Kinh bát nhã là gì

Bát Nhã Tâm Kinh (tiếng Anh: Heart Sutra – tiếng Phạn: Prajnaparamita Hrdaya Sutra) hay còn được biết với tên gọi Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Là một văn bản nổi tiếng nhất của Đạo Phật Đại Thừa, được coi là sự chưng cất tinh khiết của trí tuệ (prajna). Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh được coi như trí tuệ tinh khiết nhất của Phật giáo Đại Thừa.

Kinh Bát Nhã được các Phật tử Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nepal, Ấn Độ…tụng niệm. Khoảng những năm trở lại đây, kinh cũng được  nhiều người Châu Âu và Châu Mỹ lưu truyền.

Kinh bát nhã là gì
kinh Bát Nhã Tâm Kinh

Với người tu Phật, kinh Bát Nhã chính là ngọn đuốc để soi sáng con đường giác ngộ, tỉnh thức. Bát Nhã chính là trí tuệ, sự tinh tấn có thể nhìn thấu sự thật của mọi việc trên đời. Bát Nhã Tâm Kinh không chỉ là bài kinh về tâm thông thường mà đây chính là tâm sắc bén của mỗi người, là cái trí để thông tuệ cội nguồn của mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian này. 

Đức Phật muốn chúng ta hiểu được con đường tu hành đi đến giải thoát và đạt giác ngộ là một con đường đầy gian nan, không hề dễ dàng, phải vượt qua nhiều chướng ngại vật, mà muốn vượt qua những khó khăn ấy thì Phật tử cần tụng niệm tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa : qua đi, qua đi, qua, tích cực qua bờ bên kia đi, qua bờ bên kia sự giác ngộ sẽ được viên thành ( Yết -đế.  Yết-đế. Ba la yết-đế.  Ba la tăng yết-đế. Bồ-đề tát-bà-ha).

Nguồn gốc Bát Nhã Tâm Kinh 

Bát Nhã Tâm kinh là một trong những cuốn kinh thuộc Đại Bát Nhã. Sau khi Đức Phật nhập diệt, toàn bộ những lời giảng dạy của Đức Phật được các chư vị cao tăng tập hợp và trì tụng nhiều lần, kết tập lại trở thành kinh điển Phật giáo hoàn chỉnh. 

Kinh bát nhã là gì
Đức Phật thuyết giảng Phật pháp

Bộ kinh Đại Bát Nhã được tập kết rất nhiều lần, bộ sưu tập có khoảng 40 kinh điển Phật giáo từ 100 TCN đến 500 SCN. Đến nay cũng chưa biết nguồn gốc chính xác của Tâm kinh là từ khi nào, mà chỉ biết rằng trong số các kinh hình thành nên Đại Bát Nhã , thì Tiểu Phẩm Bát Nhã hình thành sớm nhất sau đó đến Đại Phẩm Bát Nhã và cuối cùng là các kinh thuộc hệ Bát Nhã. 

Ngoài Bát Nhã Tâm Kinh, bạn cũng có thể tìm hiểu và tụng niệm Chú Đại Bi hàng ngày để tiêu trừ hóa giải nạn kiếp. Hướng dẫn trì tụng Chú Đại Bi cho tâm bình an, hoan lạc. 

Ý nghĩa vi diệu của Bát Nhã Tâm Kinh

Đối với Phật giáo Đại thừa thì từ bi được lấy làm gốc. Từ bi chính là ánh sáng của trí tuệ, đại diện cho tính không: không là trống rỗng: tất cả chúng sanh là trống rỗng. Chính bởi sự trống không này mà tất cả chúng sanh đều được giải phóng và thuần khiết. Như trong Bát Nhã đã nói, đau khổ và sự giải thoát đau khổ đều trống rỗng. 

Lòng từ bi chính là chất liệu để chúng ta có thể khởi sinh tình yêu vô điều kiện, hỗ trợ và giúp đỡ chúng sanh đến vô cùng tận mà không suy nghĩ gì. Lòng tư bi được ví như hoa sen trắng, về bản chất là sự tinh khiết, trống rỗng của cuộc sống, là mối liên hệ giữa trái tim và sự hiện diện. Cả hai sẽ tạo ra một cuộc sống kết nối tuyệt vời và bền vững. 

Kinh bát nhã là gì
Bát nhã tâm kinh 7 biến

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh truyền đạt những bản chất tốt đẹp nhất của trái tim, sự liên kết giữa từ bi và trí tuệ. Trí tuệ hay Bát Nhã chỉ có thể sinh ra trong tâm an bình, trong sáng, tràn ngập lòng từ bi bắc ái.

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh chính là lời ghi nhớ ngắn gọn giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc và toàn bộ nhất về cuộc sống tâm linh của chính mỗi người. Từ thân thể đến cảm giác, suy nghĩ, ý thức, ý chí, cũng không gì ngoài tánh không.

Tánh không trong Bát Nhã Tâm Kinh

Tánh không là một học thuyết của truyền thống Đại Thừa, đây cũng là học thuyết gây tranh cãi nhiều nhất trong Phật giáo. 

Thông thường chúng ta hiểu rằng “ tánh không” có nghĩa là không có gì tồn tại. Nhưng trong Tứ Diệu Đế, Đức Phật nói rằng những đau khổ của chúng ta đều đến từ chính ý nghĩ rằng chúng ta tồn tại một cách độc lập với cái tôi nội tại. Nhận thức được triệt để bản chất nội tại này chính là ảo tưởng mà chúng ta dính mắc và bám chấp vào nó, giải phóng chúng ra khỏi đau khổ.  

Kinh bát nhã là gì
tính Không- chân lý vi diệu

Trong Bát Nhã Tâm Kinh có câu: Sắc Tức Thị Không – Không Tức Thị Sắc. Câu nói này có nghĩa là gì? Sắc ở đây được hiểu là vật chất hay hình tướng. Những gì chúng ta cảm nhận được thông qua 5 giác quan. Không có nghĩa là chơn không hay vô tướng. Chúng ta phải biết khi nào “sắc” khi nào “không” . Để có thể giải thoát khỏi khổ đau trong cuộc sống. 

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Bồ tát giải thích rằng. Tất cả các hiện tượng đều là những biểu hiện của Tánh không. Trống rỗng với những đặc tính vốn có. Bởi vì các hiện tượng không có các đặc tính vốn có. Chúng không sinh ra cũng không bị phá hủy, không tinh khiết, không ô uế, không đến hay đi.

Câu thần chú trong Bát Nhã Tâm Kinh

Nguyên văn tiếng Phạn là : “Gate Gate  Pāragate Pārasaṃgate Bodhi Svāhā”

Các nhà biên dịch ra tiếng Trung Quốc như Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang đã phiên âm câu chú này ra chữ Hán thành :

揭帝 揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝 菩提 僧莎訶 

Nếu người Trung Quốc đọc câu phiên âm này thì nghe gần giống như âm của câu tiếng Phạn. Nhưng người Việt chúng ta đọc theo âm Hán Việt thành :

Yết Đế Yết Đế Ba La Yết Đế Ba La Tăng Yết Đế Bồ Đề Tát Bà Ha 

Kinh bát nhã là gì
câu thần chú Bát Nhã Tâm Kinh

Ý nghĩa câu thần chú 

Gate: suy ra từ động từ “gam”, nghĩa là đi

– Pāragate: pāra là danh từ giống đực, có nghĩa là  sự mang qua; sự băng qua; khi giống trung, có nghĩa là bờ bên kia, sự đạt đến mức xa nhất. Cho nên pāragate là đã đi qua bờ bên kia.

– Pārasaṃgate: tiền tố “saṃ” trước động từ có nghĩa là cùng nhau hay hoàn toàn, trọn vẹn. Như thế pārasaṃgate là đã đi hoàn toàn qua bờ bên kia.

– Bodhi: danh từ giống cái, có nghĩa là sự giác ngộ. 

– svāhā (ind) là tán thán từ, nguyên là từ dùng trong lễ hiến tế lên thần linh trong nghi thức tôn giáo ở Ấn độ, có thể hiểu như tiếng reo mừng, cảm thán.

– bodhi svāhā  = Giác ngộ.

Những điều cần biết khi tụng niệm Bát Nhã Tâm Kinh từ trầm hương không phải ai cũng biết

Vòng tay trầm hương 108 hạt 

Được chế tác từ trầm hương sánh chìm cao cấp. Vòng tay được chế tác với 108 hạt trầm hương mang mùi thơm dịu nhẹ, thoang thoảng mang đến cho người đeo cảm giác an lành, tĩnh tại, thư giãn và thoải mái. Vòng tay 108 hạt là hình ảnh đại diện cho tâm linh Phật giáo. Vòng tay 108 hạt biểu trưng cho 108 pháp Tam Muội giúp diệt trừ 108 phiền não,khơi dậy lòng từ bi và trí tuệ của con người, giúp chúng sanh thoát khổ. Với ý nghĩa linh thiêng, vòng tay chính là món quà cực kỳ đặc biệt dành cho người thân và Phật tử. 

Kinh bát nhã là gì
Vòng tay 108 hạt trầm hương

Vòng tay với thiết kế trang nhã, thân thiện với người đeo, mang đến một cảm giác bình an, hoan lạc. Đeo vòng tay bên người, như được trợ niệm từ năng lực tâm linh, giải phóng con người khỏi những bế tắc, khai sáng trí tuệ và cảm xúc, mang đến sự an lạc trong cuộc sống. Vòng tay trầm hương 108 hạt cũng như lời nhắc nhở con người luôn hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, từ bi và ánh sáng trí tuệ,.

Mặt Phật Trầm Hương 

Kinh bát nhã là gì
mặt Phật trầm hương

Ngoài vòng tay trầm hương, mặt Phật trầm hương cũng là một vật phẩm phong thủy ý nghĩa. Mang đến sức mạnh tâm linh, gia tăng vận khí cho người đeo. Mặt Phật được chế tác từ Trầm hương cao cấp, có mùi thơm dịu nhẹ từ trầm. Trầm hương từ bao lâu nay đã trở thành nguyên liệu quý giá, mang đến may mắn cho người đeo, có tác dụng trừ tà ma. Mặt Phật trầm hương có rất nhiều mẫu cho bạn lựa chọn như: Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Quan Công, Phật Như Lai Đại Nhật… Mọi người có thể lựa chọn tượng phật theo bản mệnh của mình. Đây chắc chắn không thể thiếu khi muốn tụng kinh Bát Nhã.

Một số bản kinh Bát Nhã được dịch nghĩa

Bản tụng Hán Việt:

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.

Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.

Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.

Vô khổ, tập, diệt, đạo.

Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.

Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.

Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.

Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

Bản dịch nghĩa:

Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.

Này Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.

Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.

Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.

Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.

Không có khổ, tập, diệt, đạo.

Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.

Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã này thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.

Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã này mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.

Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.

Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

(Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)

Bản phổ kệ:

(Thích Nhất Hạnh)

Bồ Tát Quán Tự Tại

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã Ba La Mật

(tức Diệu Pháp Trí Độ)

Bổng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ đau ách nạn.

Nghe đây Xá Lợi Tử:

Sắc chẳng khác gì không

Không chẳng khác gì sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc

Còn lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sanh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành thức

Không có nhãn, nhĩ, tỷ

Thiệt, thân, ý (sáu căn)

Không có sắc, thanh, hương

Vị, xúc, pháp (sáu trần)

Không có mười tám giới

Từ nhãn đến ý thức

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lão tử

Cũng không hết lão tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí cũng không đắc

Vì không có sở đắc

Khi một vị Bồ Tát

Nương Diệu Pháp Trí Độ

(Bát Nhã Ba La Mật)

Thì tâm không chướng ngại

Vì tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hãi

Xa lìa mọi vọng tưởng

Xa lìa mọi điên đảo

Đạt Niết Bàn tuyệt đối

Chư Bụt trong ba đời

Y Diệu Pháp Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nên đắc vô thượng giác

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhã Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lý bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú Trí Độ

Bát Nhã Ba La Mật

Nói xong đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Yết đế, Yết đế

Ba la Yết đế

Ba la Tăng yết đế

Bồ đề tát bà ha

Phổ thơ lục bát:

Khi hành Bát Nhã Ba La

Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng

Thấy ra năm uẩn đều Không

Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua

Này Xá Lợi Tử xét ra

Không là sắc đó, sắc là không đây

Sắc cùng không chẳng khác sai

Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau

Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào,

Cũng như sắc uẩn ,một màu không không

Này Xá Lợi Tử ghi lòng

Không không tướng ấy, đều không tướng hình

Không tăng giảm, không trược thanh

Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng

Vậy nên trong cái chơn không

Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần

Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân

Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh

Từ không giới hạn mắt nhìn

Đến không ý thức, vô minh cũng đồng

Hết vô minh, cũng vẫn không

Hết già, hết chết, cũng không có gì

Không khổ, tập, diệt, đạo kia

Trí huệ chứng đắc cũng là không không

Sở thành, sở đắc bởi không

Các vị Bồ Tát nương tùng huệ năng

Tâm không còn chút ngại ngăn

Nên không còn chút băng khoăng sợ gì

Đảo điên mộng tưởng xa lìa

Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau, xưa

Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng

Trí huệ năng lực vô ngần

Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu

Trí huệ năng lực có nhiều

Thật là thần chú trừ tiêu não phiền

Trí huệ năng lực vô biên

Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn

Liền theo lời chú thuyết rằng:

Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.

Yết đế, yết đế

Ba la yết đế

Ba la tăng yết đế

Bồ đề Tát bà ha

(ST)