Ngoài chăm chỉ học tập trẻ em Việt Nam còn có bổn phận

Bên cạnh những quyền lợi cơ bản mà trẻ em được hưởng thì trẻ em cũng cần phả thực hiện đúng bổn phận của mình và không được thực hiện một số hành vi mà pháp luật quy định. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định về bổn phận của trẻ em và những việc mà trẻ em không được làm. Cụ thể như sau:

Show

I. Bổn phận của trẻ em:

1. Yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; kính trọng thầy giáo, cô giáo; lễ phép với người lớn, thương yêu em nhỏ, đoàn kết với bạn bè; giúp đỡ người già yếu, người khuyết tật, tàn tật, người gặp hoàn cảnh khó khăn theo khả năng của mình;

2. Chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, thực hiện trật tự công cộng và an toàn giao thông, giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của người khác, bảo vệ môi trường;

3. Yêu lao động, giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình;

4. Sống khiêm tốn, trung thực và có đạo đức; tôn trọng pháp luật; tuân theo nội quy của nhà trường; thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; tôn trọng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc;

5. Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đoàn kết quốc tế.

II. Những việc trẻ em không được làm

Trẻ em không được làm những việc sau đây:

1. Tự ý bỏ học, bỏ nhà sống lang thang;

2. Xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; gây rối trật tự công cộng;

3. Đánh bạc, sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ;

4. Trao đổi, sử dụng văn hoá phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy; sử dụng đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh.

Trên đây là một số chia sẻ của Luật sư, mọi yêu cầu hỗ trợ quý vị hãy liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật 0915.27.05.27 của chúng tôi. Công ty luật Nhân Hòa chuyên dịch vụ luật sư uy tín, tin cậy đảm bảo giải quyết mọi vướng mắc bạn gặp phải.

Công ty Luật Nhân Hòa

Địa chỉ: 02 Hiệp Bình, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Tp.HCM

Email:

Hotline: 0915. 27.05.27

Trân trọng!

Mục lục bài viết

  • Căn cứ pháp lý:
  • 1. Khái quát quy định của quyền trẻ em
  • 2. Quyền của trẻ em
  • 2.1. Quyền sống
  • 2.2. Quyền được khai sinh và có quốc tịch
  • 2.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe
  • 2.4. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
  • 2.5. Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu
  • 2.6. Quyền vui chơi, giải trí
  • 2.7. Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc
  • 2.8. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
  • 2.9. Quyền về tài sản
  • 2.10. Quyền bí mật đời sống riêng tư
  • 2.11. Quyền được sống chung với cha, mẹ
  • 2.12. Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ
  • 2.13. Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi
  • 2.14. Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục
  • 2.15. Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động
  • 2.16. Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc
  • 2.17. Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt
  • 2.18. Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy
  • 2.19. Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính
  • 2.20. Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang
  • 2.21. Quyền được bảo đảm an sinh xã hội
  • 2.22. Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội
  • 2.23. Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp
  • 2.24. Quyền của trẻ em khuyết tật
  • 2.25. Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn
  • 3. Khái quát về bổn phận của trẻ em
  • 4. Bổn phận của trẻ em đối với gia đình
  • 5. Bổn phận của trẻ em đối với nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác
  • 6.Bổn phận của trẻ em đối với cộng đồng, xã hội
  • 7. Bổn phận của trẻ em đối với quê hương, đất nước

Căn cứ pháp lý:

-Hiến pháp 2013;

-Bộ luật Dân sự năm 2015;

-Luật Trẻ em 2016.

1. Khái quát quy định của quyền trẻ em

Trẻ em có các quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định. Công ước quyền trẻ em với 54 điều quy định các quyền trẻ em theo bốn nhóm quyền là: quyền được sống còn, quyền được bảo vệ; quyền được phát triển và quyền được tham gia. Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận quyền trẻ em và kêu gọi các quốc gia bảo đảm quyền của trẻ em như là quyền của con người chưa phát triển về thể lực, trí tuệ và kêu gọi toàn thể nhân loại hãy bảo đảm cho tất cả trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn.

Song trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Do đó, để trẻ em làm chủ các quyền phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em thì Luật Trẻ em quy định các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, trong đó lựa chọn 24 nhóm quyền cơ bản nhất, đặc trưng nhất đối với trẻ em. Cách tiếp cận này tạo điều kiện để trẻ em dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện và tập trung vào những quyền cơ bản gắn liền với cuộc sống hàng ngày của trẻ em. Việc thực hiện đầy đủ, hợp lý các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em sẽ tạo cơ hội để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.

2. Quyền của trẻ em

2.1. Quyền sống

Quyền sống là quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại nhiều văn bản khác nhau mà cơ bản nhất là Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19). Đối với trẻ em cũng vậy, trẻ em nào sinh ra cũng có quyền sống, tính mạng của trẻ em phải được bảo vệ, không ai có quyền tước đi sinh mạng của trẻ em.

Điều 12 Luật Trẻ em quy định “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”.

2.2. Quyền được khai sinh và có quốc tịch

Điều 13 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật”.

Đây là quyền hết sức cơ bản của trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ em thực hiện các quyền khác.

- Khai sinh, khai tử: Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) quy định:

“1. Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh.

2. Cá nhân chết phải được khai tử.

3. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu”.

Thời hạn đăng ký khai sinh: Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em (khoản 1 Điều 15 Luật Hộ tịch).

Thời hạn đăng ký khai tử: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử (khoản 1 Điều 33 Luật Hộ tịch).

- Quyền có quốc tịch: Điều 31 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“1. Cá nhân có quyền có quốc tịch.

2. Việc xác định, thay đổi, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam do Luật quốc tịch Việt Nam quy định.

3. Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm theo luật”.

- Xác định cha, mẹ: Cá nhân có quyền xác định cha mẹ (khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nêu rõ:

“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”.

- Xác định dân tộc: Điều 29 Bộ luật Dân sự quy định:

“1. Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình. 2. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

3. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây:

a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;

b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.

4. Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó.

5. Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam”.

- Xác định giới tính: Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính.

2. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.

3. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan”.

2.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe

Điều 14 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh”.

Trẻ em dưới sáu tuổi được Nhà nước cấp Thẻ khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập (sau đây gọi tắt là Thẻ khám bệnh, chữa bệnh). Đây là phương án thể hiện sự tiến bộ, tính ưu việt của chế độ ta. Thực hiện phương án này thì bất kỳ trẻ em nào dưới sáu tuổi, khi bị ốm đau dù là bệnh nặng hay nhẹ đều được khám bệnh, chữa bệnh và không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.

- Trẻ em dưới sáu tuổi là trẻ em chưa đủ bảy mươi hai tháng tuổi.

- Cơ sở y tế công lập thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi gồm các cơ sở y tế thuộc Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan, đơn vị ở Trung ương và địa phương.

- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện việc cấp, thu hồi Thẻ khám bệnh, chữa bệnh.

2.4. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng

Điều 15 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện”. Trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể có, với mức sống ngày càng được nâng cao là quyền của trẻ em và mục tiêu phấn đấu chung của gia đình, Nhà nước và xã hội.

2.5. Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu

Điều 16 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh”.

Quy định này là sự khẳng định chủ trương, chính sách và việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm phát huy tốt nhất năng lực, sở trường của trẻ em ngay từ nhỏ để hướng dẫn, bồi dưỡng và đào tạo để trở thành nhân tài phục vụ đất nước.

2.6. Quyền vui chơi, giải trí

Điều 17 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi”.

Vui chơi giải trí là nhu cầu của con người, song đối với trẻ em thì được pháp luật thừa nhận là một quyền, điều này xuất phát từ đặc điểm của trẻ em và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. Quyền vui chơi giải trí lành mạnh không những là nhu cầu mà còn là điều kiện để trẻ em phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần. Thực hiện quyền vui chơi, giải trí lành mạnh của trẻ em đòi hỏi phải thay đổi quan niệm cũ coi “vui, chơi, giải trí” là hoạt động của những kẻ “vô công rồi nghề”, những trẻ “hư”, sang quan niệm mới coi vui chơi, giải trí lành mạnh là một yếu tố để trẻ em khôn lớn, phát triển tốt hơn về thể chất và tinh thần. Các quốc gia trên thế giới xác định rằng, trong thời đại văn minh trí tuệ thì mọi người, kể cả trẻ em sẽ phải làm việc nhiều hơn bằng trí óc, làm việc bằng nội lực nhiều hơn lao động chân tay, nên con người sẽ mỏi mệt hơn, căng thẳng hơn, dễ dẫn đến stress hơn thì việc vui chơi, giải trí là liều thuốc bổ tạo nên sự thoải mái về tinh thần, cân bằng về sức khỏe. Vì vậy, thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em chính là chuẩn bị tâm lý, sự năng động, sự thích nghi trong một xã hội công nghiệp với hoạt động trí óc là chủ yếu.

Vấn đề quan trọng để thực hiện quyền trẻ em về vui chơi, giải trí là việc tổ chức vui chơi, giải trí một cách khoa học, có văn hoá để mọi trẻ em đều được "chơi mà học, học mà chơi" nhằm phát triển nhân cách toàn diện. Vui chơi, giải trí gắn liền trong học tập, trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao ở mọi nơi, mọi lúc phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ em. Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của trẻ em và thực hiện quyền trẻ em được hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao là mục tiêu, biện pháp quan trọng của chiến lược con người.

2.7. Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc

Điều 18 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được tôn trọng đặc điểm và giá trị riêng của bản thân phù hợp với độ tuổi và văn hóa dân tộc; được thừa nhận các quan hệ gia đình. Trẻ em có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình”.

Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc là quyền chung của tất cả mọi người được quy định tại Hiến pháp năm 2013 “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình” (khoản 3 Điều 5). Với trẻ em, quyền này cũng được bảo đảm thực hiện.

2.8. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Điều 19 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào và phải được bảo đảm an toàn, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”.

2.9. Quyền về tài sản

Điều 20 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật”.

- Điều 75 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con”.

- Tài sản do lao động: Bộ luật lao động 2012 quy định (Điều 163, 164): Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được làm quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 1 tuần. Được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số công việc nhất định theo quy định.

Người lao động từ đủ 13 tuổi đến 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh mục được quy định. Thời giời làm việc không quá 04 giờ trong 1 ngày vào 20 giờ trong 1 tuần; không được làm ban đêm, làm thêm giờ.

Không được sử dụng người lao động chưa thành niên sản xuất và kinh doanh cồn, rượi, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác.

- Tài sản do thừa kế: Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động”.

Khoản 1 Điều 660 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phân chia di sản theo pháp luật: Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng..

Như vậy, quyền có tài sản, quyền thừa kế được các văn bản pháp luật có liên quan quy định nhằm bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó có trẻ em. Tuy nhiên, do trẻ em chưa đủ khả năng quản lý, định đoạt tài sản riêng, nên pháp luật cũng đã quy định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con dưới 15 tuổi trong việc quản lý và định đoạt tài sản riêng của con. Đồng thời, pháp luật cũng quy định nghĩa vụ đối với con từ đủ 15 tuổi trở lên còn chung sống với cha mẹ thì có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình.

2.10. Quyền bí mật đời sống riêng tư

Quyền bí mật đời tư là quyền chung của mọi người, và quyền này của trẻ em cũng được pháp luật bảo vệ.

Điều38 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định vềquyền bí mật đời tư:

“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Điều 21 Luật Trẻ em quy định:

“Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”.

2.11. Quyền được sống chung với cha, mẹ

Điều 22 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được sống chung với cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi phải cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ, gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”.

Điều 41 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định nơi cư trú của người chưa thành niên, trong đó bao gồm cả trẻ em: Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.

Theo quy định của pháp luật thì cha mẹ có nghĩa vụ và quyền sống chung với con. Như vậy, cả cha mẹ và con chưa thành niên đều có quyền sống chung, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em.

Quy định này hoàn toàn phù hợp và cụ thể hóa thêm các quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành. Theo các quy định đó thì: Quyền sống chung với cha mẹ là quyền tự nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm của mọi trẻ em, kể cả trong trường hợp trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng. Trong trường hợp cha mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ em. Về nguyên tắc, trẻ em dưới ba mươi sáu (36) tháng tuổi phải được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Người không nuôi dưỡng có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải có nghĩa vụ đóng góp nuôi dưỡng, giáo dục con.

Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ và trẻ em, trừ trường hợp người có thẩm quyền thực hiện pháp luật quyết định để bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em. Người có thẩm quyền quyết định trẻ em phải cách ly cha mẹ trong trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục đối với con chưa thành niên hoặc trường hợp cha mẹ đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì trẻ em phải sống cách ly cha mẹ.

2.12. Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ

Điều 23 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được biết cha đẻ, mẹ đẻ, trừ trường hợp ảnh hưởng đến lợi ích tốt nhất của trẻ em; được duy trì mối liên hệ hoặc tiếp xúc với cả cha và mẹ khi trẻ em, cha, mẹ cư trú ở các quốc gia khác nhau hoặc khi bị giam giữ, trục xuất; được tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất cảnh, nhập cảnh để đoàn tụ với cha, mẹ; được bảo vệ không bị đưa ra nước ngoài trái quy định của pháp luật; được cung cấp thông tin khi cha, mẹ bị mất tích”.

2.13. Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi

Điều 24 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em được chăm sóc thay thế khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi”.

2.14. Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục

Điều 25 Luật quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục”.

Xâm hại tình dục trẻ em là hành vi có chủ ý để làm hài lòng, thỏa mãn nhu cầu tình dục của một người đối với trẻ em. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội. Hành vi xâm hại tình dục trẻ em bao gồm các hành vi phạm tội (hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với trẻ em) và các hành vi khiêu dâm, quấy rối tình dục trẻ em. Nhiều quốc gia trên thế giới quy định nghiêm cấm các hành vi quấy rối tình dục trẻ em (cho trẻ em tiếp xúc với ấn phẩm có nội dung khiêu dâm, sử dụng trẻ em trong ấn phẩm khiêu dâm, có lời nói hoặc hành động kích động tình dục trẻ em).

2.15. Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động

Điều 26 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em”.

Lạm dụng lao động trẻ em là việc sử dụng trẻ tham gia vào họat động kinh tế, làm ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, sự phát triển của trẻ em, bắt trẻ em làm việc quá sớm, quá thời gian làm ảnh hưởng đến việc phát triển về thể lực, trí lực và nhân cách của trẻ em, thậm chí là bắt trẻ em phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại, những công việc trái với quy định của pháp luật, không trả công hoặc trả công tương xứng với lao động bỏ ra của trẻ em. Lạm dụng lao động trẻ em cũng có thể xảy ra ngay tại gia đình.

2.16. Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc

Điều 27 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em”.

2.17. Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt

Điều 28 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt”.

2.18. Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy

Điều 29 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.19. Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính

Điều 30 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác”.

2.20. Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang

Điều 31 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để thoát khỏi tác động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang”.

2.21. Quyền được bảo đảm an sinh xã hội

Điều 32 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam được bảo đảm an sinh xã hội theo quy định của pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nơi trẻ em sinh sống và điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em”.

2.22. Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội

Điều 33 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ em”.

2.23. Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp

Điều 34 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em; được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng”.

2.24. Quyền của trẻ em khuyết tật

Điều 35 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và hòa nhập xã hội”.

2.25. Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn

Điều 36 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, trẻ em lánh nạn, tị nạn được bảo vệ và hỗ trợ nhân đạo, được tìm kiếm cha, mẹ, gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

3. Khái quát về bổn phận của trẻ em

Trẻ em không chỉ có quyền mà còn phải có bổn phận. Việc quy định bổn phận của trẻ em trong Luật Trẻ em nhằm định hướng vào việc khuyên răn, giáo dục ý thức tự chấp hành của trẻ em. So với Luật năm 2004, Luật Trẻ em phát triển 5 nhóm bổn phận của trẻ em, chi tiết cụ thể từng bổn phận.

Các bổn phận của trẻ em đối với gia đình, nhà trường, cộng đồng, đất nước và chính bản thân các em được quy định cụ thể trong Luật Trẻ em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân của Hiến pháp năm 2013, Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng và phù hợp với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng con người Việt Nam trong bối cảnh mới.

4. Bổn phận của trẻ em đối với gia đình

- Kính trọng, lễ phép, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; yêu thương, quan tâm, chia sẻ tình cảm, nguyện vọng với cha mẹ và các thành viên trong gia đình, dòng họ.

- Học tập, rèn luyện, giữ gìn nề nếp gia đình, phụ giúp cha mẹ và các thành viên trong gia đình những công việc phù hợp với độ tuổi, giới tính và sự phát triển của trẻ em.

5. Bổn phận của trẻ em đối với nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác

- Tôn trọng giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác.

- Thương yêu, đoàn kết, chia sẻ khó khăn, tôn trọng, giúp đỡ bạn bè.

- Rèn luyện đạo đức, ý thức tự học, thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường, cơ sở giáo dục khác.

- Giữ gìn, bảo vệ tài sản và chấp hành đầy đủ nội quy, quy định của nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác.

6.Bổn phận của trẻ em đối với cộng đồng, xã hội

- Tôn trọng, lễ phép với người lớn tuổi; quan tâm, giúp đỡ người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai, trẻ nhỏ, người gặp hoàn cảnh khó khăn phù hợp với khả năng, sức khỏe, độ tuổi của mình.

- Tôn trọng quyền, danh dự, nhân phẩm của người khác; chấp hành quy định về an toàn giao thông và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ, giữ gìn, sử dụng tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường phù hợp với khả năng và độ tuổi của trẻ em.

- Phát hiện, thông tin, thông báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật.

7. Bổn phận của trẻ em đối với quê hương, đất nước

- Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tôn trọng truyền thống lịch sử dân tộc; giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của quê hương, đất nước.

- Tuân thủ và chấp hành pháp luật; đoàn kết, hợp tác, giao lưu với bạn bè, trẻ em quốc tế phù hợp với độ tuổi và từng giai đoạn phát triển của trẻ em.