Hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được quy định như thế nào

Thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

07:40 - Thứ Năm, 08/09/2016

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Một trong những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chính là quy định về thời hiệu khởi kiện. Điều 184 BLTTDS 2015 quy định:
1. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.”
BLTTDS 2015 đã sửa đổi bổ sung theo hướng dẫn chiếu tới các qui định tương ứng của Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện ở một số điều luật cụ thể như: Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp của mình pháp bị xâm phạm (Điều 429); Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích của mình hợp pháp bị xâm phạm (Điều 588) (BLDS 2005 qui định thời hiệu khởi kiện cho hai loại tranh chấp trên là 02 năm); Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với yêu cầu chia di sản là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản (Khoản 1, Điều 623); Thời hiệu đối với yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm (Khoản 2, Điều 623); Thời hiệu đối với yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (Khoản 3, Điều 623); Thời hiệu đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự đó (Điều 671).
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã bỏ qui định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 159 BLTTDS 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011. Đó là: Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện; Tranh chấp không thuộc những trường hợp quy định trên thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.
Tuy nhiên, bên cạnh những điều luật cụ thể quy định về thời hiệu khởi kiện, Bộ luật dân sự 2015 quy định về những trường hợp không áp dụng thời hiệu tại Điều 155: “Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác; Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai; Trường hợp khác do luật quy định.”
Như vậy, điểm mới trong quy định về thời hiệu khởi kiện của BLTTDS 2015 chính là nguyên tắc: Tòa án chỉ áp dụng các qui định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
BLTTDS 2015 đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, xong theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 517 BLTTDS 2015, khoản 3, 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì: Quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 BLTTDS số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 được áp dụng đến hết ngày 31/12/2016 để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo đó, BLTTDS năm 2004 hết hiệu lực kể từ ngày BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, trừ các quy định tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2016, cụ thể: về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu và việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết.
Để thực hiện tốt công tác kiểm sát giải quyết vụ việc tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động, các cán bộ, Kiểm sát viên cần lưu ý khi áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện nêu trên.
Nguyễn Thị Long Hà - KSV phòng 9

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ, nên khi áp dụng cần lưu ý về hiệu lực của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Thứ nhất, các quy định sau đây của Bộ luật Tố tụng dân sự có liên quan đến quy định của Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017:
– Quy định liên quan đến việc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 4, các điều 43, 44 và Điều 45 của Bộ luật này;
– Quy định liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
– Quy định liên quan đến áp dụng thời hiệu tại khoản 2 Điều 184 và điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này;
– Quy định liên quan đến pháp nhân là người đại diện, người giám hộ.
Thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, trừ các quy định tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2016, cụ thể:

Một là, về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu:

– Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện; tranh chấp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

– Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân dân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.

Hai là, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết./.

HỒNG HẢI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 SAU 5 NĂM THI HÀNH

20/04/2021
15015

I. Đánh giá chung

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được xây dựng, ban hành trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), pháp điển hóa một số quy định trong các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và một số văn bản pháp quy khác hướng dẫn về quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự. Nhìn chung, sau 05 năm thi hành, các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã đáp ứng được yêu cầu chung của công tác thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, tạo hành lang pháp lý tốt cho quá trình tiến hành tố tụng, đồng thời tạo điều kiện khá tốt cho người tham gia tố tụng thực hiện, bảo vệ các quyền của mình, phục vụ tốt yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và chất lượng xét xử các tranh chấp dân sự, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, góp phần bảo vệ công lý.

Tuy nhiên, qua năm 5 năm thi hành, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước phát triển nhanh, nhiều vấn đề mới, vấn đề phức tạp nảy sinh có liên quan đến thẩm quyền, nhiệm vụ tổ chức xét xử của Tòa án nhân dân và của các cơ quan tiến hành tố tụng, tác động đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, đòi hỏi các quy định pháp luật tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 phải có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Qua công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, bằng góc nhìn tổng quát, chúng tôi nêu một số vấn đề trọng tâm như sau:

II. Một số vấn đề về Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

1. Về mối quan hệ giữa các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự

Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các quy định trong 10 phần của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cơ bản thống nhất với nhau, tạo nên sự xuyên suốt nhất định cho quá trình tiến hành tố tụng từ giai đoạn xử lý đơn đến giai đoạn xét xử, kết thúc vụ án; những quy định ở các phần cụ thể cơ bản phù hợp với các quy định tại phần chung (11 chương, 185 điều, phần những quy định chung ) của Bộ luật. Một số quy định chưa rõ, còn phát sinh cách hiểu, cách làm chưa thống nhất với nhau trên thực tế đã được Tòa án nhân dân tối cao và cơ quan có thẩm quyền tổng hợp, giải đáp, hướng dẫn hằng năm. Hiện nay, sau 5 năm thi hành, vẫn còn một số quy định ở từng phần, từng chương, từng điều luật của Bộ luật chưa phát huy được tính liên kết, bổ trợ cho nhau, số ít quy định tạo nên sự cản trở nhau không cần thiết, song chúng tôi cho rằng những hạn chế đó ở phạm vi hẹp, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể khắc phục được trên nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật, hướng thao tác tố tụng đến mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, không gây phiền hà, khó khăn cho người tham gia tố tụng, phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

2. Về mối quan hệ giữa các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và các quy định pháp luật khác

Quá trình thực thi các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các quy phạm pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, công chức được pháp luật giao nhiệm vụ, thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các vụ việc dân sự và yêu cầu cải cách thủ tục hành chính tư pháp của các cơ quan nhà nước thuộc khối tư pháp; đồng thời, hiệu quả thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự cũng được đặt trong sự tác động qua lại với các quy định pháp luật liên quan đến quản lý hành chính nhà nước, quyền công dân, quyền con người và liên quan đến tập quán của từng địa phương, vùng miền, cộng đồng dân cư nhất định. Theo đó, thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự luôn phát sinh những vấn đề cần tháo gỡ để đảm bảo cho pháp luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật khác, các tập quán tiến bộ trong xã hội, tại địa phương không mâu thuẫn lẫn nhau. Qua 5 năm thi hành, chúng tôi tổng hợp được nhiều ý kiến của đồng nghiệp và các cá nhân, tổ chức liên quan đến các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, trong phạm vi bài viết này, ở góc nhìn tổng quát, chúng tôi mạnh dạn trao đổi một số nội dung chính sau:

2.1. Về một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền

Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dẫn chiếu thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt đến điều luật quy định về thẩm quyền giải quyết xét xử các vụ án hành chính tại Luật Tố tụng hành chính. Từ ngày Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, chưa có thống kê cụ thể về chất lượng giải quyết, xét xử các vụ việc có yêu cầu hủy quyết định cá biệt tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh so với kết quả xét xử cùng loại vụ việc tại Tòa án nhân dân cấp huyện trước đây, nhưng điều phản ánh thực tế là tiến độ giải quyết các vụ án loại này tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh 5 năm qua không đạt cao. Bởi lẽ quy định này đã làm tăng số lượng vụ án tranh chấp dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giảm phần việc cho Tòa án nhân dân cấp huyện, tạo nên sự quá tải trong thụ lý, giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh trong điều kiện thực hiện chính sách tinh giản biên chế, nhiều việc, ít người làm như hiện nay.

Thứ hai, thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện được Bộ luật Tố tụng dân sự quy định theo hướng sửa đổi của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Trong đó, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tương ứng với quy định đó thì thẩm quyền kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng thay đổi theo. Cho đến nay, tỷ lệ giải quyết đơn khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm tại các Tòa án nhân dân cấp cao chưa đạt được kết quả chung như mong muốn. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là lượng đơn quá nhiều nhưng năng lực làm việc tại các Tòa án cấp cao chưa đáp ứng.

Bên cạnh đó, việc thay đổi thẩm quyền giám đốc thẩm trên thực tế có tác động nhất định đến phương pháp, tiến độ, chất lượng kiểm tra nghiệp vụ hằng năm tại Tòa án nhân dân địa phương; thời lượng tiến hành tố tụng, công việc nghiệp vụ của Ủy ban Thẩm phán, các thành viên Ủy ban Thẩm phán, Ủy ban kiểm sát, các thành viên Ủy ban kiểm sát tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh giảm, điều này tác động nhất định đến kinh nghiệm, năng lực chuyên môn của các cá nhân này, phát huy không hết các khả năng, kinh nghiệm chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ của các Thẩm phán, Kiểm sát viên có thâm niên công tác, có bề dày kinh nghiệm thực tiễn giải quyết, xét xử, kiểm sát án tranh chấp tại địa phương.

Thứ ba, Bộ luật Tố tụng dân sự dành 3 điều luật để quy định về giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng, đây là quy định mới. Tuy nhiên qua 5 năm thi hành vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chuyên sâu về nội dung này. Mặc dù trên địa bàn tỉnh Quảng Nam chưa phát sinh vấn đề liên quan, nhưng chúng tôi cho rằng vấn đề này không phải là mặt ưu điểm của Bộ luật Tố tụng dân sự trong thời gian qua, cần được nghiên cứu kỹ hơn để đảm bảo các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.

2.2. Về một số vấn đề liên quan đến thời hạn tố tụng

Thời hạn tố tụng trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự bao gồm thời hạn tố tụng đối với từng loại vụ việc và thời hạn tố tụng đối với từng giai đoạn, thủ tục tố tụng. Thực tiễn thi hành các quy định này có phát sinh một số bất cập. Đối với các quy định liên quan đến thời hạn tố tụng của từng hoạt động tố tụng cụ thể, tuy có phát sinh bất cập nhưng Tòa án nhân dân tối cao đã kịp thời giải đáp vướng mắc, đồng thời trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã có nhiều cách xử lý, khắc phục được khá tốt các quy định không phù hợp. Do vậy, về cơ bản các bất cập này ảnh hưởng không lớn đến tiến độ, chất lượng xét xử các vụ việc dân sự.

Đối với quy định về thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, thực tiễn cho thấy thời gian, công sức đầu tư cho từng loại án khác nhau và ở từng cấp Tòa án cũng khác nhau. Nhưng Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thời hạn tố tụng hiện hành dùng chung cho các cấp xét xử, chung cho các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án, thậm chí loại án phức tạp như án kinh doanh thương mại (liên quan đến hoạt động của nhiều loại hình doanh nghiệp, thu thập chứng cứ ở nhiều nơi, nhiều nguồn khác nhau, quá trình thu thập chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng dài ngày, nhiều vụ án phụ thuộc vào tình hình dịch bệnh toàn cầu và sự hợp tác quốc tế của Việt Nam và các nước khác…) thì thời hạn ngắn hơn các loại án còn lại. Điều này là không phù hợp với yêu cầu thực tế, cần nghiên cứu, sửa đổi cho hợp lý.

2.3. Về một số vấn đề liên quan đến chứng minh, thu thập chứng cứ

Hiện nay, nguyên nhân chính khiến thời hạn giải quyết nhiều vụ án dân sự bị kéo dài là do chờ cơ quan có thẩm quyền cung cấp chứng cứ, nhất là các vụ án tranh chấp liên quan đến đất đai và các vụ án ủy thác thu thập chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng ở nước ngoài. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự trong 5 năm qua cho thấy các tồn tại này ở thời điểm trước năm 2015 (thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự cũ) đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để. Bộ luật Tố tụng dân sự đã có quy định về nhiệm vụ cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ và phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự của các tổ chức, cá nhân liên quan và cũng có quy định xử lý trách nhiệm không hoặc chậm cung cấp thông tin, tài liệu chứng cứ. Nhưng thực tiễn thi hành các quy định này chưa đạt hiệu quả cao, tác động đến tiến độ, chất lượng thu thập thông tin, tài liệu chứng cứ; ảnh hưởng đến kết quả chứng minh; đáp ứng không tốt yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng dân sự; là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều bản án bị hủy, bị sửa, nhiều vụ án phải xét xử nhiều lần, nhiều năm. Vấn đề này cần được nhìn nhận kỹ và đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật tố tụng dân sự và các quy định liên quan khác để có giải pháp mạnh, hiệu quả, tháo gỡ vướng mắc liên quan, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng thu thập chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự.

3. Những vấn đề mới phát sinh sau 5 năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự

Việt Nam đang hướng đến xây dựng nền kinh tế số, các yêu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tố tụng dân sự đã hiện hữu và cấp thiết, cần nghiên cứu tổng thể để sửa đổi, bổ sung pháp luật tố tụng dân sự cho phù hợp. Trong đó có các vấn đề về thực hiện thao tác tố tụng thông qua thư điện tử (nhận, xử lý, lưu trữ dữ liệu về đơn khởi kiện, đơn yêu cầu…) và xét xử trực tuyến. Theo đó, cần có nghiên cứu kỹ lưỡng về các vấn đề này để sửa đổi các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện nay, bổ sung các quy định mới phục vụ tốt cho quá trình tố tụng dân sự trong nền kinh tế số, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước, chủ động ứng phó với các sự cố về thiên tai, dịch bệnh.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những quy định phát huy khả năng của các đơn vị ngoài nhà nước trong thu thập chứng cứ như: thẩm định giá, tống đạt văn bản tố tụng thông qua Thừa phát lại. Trong 5 năm thi hành, các quy định này đã phát huy hiệu quả tốt, giảm thiểu được thời gian, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng, tăng hiệu quả thu thập các chứng cứ liên quan. Chúng tôi cho rằng, theo xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật, nhất là sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay và thời gian đến, đặt ra các yêu cầu về thu thập chứng cứ bằng năng lực kỹ thuật chuyên ngành nhiều hơn và những năng lực này không phải là chuyên môn, là ưu điểm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Theo đó, cần phải có những quy định của pháp luật để điều chỉnh quá trình thu thập chứng cứ gắn với yêu cầu kỹ thuật, công nghệ chuyên ngành như: trích dữ liệu điện tử, lưu chứng cứ điện tử, xem xét, sử dụng chứng cứ điện tử…trong tố tụng dân sự. Đồng thời, về lâu dài, cần nghiên cứu, tổng hợp thực tiễn, sửa đổi quy định pháp luật tố tụng dân sự, giao cho tổ chức ngoài nhà nước (có thể là các cơ quan, đơn vị có chức năng bổ trợ tư pháp) chủ trì thực hiện thủ tục tố tụng dân sự mà Tòa án, Thẩm phán đang làm là xem xét, thẩm định tại chỗ – một trong những thủ tục thu thập chứng cứ phụ thuộc nhiều vào năng lực chuyên môn của các cá nhân thuộc các đơn vị, cơ quan ngoài Tòa án và tốn nhiều thời gian nhất. Vấn đề là, làm sao để Thẩm phán có kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ sát với thực tế và đảm bảo được các phương án giải quyết vụ án khi xét xử.

III. Kiến nghị, đề xuất

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhằm khắc phục những hạn chế, tháo gỡ các vướng mắc, bổ sung các quy định mới để giải quyết những vẫn đề phát sinh từ thực tiễn là cần thiết, nhằm tạo nên hành lang pháp lý tố tụng dân sự thông thoáng, phục vụ tốt công tác giải quyết, xét xử các loại án, bảo vệ quyền lợi người dân, bảo vệ công lý, đáp ứng yêu cầu chung của xã hội, của đất nước. Theo đó, chúng tôi đề nghị:

Thứ nhất, cấp có thẩm quyền cần rà soát, tổng hợp các hạn chế, vướng mắc và những bất cập từ thực tiễn để sớm tổ chức sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự một cách toàn diện, đầy đủ.

Thứ hai, đối với những vấn đề được nêu ra trong bài viết này, chúng tôi kiến nghị như sau:

– Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt theo hướng: xem yêu cầu hủy quyết định cá biệt là quan điểm của người tham gia tố tụng đối với quyết định hành chính của nhà nước và giao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết, xét xử các vụ việc này.

– Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản luật khác có liên quan về thẩm quyền của Ủy ban Thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh về kháng nghị, giải quyết giám đốc thẩm đối với quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện.

– Trước mắt, kiến nghị nghiên cứu, xem xét, sửa đổi quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử các vụ việc kinh doanh thương mại theo hướng bằng thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử vụ việc dân sự thuần túy. Về lâu dài, đề nghị nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đề xuất hướng sửa đổi quy định thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử vụ việc dân sự nói chung theo hướng phân loại thời hạn theo loại vụ việc (dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động) và theo thẩm quyền giải quyết vụ án tại từng cấp Tòa án.

– Kiến nghị nghiên cứu, bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp thông tin chứng cứ mà không cung cấp đúng thời hạn quy định hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin, tài liệu chứng cứ làm cho kết quả xét xử không đúng pháp luật, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác, theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

– Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phần giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng chưa phát huy hiệu quả trên thực tế, nội dung chính của các quy định này tập trung vào các nguyên tắc chung về đường lối, căn cứ xác định đường lối giải quyết tranh chấp dân sự chưa có điều luật áp dụng. Chúng tôi kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng quy định rõ cơ sở, nội hàm, phạm vi, căn cứ xác định tập quán làm cơ sở giải quyết tranh chấp; nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật, phạm vi những quy định pháp luật được phép sử dụng làm pháp luật tương tự khi giải quyết tranh chấp; quy định cụ thể hơn về cơ sở, điều kiện để xác định lẽ công bằng được dùng làm căn cứ khi giải quyết tranh chấp.

– Kiến nghị bổ sung vào Bộ luật Tố tụng dân sự các quy định cụ thể, phù hợp liên quan đến thu thập, lưu trữ, sử dụng nguồn chứng cứ, chứng cứ là dữ liệu điện tử; quy định cụ thể hơn về thụ lý, xử lý đơn khởi kiện qua thư điện tử; bổ sung quy định về xét xử trực tuyến. Ngoài ra, cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu giao cho các đơn vị chuyên ngành ngoài nhà nước thực hiện thủ tục xem xét, thẩm định tại chỗ theo quyết định của Tòa án, đảm bảo sao cho giải quyết được hai mục đích, một là giảm tải phần việc, thời gian thu thập chứng cứ của Tòa án, hai là đảm bảo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ phải sát, phải đúng thực tế, đáp ứng được đường lối giải quyết, xét xử vụ án.

Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Dũng
Tòa Dân sự TAND tỉnh Quảng Nam

Chia sẻ
Facebook
Twitter
Pinterest
WhatsApp
Viber
Email
Print

1. Tóm tắt Bộ luật tố tụng dân sự mới nhất năm 2022

BỘ LUẬT

TỐ TỤNG DÂN SỰ

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng dân sự.

Phần thứ nhất

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Xem thêm: Khái niệm, ý nghĩa của thủ tục rút gọn giải quyết vụ án dân sự

Chương I

NHIỆM VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.

Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Điều 2. Đối tượng áp dụng và hiệu lực của Bộ luật tố tụng dân sự

1. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.

2. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với mọi hoạt động tố tụng dân sự do cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành ở nước ngoài.

Xem thêm: Thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng dân sự

3. Bộ luật tố tụng dân sự được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì vụ việc dân sự có liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Chương II

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

Điều 3. Tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự

Mọi hoạt động tố tụng dân sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này.

Điều 4. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.

Xem thêm: Cơ quan tiến hành tố tụng là gì? Cơ quan, người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự?

2. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.

Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.

Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định.

Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.

Điều 6. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Xem thêm: Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.

2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.

Điều 7. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát.

Điều 8. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

1. Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.

Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án.

2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự.

Xem thêm: Luật tố tụng dân sự là gì? Những nguyên tắc đặc thù của Luật Tố tụng Dân sự?

Điều 9. Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

1. Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.

3. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án.

4. Không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.

Điều 10. Hòa giải trong tố tụng dân sự

Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.

Điều 11. Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự

Xem thêm: Tố tụng dân sự quốc tế là gì? Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế?

1. Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

2. Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Điều 12. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán giải quyết việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

1. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán giải quyết việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

2. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, việc giải quyết việc dân sự của Thẩm phán dưới bất kỳ hình thức nào.

Điều 13. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân.

2. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Xem thêm: Nguyên tắc xác định thẩm quyền của Tòa án trong vụ án dân sự

Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

3. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

4. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

5. Người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Điều 14. Tòa án xét xử tập thể

Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

Điều 15. Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai

1. Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn do Bộ luật này quy định, bảo đảm công bằng.

Xem thêm: Phân tích các nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự

2. Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử kín.

Video liên quan

Chủ đề