Nội dung dạy học Luyện từ và câu lớp 4

Nội dung dạy học Luyện từ và câu lớp 4

Tiếng Việt là môn học góp phần đắc lực để thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam. Việc dạy học Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học nhằm mục đích “ Tạo cho học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt nhà trường rèn luyện cho các em có năng lực tư duy, giáo dục các em có những tư tưởng tình cảm lành mạnh, trong sáng”. Từ đó các em biết yêu thiên nhiên và con người Việt Nam

 Môn Tiếng Việt dạy ở tr¬¬ường tiểu học đ¬¬ược chia thành nhiều phân môn như: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn, mỗi phân môn đều có một mục đích và nhiệm vụ riêng của nó song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh. Riêng phân môn Luyện từ và câu có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học Tiếng Việt. Đây là một phân môn mang tính chất thực hành. Việc dạy Luyện từ và câu ở bậc tiểu học có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu lớp 4, từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về các bài tập Luyện từ và câu ở lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy

Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.

Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

PHỤ LỤC Trang 1. MỞ ĐẦU 1 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 2 2.1. Cơ sở lí luận. 2 2.2. Cơ sở thực tiễn. 3 2.3. Tiến trình nghiên cứu. 3 2.4. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến 3 2.5. Các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu 5 2.6. Kết quả nghiên cứu đạt được. 15 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 17 3.1. Bài học kinh nghiệm. 17 3.2. Kiến nghị đề xuất 17 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Tiếng Việt là môn học góp phần đắc lực để thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam. Việc dạy học Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học nhằm mục đích “ Tạo cho học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt nhà trường rèn luyện cho các em có năng lực tư duy, giáo dục các em có những tư tưởng tình cảm lành mạnh, trong sáng”. Từ đó các em biết yêu thiên nhiên và con người Việt Nam Môn Tiếng Việt dạy ở trường tiểu học được chia thành nhiều phân môn như: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn, mỗi phân môn đều có một mục đích và nhiệm vụ riêng của nó song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh. Riêng phân môn Luyện từ và câu có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học Tiếng Việt. Đây là một phân môn mang tính chất thực hành. Việc dạy Luyện từ và câu ở bậc tiểu học có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu lớp 4, từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về các bài tập Luyện từ và câu ở lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”. 1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Tìm hiểu tình hình học phân môn Luyện từ và câu, thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh và giáo viên dạy khối lớp 4. 1.3. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học hỏi tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận . 2. Phương pháp phân tích tổng hợp. 3. Phương pháp điều tra. 4. Phương pháp thực nghiệm 5. Phương pháp đàm thoại. 6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 2.1. Cơ sở lí luận. Môn Tiếng Việt trong chương trình bậc tiểu học nhằm hình thành và phát triển giúp học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn tiếng việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt phân môn luyện từ và câu có một nhiệm vụ cung cấp nhiều kiến thức sơ giản và rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu (nói - viết) kỹ năng đọc cho học sinh. Cụ thể là: 1-Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. 2- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu 3-Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng nói và viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ỏ Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh. Luyện từ và câu là một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4. 2.2. Cơ sở thực tiễn. Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải cách đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. 2.3. Tiến trình nghiên cứu. - Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và hiểu tình trạng giải quyết làm các bài tập Luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4. - Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn. - Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê. 2.4. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến 2.4.1. Đối với chương trình sách giáo khoa. Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành. 2.4.2. Đối với giáo viên. Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau: - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn. - Giáo viên ít có thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. - Giáo viên hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. - Giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong quá trình dạy học, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. 2.4.3. Đối với học sinh. Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn. Tôi đã tiến hành dự giờ và khảo sát học sinh: Kết quả dự giờ 4 tiết của 2 giáo viên dạy lớp: - Đạt giờ Giỏi: Không - Đạt giờ Khá: 01 tiết - Đạt giờ TB: 03 tiết - Không đạt yêu cầu: Không Kết quả khảo sát học sinh: Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau. “Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Qua khảo sát học sinh, kết quả khảo sát như sau: Lớp Sĩ số Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 4A 31 3 10% 5 16% 12 39% 11 35% 4B 30 2 7% 5 17% 10 33% 13 43% Tổng 61 5 8% 10 16% 22 36% 24 40% Điều đáng nói ở đây là có tới 24 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá trình làm bài học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ. Qua dự giờ và khảo sát chất lượng tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía; Người dạy và người học. Do vậy rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. 2.4.4. Sơ lược một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình. + Phân tích cấu tạo của tiếng. + Tìm các từ ngữ nói về chủ đề. + Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao. + Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp. + Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được + Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó. + Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn. + Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó. + Viết thêm trạng ngữ cho câu... 2.5. Các biện pháp nghiên cứu, áp dụng phương pháp tổ chức dạy một số dạng bài tập Luyện từ và câu 2.5.1. Phương pháp nghiên cứu. Với đặc trưng của phân môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết phải hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước sau. 1. Đọc thật kỹ đề bài. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm. 2. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 3. Kiểm tra đánh giá. Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh. Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh. Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm nội dung các chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp. - Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được: Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm, các yếu tố hán việt; rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm ; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ. - Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ từng học sinh được tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được: Để tạo từ phức. 1. Các tiếng có nghĩa ghép lại với nhau tạo ra nghĩa mới. 2. Những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ láy. - Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ gắn với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý: + Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho. + Thêm vào các từ chỉ mức độ (rất, hay, quá, lắm) vào trước hoặc sau tính từ. + Có sự so sánh. Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp. Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện: 1. Yêu cầu, mong muốn... 2. Sự khẳng định, phủ định 3. Thái độ khen, chê. - Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự. Câu hỏi: Cần xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi. 2. Tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Câu khiến: 1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự 2. Muốn cho lời yêu cầu, đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp... 3. Có thể dùng câu hỏi để nêu yêu cầu đề nghị. 2.5.2. Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh làm một số dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Các kĩ năng trong phân môn “Luyện từ và câu” được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ. Ví dụ: Tìm các từ ngữ: - Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại. - Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương. - Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại. - Trái nghĩa với đùm bọc hoặc giúp đỡ. Ngoài việc sử dụng hướng dẫn mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp. Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ... Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng. Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập. b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ - dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy. Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây. - Ngoan - Tươi - Tốt Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh học, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật). Từ Từ láy Từ ghép Ngoan Ngoan ngoãn Ngoan hiền, ... Xinh Xinh xinh Xinh tươi, xinh đẹp... Tốt Tôn tốt Tốt đẹp, tốt nết... Cùng yêu cầu của bài đã cho, học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân. * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép: Giáo viên chốt: Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và vần giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ: + Từ ghép: Trời mưa, quần áo, nhà cửa... + Từ láy: Loang loáng, cần cù, ngoan ngoãn... c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ. Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh. Ví dụ1: Viết các khu di tích lịch sử mà em biết, gắn với nhân vật lịch sử và xác định là danh từ chung hay danh từ riêng? Vì sao? Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên địa danh và tên nhân vật lịch sử. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng. Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung. Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Để học sinh áp dụng vào bài của mình. Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau: Vua Mi-đát thử bẻ một cành sồi, cành đó liền biến thành vàng. Vua ngắt một quả táo, quả táo cũng thành vàng nốt. Tưởng không có ai trên đời sung sướng hơn thế nữa. Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp. Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong các câu sau: - Tờ giấy này rất trắng. - Tờ giấy nầy trắng hơn. - Tờ giấy này trắng nhất. Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh ; các em đã hiểu. Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của các từ gạch chân cụ thể : Tờ giấy trắng như thế nào ? (rất trắng, trắng hơn, trắng nhất ) Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não): rất trắng. trắng hơn. trắng nhất. Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này. d. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu. Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu. 1. Câu kể. Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để: a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về. b) Tả chiếc bút em đang dùng. c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn. d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt. Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm... Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung. Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui... Giáo viên hướng dẫn mẫu: + Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật + Bày tỏ ý kiến - yêu mến, gắn bó như thế nào? + Nói lên niềm vui - vui sướng như thế nào khi được điểm tốt. Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào? a) Cho mượn cái bút! b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút! c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không? Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp. Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu lịch sự. 2. Câu hỏi: Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể: Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao? Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu. - Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi nổi: - Chắc là cụ bị ốm? - Hay là cụ đánh mất cái gì? - Chúng mình thử hỏi xem đi? Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không? Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải