Điều kiện tự nhiên của tây nguyên thuận lợi để phát triển thủy điện là gì?

Tây Nguyên gồm 5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ bắc xuống nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với diện tích tự nhiên là 54.474 km2 chiếm 16,8% diện tích tự nhiên cả nước.

Bản đồ hành chính vùng Tây Nguyên

Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia). Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế.

Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
 

Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon TumGia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.

Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái.

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
          Địa hình:           - Ở về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đông sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia cắt phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:               + Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt của vùng. Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với qui mô lớn.               + Địa hình vùng núi.               + Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn; chủ yếu phát triển cây lương thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt.

           Khí hậu:
  - Chịu ảnh hưởng của khí hậu cận xích đạo; nhiệt độ trung bình năm khoảng 20 0C điều hoà quanh năm biên độ nhiệt ngày và đêm chênh lệch cao trên 5,5 0C.

          - Khí hậu Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt mùa khô và mùa mưa. Mùa khô nóng hạn, thiếu nước trầm trọng, mùa mưa nóng ẩm, tập trung 85-90% lượng mưa của cả năm.

          Tài nguyên nước:

          - Tây Nguyên có 4 hệ thống sông chính: Thượng sông Xê Xan, thượng sông Srêpok, thượng sông Ba và sông Đồng Nai. Tổng lưu lượng nước mặt là 50 tỷ mét khối. Chế độ dòng chảy chịu tác động của khí hậu. Nguồn nước ngầm tương đối lớn nhưng nằm sâu, giếng khoan trên 100 mét.

  Đất đai:

      - Đất đai được coi là tài nguyên cơ bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp. Diện tích đất chủ yếu là đất đỏ bazan, tầng phong hoá dày, địa hình lượn sóng nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Plâycu, Đăk Nông, Kon Tum chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều... và rừng; Đất đỏ vàng diện tích khoảng 1,8 triệu ha, kém màu mỡ hơn đất đỏ bazan nhưng giữ ẩm tốt và tơi xốp nên thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngoài ra còn có đất xám phân bố trên các sườn đồi thoải phía Tây Nam và trong các thung lũng, đất phù sa ven sông, thích hợp cho trồng cây lương thực.

          - Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị thoái hoá nghiêm trọng (đất bazan thoái hoá tới 71,7%; diện tích đất bị thoái hoá nặng chiếm tới 20%).


Tài nguyên rừng:

          - Tây nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam. Rừng Tây Nguyên giàu về trữ lượng, đa dạng về chủng loại Trữ lượng rừng gỗ chiếm tới 45% tổng trữ lượng rừng gỗ của cả nước. Diện tích rừng Tây Nguyên là 3.015,5 nghìn ha chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước. Các cây dược liệu quí được tìm thấy ở đây như sâm bổ chỉnh, sa nhân, địa liền, thiên niên kiện, hà thủ ô trắng,... và các cây thuốc quí có thể trồng được ở đây như atisô, bạch truật, tô mộc, xuyên khung...
 

          - Hệ động vật hoang dã cũng rất phong phú có ý nghĩa kinh tế và khoa học. Có tới 32 loài động vật quí hiếm như voi, bò tót, trâu rừng, hổ, gấu, công, gà lôi...

Tài nguyên khoáng sản:

          - Chủng loại khoáng sản ít. Đáng kể nhất là quặng bôxit với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước, phân bố chủ yếu ở Đắc Nông, Gia Lai Kon Tum. Việc khai thác quặng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp của vùng.


          - Vàng có 21 điểm vàng trữ lượng khoảng 8,82 tấn phân bố ở Kon Tum, Gia Lai. Ngoài ra còn các loại đá quí, các mỏ sét gạch ngói phân bố ở Chưsê - Gia Lai và Bản Đôn - Đắc Lắc, than bùn và than nâu phân bố ở Biển Hồ, làng Bua, làng Vệ - Gia Lai, Chư Đăng - Đắc Lắc.

  • Tây Nguyên
  • Kon Tum
  • Gia Lai
  • Đắk Lắk
  • Đắk Nông
  • Lâm Đồng

Đề xuất

(TN&MT) – Việc ồ ạt phát triển thủy điện trên các sông lớn của Tây Nguyên đã và đang gây ra nhiều hệ lụy lớn đến môi trường và hệ sinh thái tự nhiên.

(TN&MT) – Việc ồ ạt phát triển thủy điện trên các sông lớn của Tây Nguyên đã và đang gây ra nhiều hệ lụy lớn đến môi trường và hệ sinh thái tự nhiên. Nguồn nước ở Tây Nguyên đang ngày càng giảm sút nghiêm trọng, các con sông lớn đang bị tận diệt sức sống, diện tích rừng mất đi ngày càng tăng cao… là những vấn đề nổi cộm được cơ quan chuyên môn và các nhà khoa học đặc biệt quan tâm thảo luận tại Hội thảo “An ninh nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên” tổ chức tại Gia Lai ngày 22/7.

Biểu đồ hệ thống thủy điện dày đặc trên sông Đồng Nai

“Tận diệt” sức sống của các dòng sông

Tây Nguyên có nguồn tài nguyên nước dồi dào, phong phú với 4 hệ thống sông chính: Sê San, Srêpốk, sông Ba và sông Đồng Nai. Thêm điều kiện địa hình, địa chất thuận lợi, các dòng sông trên có tiềm năng khá lớn về phát triển thủy điện. Chính vì thế, Tây Nguyên đã trở thành hiện tượng “sốt thủy điện”. Từ lúc đầu chỉ có 7 công trình thủy điện lớn, thì đến năm 2015 đã có 190 công trình thủy điện lớn và nhỏ trên cả 4 hệ thống sông.

Tiến sĩ Đào Trọng Tứ - Giám đốc Trung tâm phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu đã nêu rõ hệ lụy do việc ồ ạt phát triển các công trình thủy điện trên hệ thống sông Tây Nguyên. Đầu tiên là thủy điện Srêpốk 4A trên dòng Srêpốk. Thủy điện này đã ngăn dòng, chuyển nước qua kênh đào lớn xuống đoạn sông 20km hạ lưu thủy điện Srêpốk 4. Chính điều này làm đoạn sông từ sau đập thủy điện Sêrêpốk 4 và Sêrêpôk 4A bị cạn kiệt có nguy cơ trở thành đoạn sông “chết”.

Vì vậy, lưu lượng nước 8,23m3/giây mà thủy điện Sêrêpốk4A trả về cho đoạn sông này vẫn là quá thấp so với dòng chảy sinh thái vốn có của con sông này. Thêm vào đó, nạn phá rừng đã làm dòng sông Sông Srêpốk lớn thứ 2 Tây Nguyên đang thay đổi theo hướng tiêu cực, hung dữ hơn về mùa mưa và cạn kiệt hơn về mùa khô.

Bản đồ các công trình thủy điện trên sông Sê San ở Việt Nam

Tiếp đến, sông Sê San được mệnh danh là con sông “năng lượng” khi có tới 7 công trình thủy điện lớn đã được xây dựng, vận hành. Ngoài ra, còn có 238 công trình thủy lợi khác cũng đã, đang và sẽ được triển khai xây dựng. Chính vì vậy, con sông này phải chịu ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đối với môi trường sinh thái, kinh tế. Diện tích đất rừng và nông nghiệp bị mất, cảnh quan thiên nhiên thay đổi. Đặc biệt, thủy điện Thượng Kon Tum trên sông Sê San đang được xây dựng, sau khi phát điện sẽ không trả nước về dòng chính mà trả về sông Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi. Điều này khiến hệ sinh thái, môi trường vùng hạ du sông Sê San sẽ phải đối mặt với hiểm họa có thể nhìn thấy trước, và sẽ còn ghê gớm hơn những gì mà thủy điện An Khê – Kanak đã gây ra cho vùng hạ lưu sông Ba (Gia Lai).

“Việc chuyển đối dòng chảy của các thủy điện là rất đáng lo ngại. Tất cả các dự án thủy điện phải vô cùng thận trọng và phải tránh. Thực tế, thủy điện đang tận diệt sức sống của những dòng sông lớn nhất Tây Nguyên, gây mất diện tích rừng lớn”, tiến sĩ Đào Trọng Tứ nhấn mạnh.

Tiến sĩ Đào Trọng Tứ: “Thủy điện đang tận diệt những dòng sông lớn nhất Tây Nguyên”

Đánh đổi nhiều thứ

Theo đánh giá của hội thảo, một hồ thủy điện cỡ 10MW chạy vào khoảng 60% công suất trong các tháng mùa khô có thể xóa sổ hàng trăm ha rừng. Tính trung bình 1MW thủy điện đã chiếm tới 14,5 ha đất các loại, làm ảnh hưởng 5,5 hộ dân, trong đó 1,5 hộ phải di dời. Chỉ với 25 công trình thủy điện lớn tại Tây Nguyên đã và đang xây dựng đã chiếm dụng hơn 68.000 ha đất, làm ảnh hưởng đến gần 26.000 hộ dân. Các tỉnh đã phải chuyển đổi 80.000 ha đất các loại cho các dự án thủy điện.

Trong khi đó, việc trồng rừng thay thế chưa đủ so với diện tích rừng phục vụ thủy điện. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn Tây Nguyên hiện tại mới chỉ trồng lại được khoảng 3,3% diện tích rừng phải chuyển đổi. Chỉ tính riêng tỉnh Đắk Lắk, các dự án thủy điện phải trồng mới hơn 845 ha, nhưng hiện chỉ trồng được 63 ha. Tại tỉnh Lâm Đồng, hầu hết các thủy điện chưa được bố trí đất để trồng rừng thay thế.

Việc người dân phải nhừng đất cho thủy điện làm thay đổi tập quán văn hóa, sản xuất lâu đời của người dân bản địa Tây Nguyên. Người dân phải di dời đến nơi khác, điều kiện sản xuất và đời sống không bằng nơi ở cũ, phải mất nhiều năm mới khắc phục được. Do chậm trễ trong việc đền bù, bố trí tái định cư thủy điện cũng đã gián tiếp gây nên nạn phá rừng.

Toàn cảnh Hội thảo “An ninh nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên”

PGS.TS Huỳnh Phú – Đại học Tài nguyên môi trường Hà Nội gay gắt: “Khi làm thủy điện đã không tính tới việc mất đi bao nhiêu vị trí. Việc phải làm sao cho sinh kế của người đồng bào dân tộc Tây Nguyên tốt nhất chứ không phải cứ đẩy họ lùi sâu vào trong rừng để mà thu tiền. Thủy điện hiện nay đang làm người dân nghèo đi, làm khổ đi, đặc biệt là người đồng bào Tây Nguyên”. Cụ thể như thủy điện Buôn Kuôp khiến đời sống người dân buôn Rai, xã Ea Na (huyện Krông Na, Đăk Lăk) vô cùng khốn khổ.

Theo bà Phan Thị Lệ Anh – Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, các công trình thủy điện đã tác động lớn đến chế độ thủy văn, chất lượng nước, môi trường ảnh hưởng đến đời sống. Đặc biệt là thủy sản trên các hệ thống sông. Cần có giải pháp bảo vệ, phát triển và khai thác hiệu quả, bền vững nguồn lợi thủy sản.

Một vấn đề nữa rất được quan tâm hiện nay là làm thủy điện trong rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Nó không chỉ gây hại lớn đến môi trường, làm mất nguồn gen mà còn có nguy cơ bị mất rừng rất lớn. “Từ nay về sau không thể để bất cứ thủy điện nào được xây dựng trong đây vì thủy điện là tài sản riêng mà lại đặt trong vườn quốc gia là tài sản chung đã được pháp luật quy định, là cấm tuyệt đối xâm hại, nếu xây dựng là phạm pháp”, tiến si Đào Trọng Tứ nhấn mạnh.

 Quế Mai – Lê Phước

Video liên quan

Chủ đề