Đối tượng quản lý nhà nước về hộ tịch

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. GIỚI THIỆU MÔN HỌC Môn học Quản lý nhà nước về Hộ tịch là một môn học được xây dựng trong chương trình học ngành Luật hành chính với thời lượng là 30 tiết (2tc). Với thời lượng đó, môn học này cung cấp cho người học những nội dung cơ bản về đăng ký và quả n lý hộ tịch ở nước ta hiện nay . Mục tiêu của môn học : - Về kiến thức: Môn học cung cấp cho học viên sự hiểu biết khái quát về khái niệm hộ tịch, và các quyền nhân thân cơ bản của công dân; tầm quan trọng của quản lý hộ tịch, lịch sử hình thành và phát triể n của quản lý hộ tịch của Việt Nam, các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nội dung và thủ tục đăng ký và quản lý hộ tịch , và các phương hướng đổi mới trong công tác hộ tịch ở Việt Nam. - Về kỹ năng: Học viên có kỹ năng phân tích và giải quyết các tình huống cụ thể liên quan đến công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Ngoài ra, học viên được rèn luyện các kỹ năng làm việc độc lập và làm việc nhóm. - Về ứng dụng: Kiến thức và kỹ năng của môn học tạo nền tảng cơ bản cho học viên ứng dụng vào nghề nghiệp s au khi tốt nghiệp, đặc biệt là công tác tư pháp-hộ tịch tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như giải quyết các vấn đề liên quan trong cuộc sống. - Về thái độ: Học viên có cái nhìn đúng về tầm quan trọng của việc đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như có thái độ tích cực đối với việc thực hiện và vận động người khác thực hiện pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch , đăng ký và quản lý cư trú. Về phương pháp giảng dạy: Môn học được chia thành hai nội dung, phần lý luận về công tác hộ tịch , và phần hướng d ẫn nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch. Đăng ký và quản lý cư trú. Phương pháp giảng dạy do đó là sự kết hợp giữa thuyết giảng (chủ yếu là phần lý luận hộ tịch) và giải quyết vấn đề thông qua phương pháp làm việc độc lập và nhóm (phần nghiệp vụ).
  2. PHẦN 1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH 1. Khái niệm hộ tịch 1.1. Về khía cạnh ngôn ngữ “Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt nhưng rất khó xác định được thời điểm xuất hiện . Theo “Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ điển của tác giả Huỳnh Tịnh Paulus Của 1 được biên soạn từ năm 1895 với phương pháp “tham dụng chữ nho và lấy 24 chữ cái phương t ây làm chữ bộ” thì trong chữ bộ chữ “Hộ” chưa có từ “hộ tịch”. Xét từ góc độ ngôn ngữ học , “hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ , được ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập , trong đó “tịch” là thành tố chính . Xét về mặt từ loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm trừu tượn g. Nếu tìm hiểu riêng từng thành tố thì có thể thấy , các từ điển hiện nay khá thống nhất trong cách hiểu từng từ đơn này. Theo đó từ “Hộ” khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau , nhưng trong đó có một nghĩa trực tiếp là “dân cư” hoặc “nhà ở” hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau” . Tương tự từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “ sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên việc tổ hợp hai từ đơn này thành danh từ “Hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt về mặc ngôn ngữ và được sử dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế về việc sử dụng từ ngữ và khả 1 Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam. Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy. 2
  3. năng tổ hợp từ ngữ. Chính do tính chất đặc biệt ấy nên khảo cứu qua các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ “hộ tịch” rất khác nhau. Các từ điển Hán – Việt của nhiều tác giả khác nhau (Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Khôn, Bửu Kế , Nguyễn Lân , Hoàng Thúc Trâm ) đều có sự tương đồng và những khía cạnh đặc biệt trong cách giải nghĩa từ “hộ tịch” . Sau đây là một số cách giải nghĩa : “Hộ tịch: quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, của mọi người trong một địa phương”. “Hộ tịch: sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” . “Hộ tịch : sổ biên dân số có ghi rõ tên họ , quê quán và chức nghiệp của từng người” . “Hộ tịch: quyển sổ của Chính Phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán của từng người”. Bên cạnh đó , một số từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” ở những khía cạnh khác hẳn, ví dụ : “Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng kí cư dân trong địa phương mình theo từng hộ”; “Hộ tịch: các sự kiện trong đời sống của mộ t người thuộc sự quản lý của phá p luật” . “Hộ tịch: quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người tại nơi mình ở thường xuyên , của những người thường trú thuộc cùng một hộ , do chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần” . Như vậy, nghĩa của từ “hộ tịch” xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau , thậm chí có cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện sự nhầm lẫn cơ bản giữa hai khái niệm hộ tịch và hộ khẩu . Điều này phản ánh một t hực tế là sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm “hộ tịch” và “hộ khẩu” trong nhận thức xã hội là khá phổ biến . 1.2. Về khía cạnh pháp lý Khái niệm hộ tịch cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân khái niệm này hoàn toàn không dễ định nghĩa, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó không thuận tiện theo nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật . Trên thực tế , đã từng có những cuộc thảo luận trong giới chuyên môn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn , dễ hiểu hơn . Mặc dù vậy , do khái niệm hộ tịch chứa đựng yếu tố truyền thống , lịch sử và đã là một khái niệm có tính chất phổ thông , ăn sâu trong nhận thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái niệm Việt hóa thay thế không được lựa chọn, thay vào đó các nhà xây dựng pháp luật đã dung hòa bằng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho phép, đó là sử dụng khái niệm này với tư cách là một 3
  4. thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn bản . Tuy nhiên, chỉ có thể xây dựng một định nghĩa mới về hộ tịch và định nghĩa này chỉ được chấp nhận khi nó tiếp thu , phản ánh được những khía cạnh truyền thống đồng thời cũng tiếp cận với quan điểm, xu hướng của khoa học pháp lý hiện đại. 1.3. Quan niệm của một số học giả miền Nam Việt Nam thời kì trước năm 1975 Ở miền Nam nước ta , khái miệm “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo trình giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau : Tác giả Phan Văn Thiết có thể được coi là người đầu tiên trình bày quan niệm “hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau : “Hộ tịch – còn gọi là nhân thể bộ - là cách sinh hợp pháp của một công dân trong gia đình và trong xã hội . Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan trọng nhất của con người : sinh, giá thú và tử” . Các tác giả Vũ Văn Mẫu – Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa khác về khái niệm “hộ tịch”: “Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà . Hộ t ịch gồm ba sổ để ghi chép các sự kiện giá thú, khai sinh và khai tử” . Tác giả Trần Thúc Linh, người đã dày công biên soạn cuốn Danh từ pháp luật lược giải vốn được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên được biên soạn một cách k há kỹ lưỡng , toàn diện không đưa ra khái niệm về “ hộ tịch” mà chỉ đưa ra khái niệm về “ chứng thư hộ tịch ”. Tuy nhiên khái niệm về “chứng thư hộ tịch” của Trần Thúc linh đã hàm chứa khái niệm về “hộ tịch”: Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh một cách chính xác thân trạng của một người như ngày tháng sinh, tử , giá thú, họ tên , con trai, con gái, tư cách vợ chồng …tóm lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh ra đến khi chết. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy các học giả miền Nam thời kỳ trước năm 1975 tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về khái niệm hộ tịch nhưng trong những cách định nghĩa này đều chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của hộ tịch : - Hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của mộ t người; - Các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người, đó là: sự kiện sinh , hôn nhân và tử ; - Chứng thư hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân. 4
  5. 1.4. Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài Xem xét từ khía cạnh pháp lý , khái niệm hộ tịch với tính cách là một thuật ngữ pháp lý được định nghĩa trong một số tài liệu nước ngoài như sau : Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được hiểu là “việc đăng ký đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn, với chính quyền trong thời hạn quy định”. Trong tiếng Đức , khái niệm “Das Personenstandsregister” được hiểu là việc đăng ký công về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực hiện bởi các cơ quan hộ tịch”. Trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, chế định hộ tịch là một trong những chế định hết sức quan trọng. Tuy nhiên luật dân sự Pháp không đưa ra khái niệm về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm về chứng thư hộ tịch. Khái niệm “Civil Registration”được Liên hợp quốc định nghĩa trong tài liệu “Principles and recommendation for a Vital Statistics System” xuất bản năm 2002 như sau: “đăng ký hộ tịch là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tính dân sự của mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh , luật hoặc điều lệ phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi quốc gia”. 1.5. Khái niệm “hộ tịch” và “đăng ký hộ tịch” ở nước ta hiện nay Theo quy định tại Đ iều 1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 27/12/2005 về đăng ký hộ tịch thì “hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết ”. Đi kèm với khái niệm “hộ tịch” Nghị định 158/2005/NĐ-CP còn nêu ra khái niệm “đăng ký hộ tịch” được định nghĩa như sau: “Đăng ký hộ tịch là hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền : xác nhận các sự kiện sinh; kết hôn; tử nuôi con nuôi; giám hộ ; nhận cha, mẹ , con;thay đổi họ , tên, chữ đệm , cải chính họ , tên, chữ đệm , ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc;đăng ký khai sinh , khai tử quá hạn ; đăng ký lại việc sinh , tử, kết hôn , nhận nuôi con nuôi” Trước khi có 158/2005/NĐ-CP-CP, Bộ luật dân sự năm 1995 cũng đã có quy phạm định nghĩa về khái niệm đăng ký hộ tịch tại Điều 54: “Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, kết hôn, tử, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ , tên, quốc tịch , xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch” . Như vậy kết hợp giữa định n ghĩa về hộ tịch và đăng ký hộ tịch mới có thể mang lại cách hiểu đầy đủ về khái niệm “hộ tịch”. Tuy nhiên, bên cạnh đó khi nói về định nghĩa hành vi đăng ký hộ tịch , Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đồng thời đã phân biệt thành hai nhóm hành vi với tính chất kh ác nhau rõ ràng; 5
  6. - Hành vi xác nhận các sự kiện sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký quá hạn các việc sinh, tử; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nuôi con nuôi. Đối với các sự kiện hộ tịch nói trên cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận bằng cách đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc , đồng thời cấp cho đương sự giấy chứng nhận về việc đó (như giấy khai sinh , giấy chứng nhận kết hôn …). Hành vi xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch đã làm phát sinh hiệu lực pháp lý của các sự kiện được đăng ký . Chỉ sau khi được đăng ký , các sự kiện đó mới làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của cá nhân . - Hành vi ghi chú vào sổ hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; mất tích mất năng lực hành vi dân sự ; hạn chế năng lực hành vi dân sự; hủy hôn nhân trái pháp luật hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, v. v. Khác với hành vi xác nhận, đối với các loại việc hộ tịch này , cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ đơn thuần căn cứ vào quyết định bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ví dụ : bản án hoặc quyết định của Tòa án giải quyết việc ly hôn , Quyết định của Chủ tịch nước ch o một số người thôi quốc tịch Việt Nam …) ghi chú việc đó vào Sổ hộ tịch. Điểm phân biệt cơ bản giữa nhóm hành vi này với nhóm hành vi thứ nhất là nó không làm phát sinh hiệu lực pháp lý. Bởi vì, bản thân các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đem lại hiệu lực pháp lý cho các việc đó (ví dụ : một bản án xử ly hôn của Tòa án bản thân nó đã có hiệu lực pháp lý chớ không phải chờ đến khi được ghi chú vào sổ hộ tịch mới có hiệu lực pháp lý ) . 1.6. Phân biệt “quản lý hộ tịch” và “quản lý hộ khẩu” Việc làm rõ các dấu hiệu phân biệt giữa quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu là rất cần thiết cho ý nghĩa thiết thực . Thực tế cho thấy, hiện nay sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm này cũng như sự nhầm lẫn về hoạt động quản lý hộ tịch và hoạt động quản lý hộ khẩu trong nhận thức xã hội còn khá phổ biến . Ví dụ: trong đời sống hằng ngày, khi phải giải quyết các việc về hộ tịch, người dân thường hay gọi cán bộ tư pháp có nhiệm vụ giải quyết là “Công an hộ tịch” . Theo quy định tại Điều 18 Luật Cư trú năm 2006 có quy định : “Đăng ký thường trú là việc công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu cho họ”. Khoản 1 Điều 24 Luật cư trú tiếp tục quy định như sau: “ Sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của công dân”. Như vậy, hoạt động quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu đều nằm trong phạm trù quản lý dân cư. Tuy nhiên, hai khái niệm này được phân biệt ở những điểm cơ bản sau : 6
  7. - Về đối tượng quản lý : + Đối tượng của quản lý hộ khẩu chỉ là đặc điểm về nơi cư trú của cá nhân. + Đối tượng quản lý hộ tịch thì bao gồm tổng thể rất nhiều đặc điểm nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết : ngày, tháng, năm sinh, dân tộc, quốc tịch , nơi sinh, quê quán, quan hệ gia đình , quan hệ hôn nhân, v. v…Xét về tính chất, có thể thấy quản lý hộ tịch quan tâm đến các đặc điểm nhân thân có tính bền vững của cá nhân, những đặc điểm này chỉ có thể thay đổi trong những trường hợp đặc biệt , theo một thủ tục pháp lý chặt chẽ. Trong khi đó, đặc điểm về nơi cư trú của cá nhân – đối tượng quản lý hộ khẩu – là đặc điểm nhân thân có tính “động” dễ bị thay đổi. - Về phương diện bảo vệ quyền nhân thân thì quản lý hộ kh ẩu chỉ là biện pháp bảo vệ quyền tự do cư trú hợp pháp của cá nhân , còn quản lý hộ tịch là phương tiện để mỗi cá nhân thực hiện tổng thể rất nhiều quyền nhân thân cơ bản của mình . - Đơn vị “hộ” được dùng làm đơn vị quản lý dân cư của cả quản lý hộ tịch v à quản lý hộ khẩu, nhưng trong quản lý hộ tịch mối quan hệ giữa các thành viên trong hộ chỉ có thể là mối quan hệ gia đình hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân , huyết thống hoặc nuôi dưỡng ; còn trong quản lý hộ khẩu , không nhất thiết các thành viên trong một đơn vị hộ khẩu phải có quan hệ gia đình với nhau mà chỉ cần ở chung một nhà cũng có thể cùng đăng ký theo một đơn vị hộ khẩu . Ví dụ: Điều 12 Luật cư trú năm 2006 quy định về “nơi cư trú của công dân” như sau: “1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợ p pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ qua n, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài n ơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. 2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống. ” Hoặc một đơn vị hộ khẩu tập thể quân nhân hoặc hộ khẩ u tập thể Công an nhân dân bao gồm những người cùng công tá c trong một đơn vị. - Theo pháp luật hiện hành củ a Việt Nam thì quản lý hộ tịch là hoạt động chuyên môn của ngành Tư pháp, còn quản lý hộ khẩu là hoạt động chuyên môn của ngành Công an. Điểm phân bi ệt này chỉ đúng với pháp luật thực định của Việt Nam hiện nay , 7
  8. còn trước năm 1987 , ngành nội vụ (Công an hiện nay) thống nhất quản lý cả hai nhiệm vụ. Mô hình này hiện nay vẫn được duy trì trong hoạt động quản lý dân cư của một số nước trong khu vực như Trung Quốc. Mặc dù có sự phân biệt khá rõ ràng như trên , nhưng trong thực tế đời sống của mỗi cá nhân các vấn đề về hộ tịch và hộ khẩu có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau, có thể xem xét một số ví dụ cụ thể sau đây: Ví dụ 1 : một đứ a trẻ chỉ có thể đư ợc đăng kí tên vào sổ hộ khẩu gia đình sau khi đã được cha mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh ; Ví dụ 2: sau khi đã kết hôn , người vợ muốn chuyển hộ khẩu về n ơi cư trú của chồng thì một trong những giấy tờ cần có để làm căn cứ cho việc thực hiện chuyển hộ khẩu là Giấy chứng nhận kết hôn ; Ví dụ 3 : để xóa tên một người đã chết trong sổ hộ khẩu gia đình , cơ quan quản lý hộ khẩu phải căn cứ vào giấy chứng tử của người đó ; Ví dụ 4: khi muốn sửa chữa các dữ liệu ngày, tháng, năm sinh, họ, tên, chữ đệm của ngườ i nào đó trong sổ hộ khẩu, cơ quan quản lý hộ khẩu phải căn cứ vào quyết định thay đổi cải chính hộ tịch có giá trị pháp lý do c ơ quan hộ tịch có thẩm quyền cấp cho người đó . Ngược lại trong thủ tục đăng ký hộ tịch ( khai sinh , khai tử, kết hôn , nuôi con nuôi, v.v.) các giấy tờ về hộ khẩu (Sổ hộ khẩu hoặc Giấy xác nhận tạm trú có thời hạn) luôn là loại giấy tờ quan trọng cần có trong hồ sơ đăng ký hộ tịch. Vai trò quan trọng của giấy tờ hộ khẩu trong hoạt động đăng ký hộ tịch thể hiện ở chỗ nó là căn cứ để xác định cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật . 2. Vị trí, vai trò của quản lý hộ tịch Trong xã hội hiện đại , khi mà khái niệm quyền con người đã được nhận thức như một giá trị chung của nhân loại thì cùng với nó , hầu như tất cả các quốc gia đều nhận thức đúng đắng về tầm quan trọng của việc quản lý hộ tịch . Nếu như hoạt động quản lý dân cư được coi là nội dung quan trọng hàng đầu trong tổng thể hoạt động quản lý xã hội thì quản lý hộ tịch, với các lợi ích, giá trị tiềm tàng của nó, được coi là mắt khâu nằm ở vị trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Về mặt lý luận , hoạt động quản lý hộ tịch là lĩnh vực thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước xét trên ba phương diện cơ bản : Thứ nhất , quản lý hộ tịch là cơ sở để Nhà nước hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó. Một hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy đủ , chính xác, được cập nhật kịp thời, thường xuyên sẽ là nguồn tài sản thông tin hết sức quý giá luôn sẵn sàn hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội một cách chính xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội. Để làm rõ điều này ta có thể xem xét dẫn chứng dưới đây: 8
  9. Ví dụ: Trên địa bàn một đơn vị c ấp xã, khi cần triển khai các chính sách cộng đồng liên quan đến dân cư : bảo vệ sức khỏe nhân dân, chăm sóc y tế đối với bà mẹ và trẻ em, phổ cập giáo dục, hôn nhân và gia đình, v.v., chính quyền thường căn cứ vào sổ hộ tịch đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, …để xác định đối tượng và triển khai các biện pháp phù hợp với đặc điểm dân cư trong xã. Tuy nhiên tại các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa đạt được thấp hơn . Một trong các nguyên nhân dẫn đến vấn đề này là do từ chính hoạt động quản lý hộ tịch . Khảo sát thực tiễn cho thấy, đây đồng thời cũng là địa bàn công tác quản lý hộ tịch bị buôn lỏng , hệ thống sổ hộ tịch khai sinh , kết hôn, khai tử không phản ánh chính xác tình hình dân cư; do đó, việc thực hiện các chính sách gặp rất nhiều khó khăn hiệu quả đạt thấp. Đối với quốc gia có kết cấu dân cư đa dạng về thành phần dân tộc như Việt Nam , quản lý hộ tịch còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách phát triển kinh tế , xã hội các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thứ hai , hoạ t động quản lý và đăng ký hộ tịch thể hiện tập trung nhất , sinh động nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật Dân sự , ví dụ như quyền đối với họ tê n, quyền thay đổi họ tên , quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi, v.v. Ở phương diện này đăng ký hộ tịch chính là phương tiện để người dân thực hiện , hưởng thụ các quyền nhân thân đó. Các dữ liệu về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thư hộ tịch (giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn …) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi người , mà qua đó các cơ quan tổ chức , cá nhân khác có thể đánh giá người đó có khả năng điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không . Ví dụ: sự tồn tại của một đứa trẻ trong cộng đồng, trong xã hội được đánh dấu bằng việc cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác lập cho đứa trẻ đó một Giấy khai sinh. Kể từ thời điểm đó đứa trẻ - con người tự nhiên - chính thức trở thành một chủ thể pháp luật độc lập, được pháp luật bảo vệ bởi các yếu tố nhân thân riêng biệt, đặc trưng của mình được xác định trên Giấy khai sinh . Hành vi đăng ký khai sinh của cơ qua n đăng ký hộ tịch đánh dấu điểm khởi đầu của hoạt động quản lý nhà nước đối với từng người dân , đồng thời cũng là điểm khởi đầu cho mọi mối quan hệ giữa công dân với nhà nước. Từ góc độ lý luận về Nhà nước và pháp luật ở phương diện này có thể khẳng định , quản lý hộ tịch là một lĩnh vực hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước . Với ý nghĩa quan trọng như vậy việc nhà nước tổ chức quản lý đăng ký hộ tịch chính là sự bảo hộ đối với việc thực hiện các quyền con người . Điều này chỉ có trong các xã hội mà nền dân chủ được mở rộng và phát huy , khi mà các giá trị quyền con người được nhà nước tôn trọng và có trách nhiệm bảo hộ . Nhìn vào lịch sử có thể thấy , 9
  10. các triều đại phong kiến Việt Nam không tổ chức quản lý hộ tịch v ì mối quan hệ giữa vương quyền (vua) với các “thần dân” của mình về cơ bản là mối quan hệ một chiều, người dân chỉ có nghĩa vụ đối với triều đình . Do đó, đối với nhà nước phong kiến việc tổ chức quản lý hộ tịch không được quan tâm . Thứ ba , quản lý hộ tịch có vai trò to lớn đối vớ i việc bảo đảm trật tự xã hội . Hệ thống sổ bộ hộ tịch có thể giúp việc truy ngu yên nguồn gốc của cá nhân một cách dễ dàng. Các chứng thư hộ tịch do người có thẩm quyền lập theo thủ tục chặt chẽ có giá trị là sự khẳng định chính thức của nhà nước về vị thế của một cá nhân trong gia đình và xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp khi cần đánh giá năng lực chủ thể của một cá nhân các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến giấy khai sinh của cá nhân đó . Giấy khai sinh chứa đựng các dữ liệu gốc của cá nhân nh ư ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, dân tộc , quốc tich , họ tên cha mẹ…do đó khi được sử dụng với tính cách là chứng cứ , các thông tin thể hiện trên giấy khai sinh có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá nhiều vấn đề trong các vụ án hình sự , dân sự, hành chính, v. v. Bởi ý nghĩa quan trọng như vậy , nên trong sự phát triển của mỗi quốc gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác hiệu quả của nó phục vụ cho công tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm . 3. Đối tượng, phạm vi, nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch Là một hoạt động quản lý con người , hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng quản lý là các đặc điểm nhân thân làm nên căn cước của mỗi cá nhân . Tuy nhiên các yếu tố thuộc về căn cước của mỗi người rất phong phú và là đối tượng của nhiều hoạt động quản lý khác nhau . Do vậy để phân biệt đối tượng của quản lý hộ tịch với đối tượng quản lý của một số hoạt động quản lý thuộc phạm trù quản lý căn cước của con người như quản lý hộ khẩu, quản lý lý lịch tư pháp , quản lý chứng minh nhân dân, v. v., cần xem xét, xác định phạm vi của quản lý hộ tịch . Căn cước của mỗi cá nhân được hình thành từ rất nhiều đặc điểm nhân thân gắn liền cá nhân đó: như họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, các mối quan hệ gia đình, tiền án, tiền sự … tất cả những dấu hiệu đặc trưng đó bảo đảm cho việc phân biệt chính xác một cá nhân này với một cá nhân khác. Nghiên cứu về vấn đề này , có tác giả đã căn cứ vào mức độ ổn định của các dấu hiệu nhân thân để phân loại chúng thành các nhóm sau : - Nhóm dấu hiệu nhân thân không bao giờ thay đổi gồm có: ngày, tháng, năm sinh; quan hệ gia đình (cha - mẹ- con, anh- chị- em ); ngày, tháng, năm chết … - Nhóm dấu hiệu nhân thân có thể thay đổi nhưng chỉ hạ n chế trong một số trường hợp nhất định và việc thay đổi phải được tiến hành theo thủ tục rất chặt chẽ gồm có: họ tên , dân tộc , quốc tịch, … 10
  11. - Nhóm dấu hiệu dễ thay đổi gồm có: nghề nghiệp, nơi cư trú, tiền án … Tất cả các đặc điểm nhân thân của cá nhân nói trên đều là đối tượng quản lý của hoạt động quản lý nhà nước về căn cước của cá nhân . Trong đó hoạt động quản lý hộ tịch giới hạn phạm vi quản lý trong các nhóm đặc điểm nhân thân có các thuộc tính sau: - Tính ổn định cao; - Tính công khai; - Có khả năng phổ biến thông tin; Nhìn từ góc độ quản lý thì phạm vi quản lý hộ tịch không chỉ giới hạn trong đ ối tượng công dân Việt Nam mà c òn bao gồm cả người nước ngoài , người không quốc tịch. Phạm vi quản lý đó được thực hiện thông qua các nội dung quản lý đã được nêu trong Điều 1 Nghị định số 158/2005/NĐ- CP, bao gồm: - Quản lý các sự kiện sinh; tử ; kết hôn; nuôi con nuôi ; nhận cha , mẹ , con, giám hộ; - Quản lý việc thay đổi hộ tịch; cải chính hộ tịch; bổ sung hộ tịch điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính;xác định lại dân tộc; - Quản lý sự thay đổi các đặc điểm nhân thân do các sự kiện ly hôn ; xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; chấm dứt nuôi con nuôi . So sánh nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch của Nhà nước ta hiện nay (tính từ năm 1998, khi Chính Phủ ban hành Nghị định 83/1998/NĐ- CP đến nay) với thời kỳ trước đây (thời kỳ thực hiện điều lệ hộ tịch năm 1961) có thể thấy nội dung quản lý hộ tịch ngày càng được mở rộng hơn (theo điều lệ hộ tịch 1961 thì nội dung quản lý hộ tịch rất đơn giản , chỉ giới hạn trong các loại việc cơ bản như sinh , tử, kết hôn ghi chú các thay đổi về hộ tịch) . Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy hoạt động quản lý con người ngày càng được quan tâm một cách toàn diện . Tuy nhiên, sự mở rộng phạm vi và nội dung quản lý cũng đặt ra rất nh iều vấn đề phức tạp đòi hỏi hoạt động quản lý hộ tịch phải được nâng lên một trình độ cao hơn . 4. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ( Bộ luật Dân sự 2005, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật nuôi con nuôi năm 2010 và các Nghị định…) và các tài liệu sách báo pháp lý, thuật ngữ “pháp luật về hộ tịch” được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên việc sử dụng thuật ngữ này trong các nghiên cứu chỉ mang tính ước định và tùy từng trường hợp , nội hàm của nó được xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp có sự khác nhau cơ bản . Theo những cách hiểu khác nhau đó việc xác định các quy phạm pháp luật và các quan hệ pháp luật về hộ tịch cũng có sự khác nhau . 11
  12. Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống quy phạm các vấn đề về hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo của pháp luật về hộ tịch bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã được sửa đổi bổ sung năm 2010, Luật nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản về đăng ký và quản lý hộ tịch (Nghị định 158/2005/NĐ- CP, Nghị định số 68/2002/NĐ- CP…). Cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật về hộ tịch được phân thành hai nhóm cơ bản , đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm quan hệ về quản lý . Hai nhóm quy phạm này có mối quan hệ hết sức mật thiết , trong đó nhóm quy phạm về hộ tịch do luật dân sự điều chỉnh luôn đóng vai trò là tiền đề để xây dựng các quy phạm hành chính về hộ tịch. Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành – điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch . Mặc dù hai quan niệm trên có sự khác nhau cơ bả n nhưng cần thấy rằng chúng không mâu thuẫn và loại trừ nhau . 4.1. Quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch Là một dạng cụ thể của quy phạm hành chính, quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch được hiểu là những quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành để đ iều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch . Các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thể được phân thành hai nhóm sau : - Nhóm quy phạm về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ )của các chủ thể trong quan hệ quản lý hộ tịch và quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong quan hệ quản lý hộ tịch; - Nhóm quy phạm về thủ tục hành chính (thủ tục đăng ký hộ tịch hoặc giải quyết khiếu , nại tố cáo về hộ tịch ) Hiện nay, số lượng các quy phạm pháp luật về hộ tịch khá lớn , điều chỉnh khá toàn diện, đầy đủ các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này . Tuy nhiên các quy phạm về quản lý hộ tịch nằm rải rác trong nhiề văn bản khác nhau. Ngoài nghị định số 158/2005/NĐ- CP được coi là nguồn chủ đạo của pháp luật về quản lý hộ tịch , các quy phạm về quản lý hộ tịch còn được tìm thấy trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Nghị định số 32/2002/NĐ - CP của Chính Phủ ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số và Nghị định số 68/2002/NĐ - CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết t hi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ Hôn nhân và Gia đình có yếu tố nước ngoài) . Sự tản mạn của các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch như trên đã ảnh hưởng đến hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về hộ tịch. 12
  13. Xét từ khía cạnh giá trị pháp lý có thể thấy, hiện nay các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thứ bậc không cao trong thang giá trị quy phạm. Các quy phạm có giá trị cao nhất mới dừng lại ở mức độ quy phạm trong Nghị định của Chính Phủ; một bộ phận không nhỏ quy phạm do Bộ Tư pháp ban hành trong các Thông tư mang tính chất hướng dẫn nghiệp v ụ. Bởi vậy tính ổn định của pháp luật về quản lý hộ tịch còn chưa cao, có thể bị sửa đổi, bổ sung trong một thời gian ngắn. Thực tiễn này được lý giải bởi hai lý do của hoạt động xâ y dựng pháp luật về hộ tịch, đó là: Thứ nhất, trong suốt một thời gian hơn 30 năm ( từ khi ban hành Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961đến trước khi Chính Phủ ban hành Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994) hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch gần như trong tình trạng đóng băng, không có sự vận động nào đáng kể . Chỉ từ khi bị tác động trực tiếp bởi sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và tiếp đó là Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch mới được thúc đẩy vận động tích cực để phù hợp, thích ứng với những yêu cầu mới mà hai văn bản luật quan trọng nói trên đặt ra . Thứ hai, về mặt chủ quan do tính chất tác động xã hội của các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch rất rộng lớn và liên quan đến các phạm trù nhạy cảm như q uyền con người, quyền công dân nên hoạt động điều chỉnh lĩnh vực này được tiến hành rất cẩn trọng, dè dặt. Chỉ có thể xây dựng các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có giá trị cao khi điều kiện cần và đủ cho nó là nền tảng ph áp luật dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình đã được thiết lập và vận hành một cách ổn định . 4.2. Quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch Quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch là những quan hệ phát sinh trong hoạt động chấp hành – điều hành được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về hộ tịch . Chủ thể của quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch gồm hai nhóm: - Các cá nhân và cơ quan nhà nước có chức năng quản lý về hộ tịch - Các cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch . Các quan hệ pháp luật hình thành trong lĩnh vực quản lý hộ tịch rất đa dạng, diễn ra theo nhiều chiều giữa các chủ thể khác nhau như: quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền quản lý chung với cơ quan quản lý chuyên ngành , giữa cơ quan quản lý cấp trên với cơ quan quản lý cấp dưới , quan hệ giữa các cơ quan cùng cấp , quan hệ giữa cơ quan quản lý hộ tịch với công dân, v. v. Trong đó nhóm quan hệ phát sinh trlong hoạt động đăng ký hộ tịch là nhóm quan hệ phổ biến và thể hiện nhiều yếu tố đặc thù . Các quan hệ pháp luật về đăng ký hộ tịch là các quan hệ thủ tục phát sinh g iữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với các cá nhân công dân, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch . Các quan hệ này được thiết lập trên cơ sở sáng kiến , đề nghị chủ động của cá nhân và nó thường 13
  14. gắn liền với việc thực hiện một quyền dân sự hoặc xác lập một quan hệ hôn nhân v à gia đình. Ví dụ: Việc UBND cấp tỉnh thực hiện thủ tục xác định lại dân tộc cho một người là quan hệ hành chính nhằm thực hiện quyền dân sự của cá nhân đó ; hoặc việc UBND cấp xã đăng ký kết hôn là một quan hệ hành chính , gắn liền với việc xác lập quan hệ hôn nhân gữa hai cá nhân. Một số quan hệ đăng ký hộ tịch như đăng ký khai sinh , kết hôn, khai tử… được thiết lập không phải từ đề nghị của cính cá nhân được khai sinh , kết hôn, khai tử mà từ những người có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật . Quan hệ đăng ký hộ tịch không chỉ diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với một cá nhân mà có thể diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với cùng lúc nhi ều cá nhân có chung mục đích xác lập quan hệ hành chính đó . Ví dụ: trường hợp cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký kết hôn , đăng ký nuôi con nuôi. 14
  15. CHƯƠNG 2 HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH VÀ CÁC HÌNH THỨC QUẢN LÝ ĐỐI VỚI HỘ TỊCH 1. Hệ thống tổ chức quản lý và đăng ký hộ tịch 1.1. Cơ quan quản lý hộ tịch Quản lý hộ tịch là một nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp, do vậy chủ thể quản lý cao nhất trong lĩnh vực hoạt động này đó là Chính Phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta . Nhiệm vụ quyền hạn của Chính Phủ trong quản lý hộ tịch được quy định tại khoản 4 Đ iều 18 Luật Tổ chức Chính Phủ năm 2001 là: “Chính Phủ thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, các hoạt động về luật sư , giám định tư pháp , công chứng và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý công tác thi hành án, quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch”. Tuy nhiên với vị trí pháp lý là cơ quan đứng đầu hệ thống hành pháp , có quyền quyết định tối cao đối với việc giải quyết mọi vấn đề thuộc địa hạt quản lý nhà nước trong mọi lĩnh vực , trên phạm vi toàn quốc (trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội , Ủy ban thường vụ Quốc hội , Chủ tịch nước) , Chính Phủ được coi là chủ thể quản lý đặc biệt , nhìn từ khía cạnh tính chất hoạt động , Chính Phủ còn được coi là chủ thể hình thức bởi hoạt động quản lý của Chính Phủ được thực hiện theo chế độ lãnh đạo tập thể , hoạt động quản lý trên từng lĩnh vực đều phải thông qua các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thuộc cơ cấu của Chính Phủ như (Bộ, cơ quan ngang bộ). Từ năm 1987về trước , Bộ Nội vụ là cơ quan giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện việc quản lý hộ tịch thống nhất trên toàn quốc. Từ năm 1987 đến nay, nhiệm vụ này được chuyển giao cho Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp trên cơ sở Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ). Kể từ sau thời điểm nói trên hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Nguyên tắc tổ chức hệ thống qu ản lý hộ tịch này được duy trì ổn định từ khi xây dựng hệ thống, quản lý hộ tịch theo Nghị định 83/1998/NĐ- CP cho đến Nghị định số 158/2005/NĐ- CP. Tuy nhiên việc phân cấp chức năng, thẩm quyền của từng loại cơ quan trong hệ t hống quản lý hộ tịch từ hai N ghị định trên đã có nhiều điểm cải tiến cơ bản . Cụ thể là: 15
  16. So với mô hình quản lý hộ tịch theo Nghị định số 83/1998/NĐ - CP điểm khác biệt cơ bản của hệ thống quản lý hộ tịch theo Nghị định 158/2005/NĐ - CP thể hiện rõ ở điểm bổ sung thêm chức năng đăng ký hộ tịch cho hai cơ quan, đó là Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp huyện. Như vậy, hệ thống quản lý hộ tịch từ chỗ chỉ có ba cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch (theo Nghị định số 83/1998/NĐ - CP ) bây giờ đã gồm năm cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịc h. Việc phân cấp thẩm quyền quản lý và đăng ký hộ tịch do đó cũng có những thay đổi quan trọng thể hiện sâu sắc sự vận dụng tư duy mới về cải cách hành chính và tổ chức bộ máy “ phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương nhằm quy địn h rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền trách nhiệm của mỗi cấp trong hệ thống hành chính nhà nước ; phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa phương trong giải quyết công việc cho dân nhanh chóng , thuận lợi góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả nước” . Đây là mục tiêu quan trọng mà Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước hướng tới với lộ trình đã được xác định cụ thể “Đến năm 2005 , về cơ bản xác định xong và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa trung ương và địa phương , giữa các cấp chính quyền địa phương... ” Trên cơ sở định hướng này , Nghị định số 158/2005/NĐ- CP đã thực hiện sự phân cấp mạnh mẽ theo hướng chuyển giao một số loại việc trước đây thuộc thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho Sở Tư pháp , Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã. Đây được coi là điểm móc đánh dấu sự vận dụng một tư duy mới về phân cấp quản lý nhà nước trong công tác hộ tịch “việc nào , cấp nào thực hiện tốt hơn thì giao cho cấp đó” đồng thời cũng thể hiện sự đánh giá cao hơn về khả năng đảm nhận những nhiệm vụ ngày càng phức tạp hơn của hệ thống Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp huyện. Với sự phân cấp này , thẩm quyền quản lý hộ tịch của các cơ quan trong hệ thống quản lý hộ tịch cụ thể như sau : 1.1.1. Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp là cơ quan được Chính Phủ phân cấp quản lý hộ tịch thống nhất trên cả nước . Để t hực hiện sự phân cấp quản lý đó , Điều 75 Nghị định 158/2005/NĐ- CP đã quy định cụ thể 8 nhiệm vụ , quyền hạn của Bộ Tư pháp trong công tác quản lý hộ tịch như sau: - Soạn thảo, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; - Hướng dẫn, chỉ đạo chung việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; 16
  17. - Ban hành, hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch; - Kiểm tra, thanh tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch; - Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch báo cáo Chính phủ theo định kỳ hàng năm; - Giải quyết khiếu nại, tố cáo về hộ tịch theo thẩm quyền; - Nghiên cứu việc áp dụng công nghệ tin học trong đăng ký, quản lý hộ tịch; - Hợp tác quốc tế về hộ tịch. 1.1.2. Bộ ngoại giao Việc quản lý hộ tịch đối với bộ phận công dân Việt Nam ở nước ngoài là một nội dung quan trọng trong công tác lãnh sự của cơ quan Đại diện ngoại giao , Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài . Để thực hiện việc quản lý hộ tịch với đối tượng này , Điều 76 Nghị định 158/2005/NĐ - CP quy định Bộ ngoại giao có một số nhiệm vụ, quyền hạn sau: - Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch của các Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam; - Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho viên chức Lãnh sự của các Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam; - Lưu trữ sổ hộ tịch do các Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam chuyển về; - Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; - Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam gửi cho Bộ Tư pháp theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; - Giải quyết khiếu nại, tố cáo về hộ tịch theo thẩm quyền. 1.1.3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Hoạt động quản lý hộ tịch ở địa phương được xác định là nhiệm vụ của hệ thống Ủy ban nhân dân các cấp . Là cơ quan quản lý có thẩm quyền chung trong công tác quản lý hộ tịch, Điều 77 Nghị định 158/2005/NĐ- CP quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có các nhiệm vụ sau: “1. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đối với Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã; 17
  18. b) Xây dựng hệ thống tổ chức đăng ký và quản lý hộ tịch, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác hộ tịch; c) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến c ác quy định của pháp luật về hộ tịch; d) Kiểm tra, thanh tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch trong phạm vi địa phương; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền; đ) Quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp; e) Lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; g) Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; h) Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch, báo cáo Bộ Tư pháp theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; i) Hàng năm bố trí kinh phí cho việc mua và in các sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch, đáp ứng yêu cầu đăng ký hộ tịch ở địa phương; trang bị cơ sở vật chất để phục vụ cho hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch; k) Quyết định việc thu hồi và hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do Giám đốc Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trái với quy định của Nghị định này. 2. Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm g, khoản 1 điều này (riêng việc giải qu yết tố cáo tại điểm d, khoản 1 Sở Tư pháp chỉ thực hiện khi được giao), thực hiện đăng ký các việc hộ tịch thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý mà dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức thuộc Sở Tư pháp trong đăng ký và quản lý hộ tịch, thì Giám đốc Sở Tư pháp phải chịu trách nhiệm. 3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm về tình hình đăng ký và quản lý hộ tịch của địa phương. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý mà dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong đăng ký và quản lý hộ tịch ở tại địa phương mình, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm.” 1.1.4. Ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp Điều 78 Nghị định 158/2005/NĐ - CP quy định Uỷ ban nh ân dân cấp huyện có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: “1. Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản lý Nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức, thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đối với Ủy ban nhân dân cấp xã; 18
  19. b) Thực hiện giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho ng ười từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi. c) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho cán bộ Tư pháp hộ tịch; d) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch; đ) Quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp; e) Lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; g) Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; h) Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; i) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền; k) Quyết định việc thu hồi, hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trái với quy định tại Nghị định này (trừ việc đăng ký kết hôn vi phạm về điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình) 2. Phòng Tư pháp giúp Ủy b an nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch theo quy định tại khoản 1 Điều này (riêng việc giải quyết tố cáo tại điểm i khoản 1 chỉ thực hiện khi được giao). Đối với việc giải quyết khiếu nại quy định tại điểm i khoản 1 Điều này do Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện. 3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm về tình hình đăng ký và quản lý hộ tịch của địa phương. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý mà dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương mình, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải chịu trách nhiệm.” 1.1.5. Ủy ban nhân dân cấp xã và cán bộ tư pháp – hộ tịch Điều 79 Nghị định 158/2005/NĐ- CP quy định Uỷ ban nhân dân cấp xã có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: 1. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch, Ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Thực hiện đăng ký các việc hộ tịch thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Nghị định này; b) Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch; c) Quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp; 19
  20. d) Lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; đ) Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; e) Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền. 2. Cán bộ Tư pháp hộ tịch có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều này (trừ trường hợp giải quyết tố cáo tại điểm g khoản 1 Điều này) 3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm về tình hình đăng ký và quản lý hộ tịch của địa phương. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý mà dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương mình, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải chịu trách nhiệm. 1.1.6 Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam Điều 79 Nghị định 158/2005/NĐ - CP quy định: “1. Cơ quan Ngoại giao, lãnh sự Việt Nam thực hiện việc quản lý nhà nước về hộ tịch có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Thực hiện đăng ký các việc hộ tịch cho công dân Việt Nam ở nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao; b) Quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp. c) Lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; d) Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch. đ) Tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch báo cáo Bộ Ngoại giao theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền. 2. Viên chức Lãnh sự làm công tác hộ tịch có trách nhiệm giúp Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể theo quy tại khoản 1 Điều này (trừ trường hợp giải quyết tố cáo tại điểm c khoản 1 điều này) ” 1. 2. Cơ quan đăng ký hộ tịch; người có thẩm quyền đăng ký hộ tịch Nếu theo Nghị định số 83/1998/NĐ -CP trong toàn bộ hệ thống quản lý hộ tịch chỉ có ba cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch là Ủy ban nhân dân cấp xã , Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan Đại diện ngoại giao , Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì cho ta thấy sự phân cấp của Nghị định 158/2005/NĐ- CP cùng với Nghị định số 62/2002/NĐ- CP, hiện nay hệ thống quản lý hộ tịch ở nước ta có năm (05) cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, đó là: 20


Page 2

YOMEDIA

Môn học Quản lý nhà nước về Hộ tịch là một môn học được xây dựng trong chương trình học ngành Luật hành chính với thời lượng là 30 tiết (2tc). Với thời lượng đó, môn học này cung cấp cho người học những nội dung cơ bản về đăng ký và quả n lý hộ tịch ở nước ta hiện nay . Mục tiêu của môn học : - Về kiến thức: Môn học cung cấp cho học viên sự hiểu biết khái quát về khái niệm hộ tịch, và các quyền nhân thân cơ bản của công dân;...

27-08-2013 1143 137

Download

Đối tượng quản lý nhà nước về hộ tịch

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.