Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 1941 được đánh gia là

Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) ra đời là một chủ trương hết sức sáng suốt của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, có ý nghĩa quan trọng vào sự phát triển phong trào cách mạng giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Đầu năm 1941, trước những thay đổi mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn trên thế giới. Ở trong nước các cuộc khởi nghỉa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương tuy thất bại nhưng đã gây tiếng vang lớn báo hiệu một khí thế mới cho phong trào cách mạng Việt Nam. Trên thế giới, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Tháng 6/1940, phát xít Đức tấn công nước Pháp, chính phủ Pháp nhanh chóng đầu hàng. Nhân cơ hội này, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược Đông Dương. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc nhận định đây là cơ hội thuận lợi cho cách mạng nước ta và Người quyết định chuẩn bị về nước. Người phân tích: "Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”[1].

Ngày 28-1-1941 (mồng 2 Tết Tân Tỵ), sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Tây, Trung Quốc lên đường về nước để cùng Trung ương lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

 Trước khi lên đường về nước, nhằm chuẩn bị thành lập mặt trận dân tộc rộng rãi ở nước ta, đầu tháng 1-1941, tại làng Nậm Quang (Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc tổ chức lớp học và trực tiếp huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam. Cộng sự của Người có các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... Chương trình huấn luyện gồm ba phần chính, bao gồm: Tình hình thế giới và trong nước; Tổ chức đoàn thể quần chúng; Cách điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện và đấu tranh cách mạng. Đây là lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh đầu tiên của nước ta.

 Cuối tháng 4-1941, Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ cho đồng chí Vũ Anh triệu tập hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng để rút kinh nghiệm tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh tại Cao Bằng.

 Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, tại Khuổi Nậm, Pác Bó, Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị khẳng định:“Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, đòi hỏi Đảng ta phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng trong xã hội, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Hội nghị nêu rõ: Khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Mặt trận Việt Minh và sẽ là cờ của Tổ quốc khi giành được chính quyền.

Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh ra đời. Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Mặt trận trình bày rõ ràng đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình. Điều lệ của Mặt trận Việt Minh ghi rõ: liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước. Kết nạp từng đoàn thể không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, để cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. 

 Ngày 6-6-1941, triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ tám về tổ chức Việt Minh, Nguyễn Ái Quốc viết thư Kính cáo đồng bào gửi các tầng lớp nhân dân cả nước. Mở đầu bức thư, Người nêu lên tình cảnh khổ nhục của nhân dân ta dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Người ca ngợi những tấm gương oanh liệt của các bậc tiền bối trong cuộc đấu tranh giành quyền độc lập tự do. Tuy nhiên, việc lớn chưa thành vì “cơ hội chưa chín” và vì “dân ta chưa hiệp lực đồng tâm”. Người chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”... Người chỉ rõ hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: “Toàn dân đoàn kết... Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng...”. Cuối thư, Người kêu gọi: “... Hỡi các chiến sĩ cách mạng! Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đương vang dội bên tai các đồng chí! Máu nóng của bậc anh hùng đương sục sôi trong lòng các đồng chí! Chí phấn đấu của quốc dân đương chờ đợi sự lãnh đạo của các đồng chí!...".

 Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chỉ sau một thời gian ngắn, Mặt trận Việt Minh đã phát triển nhanh chóng, từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, thu hút đông đảo các giai tầng xã hội tham gia Mặt trận và đã góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhận định: “Vì sao có cuộc thắng lợi đó?, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo Lá cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”. 

Mặt trận Việt Minh đã trở thành biểu tượng sáng ngời của khối đại đoàn kết toàn dân, của tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất và để lại cho Đảng ta những bài học quý báu, được Đảng ta vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thành công và uy tín của Việt Minh đó là thành công và uy tín của một Đảng đã thực sự hóa thân vào Mặt trận, sống cùng Nhân dân để lãnh đạo Nhân dân làm cách mạng; vừa đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, vừa tôn trọng tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, khuyến khích và tạo điều kiện để Mặt trận hoạt động có hiệu quả.

Nguyễn Thị Hồng Vui 

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy 

[1] Hồi ký của Vũ Anh, Đầu nguồn- Hồi ký về Bác Hồ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1975, tr.234.

13 Tháng 07 Năm 2011 / 29300 lượt xem

ThS Lường Thị Lan

Phòng Sưu tầm- Kiểm kê- Tư liệu

Năm 1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Đức lần lượt chiếm các nước Tây Âu. Đến cuối năm 1940, Đức chuẩn bị mọi lực lượng để tấn công Liên Xô. Ở Châu Á, phát xít Nhật đánh chiếm Trung Quốc và các nước một số nước khác. Chủ nghĩa phát xít đang đe dọa đến sự tồn vong của loài người. Trong bối cảnh đó, Quốc tế cộng sản họp tìm cách đối phó với chủ nghĩa phát xít, kêu gọi sự đoàn kết cùng nhau chống chủ nghĩa phát xít. Phong trào giải phóng dân tộc có những chuyển biến mới. Đặc biệt dân tộc nào có sự chuẩn bị tốt, nắm bắt đúng thời cơ sẽ giành được chính quyền. Nhìn thấy sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tìm cách về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng tranh thủ thời cơ giành chính quyền. Tháng 9 năm 1938, Người rời Liên Xô về Trung Quốc tìm cách bắt liên lạc với các tổ chức Đảng của nước ta đang hoạt động ở nước ngoài và cũng là để liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc nhờ sự giúp đỡ.

Cùng với sự chuyển biến của tình hình thế giới, tình hình trong nước cũng có thay đổi nhanh chóng. Năm 1940, phát xít Nhật nhân cơ hội đó xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Nhân dân Việt Nam đã nổi dậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tháng 9-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 11-1940, khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 1-1941, binh biến ở Đô Lương. Cách mạng Đông Dương đang phát triển theo chiều hướng có lợi.

Sau một thời gian hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc đã đặt chân về Tổ quốc. Người chọn Pắc Bó - Cao Bằng làm nơi dừng chân và là nơi thí điểm phong trào cách mạng. Trước sự chuyển biến khẩn trương của tình hình cách mạng trong nước, các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ đã nổ ra, lòng căm phẫn của nhân dân ta lên cao độ trước tình cảnh “một cổ đôi tròng”. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng sự cần kíp phải chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đấu tranh của nhân dân ta.

Với danh nghĩa đại diện của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp triệu tập và chủ trì hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng cộng sản Đông Dương. Hội nghị làm việc từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại một căn lán nhỏ bên dòng suối Khuổi Nậm (Pắc Bó). Đây là vùng rừng núi, xa khu vực dân cư, có thể đảm bảo bí mật, an toàn cho Hội nghị cũng như các đồng chí tham dự hội nghị. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, hai đại biểu xứ ủy Trung kỳ và Nam kỳ là Bùi San, Hồ Xuân Lưu, cùng một số đại biểu đang hoạt động ở nước ngoài.

Hội nghị đã phân tích rõ tình hình thế giới, cuộc đại chiến đã bước sang năm thứ 3, phát xít Đức chiếm các nước ở Tây Âu. Phong trào cách mạng chống chủ nghĩa phát xít diễn ra mạnh mẽ ở các nước Đức, Anh, Liên Xô…Ở Châu Á, cuộc kháng của nhân dân Trung Quốc chống phát xít Nhật với lực lượng Hồng quân có trên 70 vạn người (5-1941)…Ở châu Mỹ,có nhiều cuộc bãi công xảy ra ở các nhà máy đúc binh khí. Tóm lại, phong trào cách mạng chống chủ nghĩa phát xít càng phát triển mạnh.

Bên cạnh việc nhận định tình hình thế giới, Hội nghị phân tích kỹ tình hình trong nước một cách sâu sắc. Kể từ khi Nhật nhảy vào Đông Dương, với chính sách vơ vét, bóc lột dã man khiến cho nền kinh tế Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng ngày càng suy kiệt, bần cùng hoá xã hội, làm cho toàn thể nhân dân ngày càng đói rét, khốn khổ. Tuy nhiên, phong trào cách mạng vẫn sôi nổi, lôi kéo tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia đấu tranh, nhất là lực lượng binh lính, tiêu biểu cuộc biểu tình của nông dân Bắc kỳ, khởi nghĩa vũ trang của nông dân Bắc Sơn và Nam Kỳ, binh biến Đô Lương.

Trên cơ sở sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng trong Hội nghị Trung ương 6 (1939), Hội nghị trung ương 7 (1940) đã có những bước chuyển biến đúng đắn về về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng. Hội nghị Trung ương 8 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục phân tích, xác định một lần nữa đường lối chiến lược cùng với vấn đề chiến thuật, sách lược của cách mạng Việt Nam trong thời gian tới, cụ thể đó là những mâu thuẫn cơ bản, kẻ thù chính của cách mạng, về nhiệm vụ, động lực và phương pháp cách mạng…

Hội nghị đã nhận định rằng, Pháp - Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của giai cấp công nhân và nông dân mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương. Do đó phải đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên hàng đầu, tạm gác quyền lợi giai cấp, cá nhân sang một bên. Có như vậy mới tập trung hết được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật, đó là công việc cốt yếu của Đảng ta. “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được” (1).

Như vậy, từ việc phân tích tình hình cách mạng trong nước, thái độ cách mạng của các giai cấp, vấn đề cách mạng của 3 nước Đông Dương, Hội nghị đã đi đến quyết định nhất trí cần giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc và nhận định kẻ thù của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp –Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai của chúng. Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn này là “đánh đuổi Pháp – Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập”(2). Vì thế tính chất của cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng sẽ tập trung giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng", làm nhiệm vụ dân tộc rồi mới đến giai cấp. Đây chính là sự biện chứng của quyền lợi giai cấp, quyền lợi dân tộc của một nước thuộc địa, trong một thời kỳ cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đã đặt ra từ Cương lĩnh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Sự phân tích mâu thuẫn kinh tế, xã hội, giai cấp sát thực tế sẽ đi tới: cô lập kẻ thù cao độ, tăng cường lực lượng cách mạng nhiều nhất, mọi truyền thống tốt đẹp, sâu lắng nhất của dân tộc sẽ được khơi dậy để có một cuộc tổng động viên toàn dân tộc chưa từng có trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay. “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào, dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng” (3).

Về mặt chính quyền, Hội nghị cũng nêu rõ sau khi cách mạng thành công lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thi hành chính sách dân tộc tự quyết với nhân dân Đông Dương. Đối với Lào và Cămpuchia, theo tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về đoàn kết quốc tế, Hội nghị khẳng định rằng chủ quyền của mỗi dân tộc phải được hoàn toàn tôn trọng, sự tự do của mỗi dân tộc giải quyết trên tinh thần dân tộc tự quyết. Do hoạt động và theo dõi sát tình hình thế giới, nên Nguyễn Ái Quốc đã trình bày cho các đại biểu hiểu rõ những nhận định của Người về mối quan hệ quốc tế. Cách mạng Việt Nam phải có nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng 2 nước anh em Lào và Cămpuchia trong quá trình đấu tranh.

Về mặt sách lược, Hội nghị cũng có nhiều quyết định: Tạm thời không nêu lên nghị quyết trước đây về tịch thu ruộng đất để tập trung giải quyết nhiệm vụ giải phóng. Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể đân tộc. Nếu ta nêu khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày, như thế không những chúng ta bỏ mất một lực lượng đồng minh, một lực lượng hậu thuẫn trong cuộc cách mạng đánh đuổi Pháp - Nhật mà còn đẩy lực lượng này về phe địch làm thành hậu bị quân cho phe địch. Nên khẩu hiệu cách mạng cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị đã nhất chí không chỉ nêu “đả đảo đế quốc chủ nghĩa” mà nêu rõ “Đánh đổ Pháp-Nhật”, không nêu “đả đảo đế quốc chiến tranh” nói chung mà “đả đảo chiến tranh xâm lược”, không nói “đánh đổ Nam triều” nói chung, mà là “diệt trừ Việt gian phản quốc”, không nêu “công nông liên hiệp, lập chính quyền Xô viết”, mà thay bằng “toàn thể nhân dân liên hiệp, lập chính phủ dân chủ cộng hoà”…chĩa tất cả mũi nhọn vào đế quốc.

Hội nghị khẳng định động lực của cách mạng là toàn bộ dân tộc trên cơ sở công nông liên minh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cả dân tộc có chung một kẻ thù cho nên phải huy động toàn bộ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tham gia cách mạng, là động lực thúc đẩy cách mạng tiến lên đến thắng lợi cuối cùng.

Để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, trước sự chuyển hướng chiến lược cách mạng, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta cũng nhận thấy phải đoàn kết toàn dân và không thể gọi là mặt trận phản đế Đông Dương được nữa. Người đã đặt vấn đề: “mặt trận thì tôi đồng ý rồi, nhưng lập mặt trận gì?”(4). Sau khi Người phân tích tình hình cách mạng, Hội nghị nhất trí thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh hay nói tắt là Việt Minh. Đối với các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh. Đây là một chủ trương rất sáng suốt Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nước. Đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc giữa 3 nước Đông Dương trên quan điểm dân tộc tự phát, dân tộc bình đẳng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Giải quyến vấn đề từng nước là đúng đắn và khoa học vì: Tuy 3 nước có kẻ thù chung là đế quốc Pháp-Nhật, có nhiệm vụ chung là đánh đuổi chúng nhưng mỗi nước lại có hoàn cảnh lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán riêng. Cách giải quyết vấn đề cách mạng 3 nước Đông Dương trên tinh thần dân tộc tự quyết phát huy được sức mạnh của mỗi dân tộc.

Về vấn đề khởi nghĩa vũ trang, Hội nghị đã khẳng định“Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”(5). Vì thế, chúng ta phải chuẩn bị một lực lượng vũ trang đông đảo chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa bằng cách: Mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có làm cho các đoàn thể có một tinh thần hy sinh tranh đấu, sẵn sàng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, sản nghiệp, hầm mỏ, đồn điền. Mở rộng sự tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu ớt và dân tộc thiểu số. Luyện cho các đảng viên cộng sản có một tinh thần cương quyết hy sinh. Luyện cho các đảng viên đủ nǎng lực và kinh nghiệm, đủ sức chỉ huy và xoay xở tình thế. Hội nghị quyết định xây dựng những tổ chức tiểu tổ du kích, du kích chính thức; ra Nghị định: "Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc", một tổ chức quân sự rộng rãi của quần chúng có khả năng tiến hành chiến tranh du kích và quyết định thành lập các căn cứ địa cách mạng. Tiếp tục phát triển lực lượng du kích Bắc Sơn; đồng thời cử một số cán bộ quân sự chính trị tăng cường cho Ban chỉ huy bổ sung lực lượng cho Đội du kích Bắc Sơn.

Vấn đề công tác xây dựng Đảng, Hội nghị nhận định tình trạng thiếu cán bộ, cán bộ chuyên môn, cán bộ xuất thân vô sản trong Đảng rất ít, tình trạng phát triển không đều, nông thôn mạnh hơn thành phố và vùng công nghiệp…Vì vậy, việc đào tạo cán bộ trở thành nhiệm vụ cấp bách, không thể chậm trễ, phải nhanh chóng đào tạo cán bộ thành phần vô sản đưa vào Đảng, phải lấy vận động công nhân làm đầu tiên trong công tác tổ chức quần chúng, cùng với việc đào tạo cán bộ lãnh đạo, chú trọng đào tào cán bộ chuyên môn về công vận, nông vận và binh vận.

Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, Hội nghị đã bầu ban chấp hành Trung ương Đảng chính thức. Các đồng chí trong hội nghị đã đề nghị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc làm Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo cả nước nhưng Người kiên quyết từ chối và cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, đồng thời bầu ra Ban thường vụ gồm ba người Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Bác đã căn dặn các đồng chí trong Ban thường vụ: “Phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đoàn kết nhất trí, giữ vừng nguyên tắc: tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, phê bình và tự phê bình”6.

Với tư tưởng và đường lối trên, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự vận dụng sự sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênnin trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp vào điều kiện cụ thể của cách mạnh Việt Nam, là sự nhìn nhận chính xác trong việc xác định mâu thuẫn, kẻ thù, nhiệm vụ và động lực cách mạng, sự sáng tạo trong phương pháp đấu tranh cách mạng. Những đường lối cách mạng này là sự kết hợp truyền thống dân tộc nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kiểu mẫu giữa kết hợp lập trường giai cấp vô sản với lập trường dân tộc đúng đắn, chân chính thể hiện trình độ vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn Ái Quốc một cách nhuần nhuyễn, đầy tính sáng tạo vào tình hình điều kiện lịch sử-xã hội cụ thể của Việt Nam.

Cùng với Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (năm 1939) và lần thứ 7 (năm 1940), Hội nghị lần này đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược cách mạng, vạch ra những sách lược cụ thể, giải quyết mục tiêu cao nhất của cách mạng lúc này là: độc lập dân tộc kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp thiết hơn bao giờ hết, nhưng vẫn nhấn mạnh đấu tranh giai cấp còn tồn tại mãi. Đây là sự trở về với sự giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, cụ thể hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, kết hợp giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo năm 1930 trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên một cơ sở sâu sắc hơn. Hội nghị đã đề ra phương pháp cách mạng cụ thể: tích cực chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền tiến lên Tổng Khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 là sự hoàn thiện, hoàn chỉnh chính xác các vấn đề chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam một cách tỉ mỉ, đầy đủ, có giá trị thực tiễn đối với cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. So với thời kỳ thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, thời kỳ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thì đây là lần đầu tiên đường lối chiến lược, chiến thuật, sách lược của cách mạng Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc xem xét ngay trên đất nước Việt Nam cùng với toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng nên có đầy đủ điều kiện hoàn chỉnh, hoàn thiện tốt nhất so với những giai đoạn trước. Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã hoàn chỉnh chuyển hướng chiến lược cách mạng một cách đúng đắn và kịp thời, đưa đến sự thắng lợi to lớn của cách mạng tháng Tám năm 1945.

Chú thích:

(1), (2), (5), (6)   Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Sự thật, Hà Nội 1991, tr122, tr127, tr133.

(4) Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Đầu nguồn-Tập Hồi ký về Bác Hồ - NXB Văn học Hà Nội 1975, tr 130.