Khí thế quân đội thời Trần được khắc họa như thế nào trong câu thơ thứ hai

Vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng

  • Dàn ý vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần
  • Vẻ đẹp con người và thời đại nhà trần qua bài thơ Tỏ lòng
  • Vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần - Mẫu 2
  • Vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần - Mẫu 3
  • Vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần - Mẫu 4
  • Vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần - Mẫu 5
  • Vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần - Mẫu 6
  • Vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần - Mẫu 7

Dàn ý vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão, bài thơ Tỏ lòng.

- Dẫn dắt đến nội dung cần phân tích: vẻ đẹp của con người và quân đội nhà Trần.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp của con người

- Tư thế “hoành sóc”: cầm ngang ngọn giáo

  • Ngọn giáo: Là vũ khí chiến đấu của quân đội thời trước
  • Tay cầm ngang ngọn giáo: thể hiện sự chủ động, tự tin
  • So sánh mở rộng với bản dịch thơ của Trần Trọng Kim: là “múa giáo”: mang tính hình ảnh, hoa mĩ, phù hợp với vần nhịp nhưng chỉ thể hiện được hành động phô trương, biểu diễn bên ngoài, không nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong.

=> Tư thế chủ động, tự tin cũng như đầy kiên cường, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.

- Tầm vóc của người anh hùng thể hiện qua không gian, thời gian:

  • Không gian: “Giang sơn” - đất nước, rộng lớn. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua không gian vũ trụ rộng lớn.
  • Thời gian: “kháp kỉ thu”: Con số ước lệ tượng trưng cho thời gian dài, vô tận.

=> Khẳng định tầm vóc lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, lấn át cả không gian và thời gian của người anh hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng uy phong, lẫm liệt.

2. Vẻ đẹp của quân đội nhà Trần

- Tiềm lực quân đội: “Tam quân” - ba quân tiền quân, trung quân, hậu quân: Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự của cả dân tộc.

=> Nhấn mạnh sự mạnh mẽ, vững vàng của quân đội nhà Trần.

- Khí thế đội quân:

  • “Tam quân” so sánh với “tì hổ”: Hổ báo là chúa tể rừng xanh, so sánh nhằm nhấn mạnh tiềm lực sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của quân thù.
  • Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có hai cách hiểu: Khí thế ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu hoặc khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu.

=> Cho thấy khí thế dũng mãnh, hào dùng ngút trời, tinh thần “sát thát” của quân đội nhà Trần được cụ thể hóa bằng những hình ảnh ước lệ.

III. Kết bài

- Khẳng định lại vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần trong bài thơ Tỏ lòng.

- Đánh giá chung về bài thơ Tỏ lòng.

Soạn bài: Tỏ lòng (trong 10 phút)

Bố cục:

- Hai câu thơ đầu: Khí thế hừng hực xông pha ngút trời của quân tướng nhà Trần

- Hai câu thơ sau: Lí tưởng về chí làm trai của đấng nam nhi trong xã hội

Đọc - Hiểu

Câu 1

Điểm khác nhau trong câu thơ nguyên tác với câu thơ dịch cụ thể là:

- Trong bản dịch thơ từ “Hoành sóc” của nguyên tác được dịch chưa sát nghĩa. Theo nguyên tác từ này không chỉ khắc họa lại tư thế hiên ngang, oai hùng của con người mà còn thể hiện được tâm thế chủ động, sẵn sàng, đầy sức mạnh của người anh hùng. Tuy nhiên bản dịch thơ chỉ thể hiện được tư thế mà thiếu đi thần thái, uy thế của con người.

- Tiếp nữa là thời gian, không gian và con người

+ Thời gian: tháp kỷ thu => thời gian dài đằng đẵng

+ Không gian: giang sơn => hùng vĩ, bao la, rộng khắp thời gian dài đằng đẵng "kháp kỉ thu".

+ Con người xuất hiện với tư thế ngang tầm vũ trụ, sánh vai với non sông tổ quốc thể hiện sự oai hùng

Câu 2

Sức mạnh quân đội nhà Trần qua câu thơ “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Trong câu thơ có từ Ngưu vốn mang hai nghĩa là con trâu và sao Ngưu trên trời. Vì thế câu thơ này cũng có hai cách hiểu:

+ Thứ nhất: Có nghĩa là quân đội nhà Trần có sức mạnh và ý chí chiến đấu quyết liệt của loài hổ báo. Sức mạnh ấy có thể nuốt trôi cả con trâu.

+ Thứ hai: Có nghĩa là quân đội nhà Trần có sức mạnh và ý chí chiến đấu rất lớn, rất quyết tâm, rất đoàn kết… Sức mạnh ấy có thể lấn áo cả sao Ngưu trên trời. Tức là sức mạnh chiến thắng cả thiên nhiên vũ trụ.

→ Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng có nội dung cốt lõi là thể hiện sức mạnh và khí thế chiến đấu hừng hực của quân đội nhà Trần.

Câu 3

“Nợ công danh” mà tác giả nói đến có thể được hiểu theo cả hai nghĩa bao gồm:

→ Thứ nhất: Thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo: lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm).

→ Thứ hai: Chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân với nước.

Câu 4

Về ý nghĩa của nỗi thẹn trong câu thơ cuối

- “Thẹn” ở đây được hiểu là sự thiếu sót, sự giới hạn của bản thân

-Ở đây, Phạm Ngũ Lão thẹn vì chính năng lực của bản thân bị giới hạn, bị thiếu sót cả về trí và lực. Thân là đấng nam nhi mà chưa thể hiện được công lao của mình trong sự nghiệp nước nhà.

- Nỗi thẹn bộc lộ tâm trạng day dứt, trăn trở của đấng nam nhi đối với việc nước, thẹn khi bản thân chưa đủ vẹn toàn, chưa hết mình vì nước, chưa thể cống hiến cho nhân dân trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều gian nan.

→ Nỗi thẹn đã làm rõ hơn và thể hiện một cách cụ thể lý tưởng anh hùng của đấng nam nhi trong thời Trần. Đã là nam nhi thì phải có danh gì với núi sông, phải sẵn sàng cả trí lực và thể lực để cống hiến sức trẻ, sức khỏe cho đất nước mình.

Câu 5

Vẻ đẹp của nam nhi thời Trần được thể hiện rất cụ thể

- Đầu tiên là vẻ đẹp của tầm vóc và ý chí. Họ xuất hiện với một tinh thân thép, với ý chí và lý tưởng bền bỉ mang hào khí Đông A cho cả dân tộc cùng noi gương. Không chỉ vậy, từ trong khí chất họ đã có sức mạnh phi thường, một sức mạnh chiến thắng và vươn lên tất cả để ngang tầm vũ trụ. Tóm lại, vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp toát ra từ khí chất, từ tinh thần và lý tưởng làm trai.

-Tuổi trẻ hôm nay và ngày mai nhìn vào vẻ đẹp của nam nhi thời Trần không chỉ để ngưỡng mộ, tự hào mà còn để noi gương à học tập. Nhìn vào đó để có lý tưởng riêng của bản thân, để xây dựng mục tiêu và hết mình cống hiến, hết mình phấn đấu vì lý tưởng của chính mình. Đây chính là niềm tự hào dân tộc cho mọi thế hệ hôm nay và mãi mãi về sau.

Nhận xét – Ý nghĩa

Qua bài thơ, học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của hào khí Đông A qua hình tượng người anh hùng thời Trần mang lí tưởng khí phách lớn lao bộc lộ vẻ đẹp của thời đại với ý chí tinh thần và khí thế hào hùng sánh ngang tầm vũ trụ. Bên cạnh đó, học sinh thấy được nghệ thuật của bài thơ, kết cấu ngắn gọn, nội dung cô động, thể hiện nhiều tầng nghĩa, giàu giá trị biểu tượng và hiệu quả diễn đạt cao.

I. Dàn ý Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần (Chuẩn)

1. Mở bài

- Sơ lược về tác giả Phạm Ngũ Lão.
- Giới thiệu bài thơ Thuật Hoài (Tỏ lòng).

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh sáng tác:

Bài thơ được sáng tác vào năm 1284, trước khi diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai.

b. Hai câu thơ đầu: Tái hiện một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.

* Con người thời Trần:
- Nổi bật trên nền không gian rộng lớn “giang sơn” và thời gian dài lâu, bền vững “mấy thu”.
- “Hoành sóc”: Tầm vóc của con người nổi bật thông qua hình ảnh cầm ngang ngọn giáo, ngọn giáo ấy dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời gian, vô cùng hiên ngang và hùng tráng.
=> Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc biệt tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, bền bỉ, anh dũng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ đất nước.
* Quân đội thời Trần:
- “tam quân” tức là ba quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, thể hiện sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến.
- “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất là ba quân mạnh như hổ, như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Thứ hai là sức mạnh của ba quân như hổ báo, át cả sao Ngưu đang ngự trên trời.
=> Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”.
c. Hai câu thơ cuối: Vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng và nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão:
* Câu 3: Quan niệm món nợ công danh:

- “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công danh, thể hiện qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ làm trai. Quan niệm “nhập thế tích cực”.
- Đặt trong hoàn cảnh đất nước đương thời, quân xâm lược đang ngấp nghé bờ cõi, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm trai có cơ hội trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp dân lập chí lớn. Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con, ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân.
=> Món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang tinh thần dân tộc sâu sắc.
* Câu cuối: Nỗi thẹn và nhân cách cao đẹp của tác giả:
- Thấy thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu - Gia Cát Lượng, một vĩ nhân trong lịch sử Trung Hoa.
- Đứng trước, con người mang tầm vóc như vậy, thì Phạm Ngũ Lão dù rằng đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ bé, ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, mà vẫn còn phải cố gắng trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.
- Từ những biểu hiện trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai ấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công dnah sánh ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc.
=> Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có nhân cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước.

3. Kết luận

Nêu tổng kết nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần

Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
  • Dàn ý
  • Bài mẫu
  • Dàn ý
  • Bài mẫu
Khí thế quân đội thời Trần được khắc họa như thế nào trong câu thơ thứ hai
Bài khác

Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần.

Dàn ý

1. Mở bài

- Sơ lược về tác giả Phạm Ngũ Lão.

- Giới thiệu bài thơ Thuật Hoài (Tỏ lòng).

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh sáng tác:

- Bài thơ được sáng tác vào năm 1284, trước khi diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai.

b. Hai câu thơ đầu: Tái hiện một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.

* Con người thời Trần:

- Nổi bật trên nền không gian rộng lớn “giang sơn” và thời gian dài lâu, bền vững “mấy thu”.

- “Hoành sóc”: Tầm vóc của con người nổi bật thông qua hình ảnh cầm ngang ngọn giáo, ngọn giáo ấy dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời gian, vô cùng hiên ngang và hùng tráng.

=> Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc biệt tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, bền bỉ, anh dũng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ đất nước.

* Quân đội thời Trần:

- “tam quân” tức là ba quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, thể hiện sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến.

- “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất là ba quân mạnh như hổ, như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Thứ hai là sức mạnh của ba quân như hổ báo, át cả sao Ngưu đang ngự trên trời.

=> Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”.

c. Hai câu thơ cuối: Vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng và nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão:

* Câu 3: Quan niệm món nợ công danh:

- “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công danh, thể hiện qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ làm trai. Quan niệm “nhập thế tích cực”.

- Đặt trong hoàn cảnh đất nước đương thời, quân xâm lược đang ngấp nghé bờ cõi, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm trai có cơ hội trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp dân lập chí lớn. Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con, ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân.

=> Món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang tinh thần dân tộc sâu sắc.

* Câu cuối: Nỗi thẹn và nhân cách cao đẹp của tác giả:

- Thấy thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu - Gia Cát Lượng, một vĩ nhân trong lịch sử Trung Hoa.

- Đứng trước, con người mang tầm vóc như vậy, thì Phạm Ngũ Lão dù rằng đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ bé, ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, mà vẫn còn phải cố gắng trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.

- Từ những biểu hiện trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai ấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công dnah sánh ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc.

=> Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có nhân cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước.

3. Kết luận

- Khái quát lại vấn đề

Bài mẫu

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1225 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Dịch nghĩa:Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu;dịch thơ:Múa giáo non sông trải mấy thu.)

So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.Hoành sóclà cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.

(Dịch nghĩa:Khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời. Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta.Tam quân tì hổlà một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta.Khí thôn Ngưulà cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm:Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông(Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Gia Cát Lượng đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đối phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân.Thuật hoàilà bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại.Thuật hoàiđã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Loigiaihay.com

  • Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão

  • Âm vang của hào khí Đông A qua hai tác phẩm Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng giang phú (bài Phú sông Bạch Đằng) của Trương Hán Siêu.

  • Cảm tưởng của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

  • Đọc hiểu bài thơ Thuật hoài

  • Học bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, có bạn cho rằng: sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ca ngợi và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào?

Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Dàn ý vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão, bài thơ Tỏ lòng.

– Dẫn dắt đến nội dung cần phân tích: vẻ đẹp của con người và quân đội nhà Trần.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp của con người

– Tư thế “hoành sóc”: cầm ngang ngọn giáo

  • Ngọn giáo: Là vũ khí chiến đấu của quân đội thời trước
  • Tay cầm ngang ngọn giáo: thể hiện sự chủ động, tự tin
  • So sánh mở rộng với bản dịch thơ của Trần Trọng Kim: là “múa giáo”: mang tính hình ảnh, hoa mĩ, phù hợp với vần nhịp nhưng chỉ thể hiện được hành động phô trương, biểu diễn bên ngoài, không nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong.

=> Tư thế chủ động, tự tin cũng như đầy kiên cường, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.

– Tầm vóc của người anh hùng thể hiện qua không gian, thời gian:

  • Không gian: “Giang sơn” – đất nước, rộng lớn. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua không gian vũ trụ rộng lớn.
  • Thời gian: “kháp kỉ thu”: Con số ước lệ tượng trưng cho thời gian dài, vô tận.

=> Khẳng định tầm vóc lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, lấn át cả không gian và thời gian của người anh hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng uy phong, lẫm liệt.

2. Vẻ đẹp của quân đội nhà Trần

– Tiềm lực quân đội: “Tam quân” – ba quân tiền quân, trung quân, hậu quân: Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự của cả dân tộc.

=> Nhấn mạnh sự mạnh mẽ, vững vàng của quân đội nhà Trần.

– Khí thế đội quân:

  • “Tam quân” so sánh với “tì hổ”: Hổ báo là chúa tể rừng xanh, so sánh nhằm nhấn mạnh tiềm lực sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của quân thù.
  • Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có hai cách hiểu: Khí thế ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu hoặc khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu.

=> Cho thấy khí thế dũng mãnh, hào dùng ngút trời, tinh thần “sát thát” của quân đội nhà Trần được cụ thể hóa bằng những hình ảnh ước lệ.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần trong bài thơ Tỏ lòng.

– Đánh giá chung về bài thơ Tỏ lòng.