Hội nghị lần thứ 21 của đảng tháng 7 nam 1973 đã xác định kẻ thù của cách mạng miền nam văn là

Hiệp định Paris được ký kết mở ra thời cơ lớn để quân và dân ta tiếp tục hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Buộc phải ký Hiệp định Paris, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền nam, song chính quyền Nixon vẫn âm mưu tiếp tục dùng quân đội và chính quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền nam...Vì vậy, trước và sau ngày ký Hiệp định, đế quốc Mỹ lén lút tuồn vũ khí, gài  nhân  viên, cố vấn ở lại làm nhiệm vụ chỉ huy, hỗ trợ chính quyền và quân đội Sài Gòn, đồng thời duy trì lực lượng "ngăn đe" ở các vùng phụ cận chung quanh Việt Nam, tiếp tục xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt hòng ngăn chặn sự phát triển sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Mục tiêu trước mắt của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn là lấn chiếm vùng giải phóng, bình  định  vùng chiếm đóng, tiêu diệt một bộ phận lực lượng ta, đẩy lực lượng ta ra sát biên giới, loại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam và Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền nam.

Ðể thực hiện mục tiêu này, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm vùng giải phóng.

Từ sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực, Ðảng ta dự kiến có hai khả năng: hoặc là hòa bình được duy trì, hiệp định được thực hiện từng bước, phong trào cách mạng miền nam có điều kiện tiếp tục phát triển; hoặc là chiến tranh sẽ vẫn tiếp diễn. Ta ra sức tranh thủ khả năng thứ nhất, đồng thời ra sức chuẩn bị sẵn sàng đối phó khả năng thứ hai.

Tháng 7-1973,  Ban Chấp hành Trung ương Ðảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 21 và ra Nghị quyết Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới. Hội nghị phân tích thắng lợi to lớn của ta sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; chỉ ra một số nhược điểm, khuyết điểm của ta từ sau Hiệp định Paris. Hội nghị khẳng định: "Con đường cách mạng của miền nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, chỉ đạo linh hoạt, đưa cách mạng miền nam tiến lên."

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới là phải: "Tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết toàn dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân... đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi tới xóa bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xóa bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc, dân chủ thực sự, thực hiện hòa hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà."

Hội nghị chỉ rõ phương châm tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, căn cứ tình hình cụ thể của từng thời kỳ, từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh; giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt, làm tan rã và suy yếu từng mảng lớn lực lượng quân sự, chính trị của địch, tạo ra những chuyển biến to lớn về so sánh lực lượng, về cục diện chiến trường có lợi cho ta...

Trước tình hình mới, nhiệm vụ của miền bắc là phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có, ra sức đẩy mạnh chi viện miền nam, khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân, làm cho miền bắc xã hội chủ nghĩa luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc...

Trung ương còn xác định: Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải nắm vững lực lượng vũ trang; phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm các vùng giải phóng hoặc bình định vùng đồng bằng, vùng giáp ranh; trong đó, phải thực hiện được yêu cầu giành dân và giành quyền làm chủ nhằm giành lấy thế mạnh để thắng địch; phải đẩy mạnh công tác binh vận, đẩy mạnh mũi tiến công thành thị, ra sức củng cố vùng giải phóng, tăng cường công tác mặt trận, đẩy mạnh công tác ngoại giao, tăng cường công tác Ðảng...

Tháng 3-1974, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 21 về mặt quân sự, Hội nghị Quân ủy Trung ương đã đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt phương châm và phương thức đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược.

Tinh thần của Nghị quyết 21 Ban Chấp hành Trung ương cùng Nghị quyết của Quân ủy Trung ương đã góp phần quyết định nhanh chóng việc xoay chuyển tình thế ở miền nam, làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường miền nam có lợi cho ta; được các cấp ủy đảng, lãnh đạo các chiến trường, các mặt trận, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, chính quyền và nhân dân quán triệt tổ chức thực hiện. Quân và dân ta trên chiến trường miền nam quyết tâm chủ động thực hiện tiến công và phản công bẻ gãy, đánh bại các cuộc hành quân, càn quét, lấn chiếm của quân ngụy, từng bước giành lại nhiều vùng đã bị lấn chiếm, giữ vững thế trận, củng cố lực lượng, mở rộng vùng giải phóng. Ðến giữa năm 1974, trên toàn miền nam, ta đã xóa được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp với 11 vạn dân. Ngược lại, quân đội Sài Gòn phải lui từng bước về giữ các đô thị, các vùng giao thông huyết mạch và địa bàn có ý nghĩa chiến lược trọng yếu.

Trong khi đó, với sự chi viện mạnh mẽ, liên tục từ hậu phương miền bắc, lực lượng vũ trang ta trên chiến trường nhanh chóng phát triển, áp đảo quân địch. Trên miền bắc, các quân đoàn, binh đoàn chủ lực lần lượt ra đời. Ở miền nam, lực lượng vũ trang ta mở cuộc tiến công và giành thắng lợi quyết định như trận chi khu quận lỵ Thượng Ðức (tháng 8-1974), chiến dịch Ðường 14 - Phước Long, chiến dịch Tây Nguyên... Tuyến vận tải chiến lược 559 tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, áp sát các chiến trường Tây Nguyên, Ðông Nam Bộ. Trên cơ sở Nghị quyết 21 Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo, lãnh đạo từng bước hoàn thiện kế hoạch giải phóng miền nam, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...

NGUYỄN VĂN QUYỀN
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

Đề bài:

A. chính quyền Sài Gòn và Ngô Đình Diệm.                          

B. chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và bọn phảm động.

C. đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu.                      

D. chính quyền phản động miền Nam và Mĩ.

C

Chiến dịch mở màn cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 là

Tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng năm 1975 là

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 ngày 13/10/1973

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 ngày 13/10/1973 giao nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng miền Nam là đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp, để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc đoạn trích Nghị quyết này.

...

3. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là:

Đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp, để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng của cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

Phải lấy khẩu hiệu hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, dân chủ. Chú trọng củng cố liên minh công nông, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng thời tích cực tranh thủ lực lượng thứ ba. Lấy khẩu hiệu hoà bình và hoà hợp dân tộc để phân hoá hàng ngũ địch, cô lập tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít của Nguyễn Văn Thiệu.

Địch đang dùng hành động quân sự vi phạm Hiệp định một cách có hệ thống, ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định các vùng đồng bằng, vùng giáp ranh; phải phối hợp giữa ba thứ quân, ba mũi giáp công, giữa ba vùng, giữa các chiến trường để thực hiện phản công và tiến công địch, đánh địch những đòn thật đau, không để cho địch lấn chiếm vùng giải phóng của ta và bình định, mở rộng vùng kiểm soát của chúng; phải thu hồi những vùng đã bị địch lấn chiếm, thu hẹp vùng kiểm soát của địch; ở nơi có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng của ta.

Tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, từng bước tiến lên thành cao trào cách mạng ở thành thị, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở các vùng nông thôn, đẩy mạnh giành dân và giành quyền làm chủ, đẩy lùi và làm thất bại mọi thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá của địch. Vận động và lãnh đạo quần chúng nắm vững pháp lý của Hiệp định để đấu tranh đòi địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, phải ngừng bắn; phải công nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội; hai vùng kiểm soát, và ba lực lượng chính trị; phải thả hết tù chính trị, thi hành các quyền tự do dân chủ, chống chế độ kìm kẹp, khủng bố, thanh lọc và bóc lột, vơ vét.

Cuộc đấu tranh với địch trên mặt trận chính trị và mặt trận quân sự phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Ta phải tận dụng hai diễn đàn đấu tranh ngoại giao hiện nay là diễn đàn Ban Liên hiệp quân sự hai bên và diễn đàn Hội nghị hiệp thương hai bên ở Pari, phát huy vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời, đồng thời tận dụng vai trò của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đấu tranh một cách sắc bén với địch, nhằm phối hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự ở chiến trường, từng bước buộc địch phải thi hành các điều khoản của Hiệp định và tranh thủ dư luận trong nước cũng như ngoài nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam có tác dụng tích cực đối với chiều hướng phát triển của tình hình miền Nam trong giai đoạn mới. Giữa ta và địch sẽ diễn ra một trạng thái giằng co rất quyết liệt và phức tạp. Ta phải rất cảnh giác, kiên quyết, bền bỉ, khôn khéo, nắm vững phương hướng chung là ta phải mạnh trên cả ba mặt trận để thắng địch, buộc địch thi hành Hiệp định, đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn.

Ở miền Nam hiện nay, ta và địch ở trong thế xen kẽ rất phức tạp. Ta phải tuỳ theo tình hình từng vùng, từng lúc và lực lượng so sánh ở từng địa phương, từng xã ấp, mà đề ra mức độ, quy mô, hình thức vận dụng từng mũi đấu tranh và cách kết hợp các mũi đấu tranh đó cho thích hợp. Trong tình hình mới, vận dụng phương châm đấu tranh phải gắn liền với yêu cầu giành dân, giành quyền làm chủ là nhằm giành thế mạnh để thắng địch. Hướng phản công và tiến công của ta hiện nay phải nhằm đánh bại kế hoạch bình định và lấn chiếm của địch, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng giáp ranh. Phải tuỳ nơi, tuỳ lúc mà áp dụng phản công và tiến công một cách chủ động linh hoạt.

Đối với vùng giải phóng (bao gồm các căn cứ địa), phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân và dân, vừa sản xuất vừa chiến đấu, phải xây dựng mạnh cả về quân sự, chính trị, kinh tế và phải giữ vững bằng mọi cách. Phải có kế hoạch quân sự toàn diện, phối hợp giữa các chiến trường, các vùng, sẵn sàng phản công và tiến công địch, nếu địch đánh vào vùng giải phóng.

Đối với vùng tranh chấp (bao gồm cả vùng làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau), phải giữ vững cả thế và lực của ta, và từng bước chuyển lên; phải nắm được dân, xây dựng và phát triển được thực lực, đưa phong trào quần chúng tiến lên. Phương châm đấu tranh vẫn là kết hợp ba mũi, đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và binh vận, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp; tuỳ lực lượng so sánh từng vùng mà vận dụng các hình thức và phương pháp đấu tranh cho phù hợp và chủ động, linh hoạt. Khi chuyển lên hoặc khi tạm thời phải chuyển xuống, ta phải biết giữ gìn, phát triển lực lượng, che giấu thực lực, không để bị tiêu hao. Phải biết phát huy tác dụng pháp lý của Hiệp định để phát động quần chúng đấu tranh và phân hoá, trung lập hoá hoặc tranh thủ những bộ phận của địch có thể trung lập hoá hoặc tranh thủ.

Trong vùng địch kiểm soát, cần lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp chống các hình thức kìm kẹp, đòi chính quyền địch thực hiện các yêu cầu thiết thân của quần chúng, gắn liền với việc đòi thi hành Hiệp định. Phải nắm cho được quần chúng, xây dựng và phát triển lực lượng thông qua việc vận động đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Biết giành thắng lợi trong từng việc, từng khẩu hiệu cụ thể, như đòi tự do đi lại làm ăn, chống sinh hoạt đắt đỏ, chống thuế, chống thất nghiệp, đòi công ăn việc làm, v.v., từ đó mà nâng dần phong trào lên. Thông qua phong trào đấu tranh mà củng cố tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng. Tuỳ nơi, tuỳ lúc tổ chức những tổ du kích bí mật, đội vũ trang tuyên truyền, đội đặc công, biệt động để phối hợp ba mũi giáp công, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng. Phải biết tuyên truyền, vận động đối với binh lính và nhân viên nguỵ quyền, khôn khéo và cảnh giác, lợi dụng mọi khả năng để phát triển phong trào đấu tranh, đồng thời che giấu, bảo vệ lực lượng ta.

Theo Văn kiện Đảng toàn tập, tập34, trang 686 - 689.

Video liên quan

Chủ đề