

Thứ tư: Quy định cụ thể trách nhiệm, trình tự, thủ tục tiếp nhận và đánh giá chứng cứ do những người tham gia tố tụng cung cấp. Khoản 4 Điều 88 BLTTHS quy định:

“Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này”.

Khoản 5 BLTTHS quy định “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.

Thứ năm: Bổ sung nguyên tắc loại trừ chứng cứ. Khoản 2 Điều 87 BLTTHS quy định:

“Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

Đây cũng là nguyên tắc nhằm tránh việc thu thập chứng cứ một cách tùy tiện, tránh vi phạm quyền con người, quyền công dân trong quá trình thu thập chứng cứ.

Mọi vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật hình sựtrực tuyến qua tổng đài điện thoại , gọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự- Công ty Luật Minh Khuê

Video liên quan

Chủ đề