Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

         Văn học có rất nhiều dạng đề, sẽ không quá khó khăn nếu như học sinh biết cách làm bài phù hợp với từng đề bài khác nhau. Ở bài văn so sánh hai tác phẩm văn học, hai nhân vật trong hai tác phẩm đòi hỏi người đọc không chỉ hiểu về tác phẩm mà còn phải hiểu rõ bản chất, rút ra những điểm đặc biệt để có thể đối chiếu với nhau. Bài so sánh mẫu dưới đây sẽ là một ví dụ minh họa hữu ích.

So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

         “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lự mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). Vâng, văn học không phải là thế giới nghệ thuật cao siêu, chỉ luôn đi tìm đến những cái đẹp, những điều hay lẽ phải ở đời mà nó chính là tấm gương phản chiếu một cách chân thực nhất về xã hội, con người. Hơn thế văn học sẽ là nguồn suối mát tươi, trong xanh mà người nghệ sĩ có những cách nhìn nhận, chiêm nghiệm riêng và người tiếp nhận cũng thế. Cùng đi sâu khai thác đề tài người phụ nữ nhưng ở Tô Hoài và Kim Lân cho ra hai thi phẩm với hai giá trị khác nhau, hướng nhìn riêng tạo nên sự độc đáo trong phong cách của họ. Hai nhân vật tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong hai tác phẩm trên là Mị và người vợ nhặt.

         Bước đến với Vợ Chồng A Phủ, nhân vật Mị xuất hiện là một cô gái xinh đẹp người Mèo. Tuy nhiên vì món nợ của bố mẹ với thống li Pá Tra mà Mị phải làm trọn nghĩa nên đành chấp nhận sự ép buộc làm con dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ. Những ngày bước chân vào ngôi nhà của Thống Lí cũng chính là sự mở đầu cho cuộc sống đầy tủi nhục, đau đớn tột cùng Mị phải chịu cả về thể xác lẫn tâm hồn. Sự hành hạ đó tàn nhẫn đến mức Mị trở thành một người vô cảm, tê liệt ý thức, xúc cảm.

          Năm ấy mùa xuân đến sớm với Hồng Ngài, trăm hoa đua sắc, vạn vật sinh sôi tràn đầy, không khí bên ngoài nhộn nhịp, bừng lên sức sống mới. Giữa muôn vàn thanh âm, sắc màu náo nức của mùa xuân nổi lên tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết – phong tục hằng năm của người miền núi Tây Bắc. Mị lúc này ngồi lắng nghe trong tâm trạng bồi hồi, rạo rực, bắt đầu giao tiếp với bên ngoài. Như vậy, tiếng sáo đã giúp Mị hồi sinh tâm hồn nghệ sĩ, Mị hết tê dại mà có lại ý thức lí trí. Mị tìm đến rượu rồi chìm vào hồi tưởng, sống về những ngày trước. Rồi Mị nghĩ về hiện tại, so sánh với quá khứ tươi đẹp mới thấy nó tương phản gay gắt, Mị càng uất ức cho cảnh ngục tù. Mị dần thấm say, đay nghiến: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Mị phẫn uất, chối bỏ sự sống.” Men rượu tác động sinh lí rồi chuyển biến sang tâm lí, cảm xúc thay đổi, Mị lại thấy phơi phới trở lại “Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Mị vào buồng, quấn lại tóc, lấy váy hoa chuẩn bị đi chơi, thắp sáng đèn như xua đi sự tối tăm của ngục tù. Thế nhưng, A Sử về đúng lúc liền trói Mị vào cột, Mị đau đớn tột cùng, tụi nhục, sức sống tươi trẻ mới trỗi dậy bị dập tắt phũ phàng. Sau đêm tình mùa xuân đó Mị trở lại kiếp trâu ngựa, rơi dần vào vô thức.

        Mùa đông đến, Mị nhìn thấy A Phủ - một kẻ tôi tớ bị trói, bỏ đói vì chăn bò để mất nhưng Mị không chút cảm xúc. Nhưng rồi, nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống gò má của A Phủ, Mị nhớ lại năm trước của mình cũng nghẹn ngào như thế. Mị nhận thấy giọt nước mắt tủi nhục của cả hai số phận, làm lay động trái tim Mị trở lại. Và Mị quyết định cứu A Phủ và cùng hắn bỏ trốn, thoát khỏi cảnh tù đày, đau khổ.

         Nếu như Mị chịu thân phận nô lệ đau đớn đến mức tê liệt cảm xúc thì đến với người vợ nhặt là một bối cảnh khác diễn ra. Người vợ nhặt là một kẻ vô gia cư, bị nạn đói đánh bật ra khỏi quê nhà, phiêu bạt đến xứ người bơ vơ. “Thân hình cô ta gầy sọp, hai con mắt trũng hoáy, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách tả tơi như tổ đĩa”. Người vợ nhặt và Tràng gặp nhau trong một lần anh đẩy xe thóc lên tỉnh, người đàn bà này xuất hiện với bộ dạng rác rưới, hành vi lỗ mãng, sỗ sàng mắng Tràng vì đã quên lời hứa với cô ta. Dù chỉ có bốn bát bánh đúc và câu đùa vui mà cô ta chấp nhận theo Tràng về làm vợ không điều kiện, cái đói biến con người thành cỏ rác. Nhưng đằng sau đó thì khát khao được sống, tự do vẫn là động cơ lớn hơn. Khi trở về nhà cùng Tràng, cô ta có chút e ngại xấu hổ khi bị đám con nít trong làng chọc mới thấy cô ý thức được danh dự, lòng tự trọng của mình. Khi cụ Tứ trở về nhà ngồi lặng thinh, không đáp khiến cô sợ, đúng cúi mặt, một hành động ý thức về nhân cách, lòng tự trọng. Sau khi được cụ Tứ chấp nhận cô vẫn đứng khép nép, e thẹn, toát ra ngoan hiền của một người con dâu. Sáng hôm sau, cô ta cùng mẹ chồng dậy sớm dọn dẹp nhà cửa, ăn sáng. Dù ăn bát cháo cám đắng ngắt nhưng cô vẫn cố giấu đi nỗi thất vọng vào trong để gia đình vui vẻ. Rồi người vợ nhặt tiếp tục truyền tin vui cho Tràng về việc không chịu nộp thuế, cùng hi vọng vào cách mạng, ánh sáng tương lai.

          Tô Hoài và Kim Lân là hai nhà văn chọn khai thác về người phụ nữ nên khi ghép hai tác phẩm lại ta sẽ thấy những điểm tương đồng của họ. Đầu tiên, Mị và người vợ nhặt đều là hai nhân vật tiêu biểu, điển hình cho số phận của người phụ nữ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Ở Mị là trong hoàn cảnh phụ nữ ở miền núi cao Tây Bắc, thị lại tiêu biểu cho người phụ nữ trong nạn đói 1945. Ở hai nhân vật này đều bị đầy vào bước đường cùng. Mị vì làm tròn chữ hiếu cho mẹ cha đành chấp nhận làm dâu nhà thống Lí Pá Tra để trả nợ, bỏ lại đằng sau tuổi trử, hạnh phúc, tự do đi vào cảnh tù đày, không khác gì trâu ngựa. Thị, vì sự đói khát đeo bám, cận kề cái chết khiến cô người không ra người, quần áo rách rưới như tổ đĩa, sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng chỉ với vài bát bánh đúc. Ngoài những nét đáng thương thì hai người phụ nữ này vẫn hiện lên khát khao hạnh phúc, lòng ham sống, tự do. Mị tưởng chừng như mất hết cảm xúc trước thế giới bên ngoài thì tiếng sáo đã đánh thức lòng vui tươi, yêu đời của cô, thể hiện rõ qua đêm tình mùa xuân. Rồi đêm đông đến, Mị vùng lên đấu tranh sự sống cho bản thân, cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ, giải thoát cuộc đời của chính mình. Đến với người vợ nhặt, có thể thấy cô không nghĩ suy khi về cùng Tràng nhưng các tình tiết sau đó gợi lên một chút ít hy vọng, sự trông chờ một điều gì đó ở tương lai của Thị. Và Thị bắt đầu làm một người con dâu hiền, vợ thảo, có trách nhiệm, suy nghĩ vun vén cho hạnh phúc gia đình. Chính tình thương và những khao khát nhân bản đã cảm hóa, làm nên điều kì diệu. Rồi sự tin tưởng vào Cách Mạng, hi vọng ở một tương lai tươi sáng cũng là điểm tương đồng ở hai nhân vật, Mị rời khỏi nhà thống Lí trở thành du kích, Thị nhìn vào lá cờ đỏ, vững tin một ngày mai ấm hơn, sáng lạng hơn.

          Phong cách của nhà văn được làm nên ở những điểm khác biệt trong tác phẩm của họ. Ở nhân vật Mị được Tô Hoài xây dựng là một nhân vật nữ chính có cuộc đời áp bức nhưng ở Kim Lân thì người vợ nhặt thậm chí không có tên, hiện thân của nạn đói. Hoàn cảnh của Mị vì gia đình lao động nghèo, sống dưới ách thống trị của bọn chúa phong kiến, ngược lại Thị vì nạn đói dồn đến đường cùng, nhân phẩm trở nên rẻ rúng. Ngoài ra, cách xây dựng nhân vật ở hai nhà văn cũng có nét đặc sắc riêng, Mị được Tô Hoài đặt trong những nét diễn biến tâm lí nội tâm tinh tế, phức tạp. Còn Thị phản ánh qua việc khắc họa ngoại hình và hành động.

         Như vậy, cả hai nhân vật Mị và người vợ nhặt cũng như hai tác phẩm đã mang đến một thi phẩm hay phản ánh rõ nét, sâu sắc về người phụ nữ, về hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Điều đặc biệt nhờ đó mà người đọc thêm yêu quý tâm hồn người phụ nữ Việt Nam trong thời kì gian khó của đất nước. Phong cách nhà văn từ đó được xây dựng nên rõ nét.

Khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở chúng ta sẽ thấy được bên cạnh những truyện ngắn có giá trị viết về đề tài chiến tranh và chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn có những truyện ngắn viết về số phận người lao động, đặc biệt là số phận người phụ nữ với những khám phá mới mẻ về khát vọng sống và tâm hồn của họ. Tiêu biểu là Chí Phèo và của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Hãy cùng DINHNGHIA.VN so sánh nhân vật Mị và Thị Nở để có cái nhìn về hai nhân vật đại diện cho người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ.

Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao và Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945-1975, song hành cùng với thơ, truyện ngắn cũng là một thể loại mang lại nhiều thành tựu nổi bật. Nhiều chủ đề được nhà văn khai thác cụ thể như: Người lính, tình cảm gia đình, người nông dân…

Nhưng có thể nói, hình tượng người phụ nữ Việt Nam như một sợi chỉ đỏ, xuyên suốt nền văn học nước nhà với đa dạng khía cạnh, góc nhìn khác nhau từ mỗi nhà văn. Khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở sẽ mở ra cho chúng ta thấy những khía cạnh chân thực và rõ nét cuộc sống của những người phụ nữ xưa.

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

Tác phẩm Chí Phèo

Chí Phèo là tác phẩm tiêu biểu về đề tài người nông dân nghèo trong sáng tác của Nam Cao. Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo là một con người sinh ra không được ông trời ban cho nhan sắc, vậy mà chuyện tình duyên cũng không được trọn vẹn. Thị Nở muốn được chung sống với Chí Phèo, muốn chăm sóc cho Chí nhưng đáng tiếc thay đó chỉ là những ước mơ xa vời.

Làng xóm chê cười, bà cô ngăn cấm, dường như hạnh phúc chẳng thể mỉm cười với Thị Nở. Cuộc đời người phụ nữ thật bất công, chịu nhiều cay đắng, tủi nhục, nhưng ở họ luôn sáng ngời vẻ đẹp nhân phẩm.

Họ chính là đại diện tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam có cuộc đời bất hạnh. Khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở bước đầu từ việc phân tích Mị sẽ giúp người đọc thấy được cuộc sống tủi nhục cơ cực của người nông dân xưa

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Đến giai đoạn 1945-1975, hình tượng người phụ nữ đã đứng lên, vượt lên số phận, nghịch cảnh để làm chủ cuộc đời mình. Với vợ chồng A Phủ, ta bắt gặp hình ảnh Mị- một người phụ nữ dân tộc Mèo có số phận bất hạnh nhưng có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Đó là người phụ nữ lao động có cuộc đời cực khổ, nhưng dưới góc nhìn sự vật, hiện tượng theo chiều hướng đi lên, nhà văn đã phát hiện và khám phá những vẻ đẹp khuất lấp ấy của họ.

Khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở, ta sẽ thấy được cái nhìn nhân đạo của người nghệ sĩ khi họ đã khóc thương cho thân phận nhỏ bé của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời làm nổi bật những phẩm chất đáng quý của họ.

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

So sánh nhân vật Mị và Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ

Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)

Mị vốn là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung và có tài thổi sáo. Đây là dấu hiệu của một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng mạn,biểu hiện một sức sống trẻ trung, rạo rực.Mị đã từng được yêu và cô cũng đã từng yêu. Trái tim giàu khao khát của cô đã từng rung động trước tiếng gọi của tình yêu, hồi hộp trước những âm thanh tiếng sáo mời gọi bạn tình.

Lẽ ra một người con gái sơn cước xinh đẹp như Mị phải có một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng bất hạnh lại ập đến với nàng khi phải làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Bá Tra. Đó là cái cảnh ngộ làm dâu trên danh nghĩa còn thực tế Mị chẳng khác gì một kẻ ăn người ở trong nhà, thậm chí nàng còn không bằng con trâu con ngựa.

Mị mới ngày nào còn là cô gái tươi tắn, xinh xắn giờ đã biến thành một cái xác không hồn, dần dần Mị trở nên chai sạn và cạn kiệt sức sống “lùi lũi như một con ùa nuôi xó cửa”.

Nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao)

Miêu tả Thị Nở như sự trêu đùa trớ trêu của tạo hóa: xấu, nghèo, dở hơi và dòng giống mả hủi. Chỉ với vài dòng miêu tả ngắn gọn và gọng văn lạnh tanh của Nam Cao, Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ xấu xí, nhưng đâu đó trong tâm hồn Thị, Thị vẫn khao khát và mưu cầu hạnh phúc như bao người.  

Thị Nở là một cô gái nghèo, cái nghèo đeo bám khiến thị chẳng dám nghĩ đến việc tìm kiếm hạnh phúc cho đời mình. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại hình xấu “ma quê quỷ hờn”. Vì nghèo, Thị phải đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Phải chẳng vì nghèo, vì xấu xí như Chí Phèo, nên họ đã đồng cảm số phận và đến với nhau không?

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

Điểm giống và khác nhau của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) và Thị Nở (Chí Phèo)

Điểm giống nhau giữa Mị và Thị Nở

Khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở, chúng ta sẽ phát hiện những điểm chung của cả hai nhân vật này. Điểm chung đầu tiên đó là cả hai nhân vật đều có vẻ đẹp tâm hồn và sức sống mạnh liệt.

Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Nam Cao đã thành công khi phát hiện ra bên trong tâm hồn Mị vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng. Và trong tác phẩm của mình, nhà văn đã miêu tả thành công sự trỗi dậy mạnh mẽ sức sống tiềm tàng ấy bằng một quá trình phát triển tâm lý, hành động khá sâu sắc và hợp lý.

Ngay khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý, hàng tháng đêm nào Mị cũng khóc. Mị cầm nắm lá ngón về nhà lạy chào vĩnh biệt cha. Cô định tự tử vì ý thức được sự tủi nhục của bản thân mình.

Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy là biểu hiện của một lòng ham sống mãnh liệt nơi Mị. Vì Mị không muốn tiếp tục kiếp sống nhục nhã, sống mà hơn chết ở nhà thống lý Bá Tra. Người đọc khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở, sẽ thấy hình ảnh Mị trong những khoảnh khắc này chính là sự tột cùng của đau khổ và tủi hờn…

Sức sống mãnh liệt còn thể hiện ở đêm mùa đông cứu A Phủ. Khi ý thức được bản thân mình và nhận ra bộ mặt xảo trá của nhà thống lý, nàng đã quyết định đứng dậy cắt dây trói cứu A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động tuy bộc phát nhưng thật quyết liệt đó là kết quả tất yếu của quá trình bị dồn nén vào đường cùng, phải tự cứu người và cứu mình.

Thị Nở là một người phụ nữ tuy xấu xí nhưng lại có những phẩm chất rất đáng trân trọng. Đằng sau hình hài xấu xí của Thị Nở là những ước mơ hạnh phúc gia đình hay chính hạnh phúc đã làm thay đổi Thị từ một phụ nữ ngẩn ngơ để giờ đây Thị biết ngượng ngùng khi nghĩ về hai từ “vợ chồng”. Rõ ràng đây là một con người hoàn chỉnh cho dù tạo hóa thật bất công khi không cho Thị những tài sản mà lẽ ra người con gái phải có.

Qua cái nhìn nhân đạo của nhà văn, chúng ta không chỉ đồng cảm mà còn rất trân trọng Thị Nở, trân trọng Mị với những nét đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Cũng như nhiều nhân vật phụ nữ xưa khi bước vào văn học thi ca, so sánh nhân vật Mị và Thị Nở chính là câu trả lời điển hình nhất về số phận của họ trong xã hội cũ.

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

Điểm khác nhau giữa Mị và Thị Nở

Để tạo nên sự riêng biệt của mỗi nhân vật, nhà văn phải có những khám phá rất riêng về nhân vật của mình. Vậy nên để nhìn thấy những nét riêng ấy, chúng ta phải so sánh nhân vật Mị và Thị Nở ở nhiều phương diện. Đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt ấy.

Nhân vật Mị có một cái kết tốt đẹp hơn so với Thị Nở vì Mị ý thức được ánh sáng Cách Mạng. Ở kết truyện, Mị rời khỏi Hồng Ngài được giác ngộ CM, trở thành du kích. Mị tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, nơi có ngọn cờ Cách Mạng soi chiếu và cuộc đời của Mị, A Phủ sẽ sang một trang mới.

Còn với Thị, dù sống ở một xã hội phong kiến với những định kiến lạc hậu, Thị phải chấp nhận sống và không thể thay đổi được số phận của mình. Mị dám vùng dậy đứng lên đòi lại quyền sống cho bản thân, nhưng Thị thì không. Ở kết truyện, Nam Cao miêu tả Thị đang đứng ở lò gạch cũ và nhìn xuống bụng của mình. Phải chăng sẽ có những Chí Phèo con ra đời? Phải chăng cuộc sống Thị sẽ lại tiếp tục lầm lũi và cô độc tới già?

Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt ở hai nhân vật đó là do hoàn cảnh sáng tác và phong cách của mỗi nhà văn. Đây chính là lý do tạo nên sự khác biệt và những nét riêng cho nhân vật của mình. So sánh nhân vật Mị và Thị Nở, ta thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở thấu hiểu, cảm thông mà ngòi bút của họ còn bênh vực cho người nông dân, đấu tranh với tầng lớp thống trị phong kiến và các hủ tục xã hội.

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo

Giá trị nhân đạo

Khi so sánh nhân vật Thị Nở và Mị, ta không chỉ thấy những phẩm chất đáng quý của hai nhân vật mà thông qua đó, ta còn hiểu được những giá trị nhân văn tác giả gửi gắm trong tác phẩm của mình, đặc biệt là giá trị nhân đạo.
Qua nhân vật Thị Nở và Mị, tác giả thể hiện tình cảm yêu thương chân thành của mìnhđối với con người, đặc biệt là những người phụ nữ có số phận bất hạnh. Ngòi bút nhân đạo của mỗi nhà thơ đã khơi sâu vào nỗi đau bi kịch của con người Không chỉ dựng lại ở sự thấu hiểu mà ngòi bút nhân đạo của mỗi nhà văn còn bênh vực cho người nông dân, đấu tranh với tầng lớp thống trị phong kiến và các hũ tục xã hội.

Giá trị hiện thực

Ở hai tác phẩm đều có giá trị hiện thực khi phản ánh chân thực xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, phản ánh số phận của những con người bị áp bức, bất công như Thị Nở và Mị. Đồng thời, mỗi tác phẩm đều tái hiện rõ nét bức tranh xã hội thời đó với những phong tục tập quán của miền núi, miền xuôi.

Qua việc miêu tả chân thực và rõ nét số phận khổ đau của các nhân vật phụ nữ và phát hiện ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ, các tác giả đã đề cập đến các vấn đè hết sức quan trọng và có ý nghĩa muôn đời của văn học. Hy vọng qua bài so sánh nhân vật Mị và Thị Nở của DINHNGHIA.VN, các bạn đã hiểu hơn về những vấn đề mà tác giả đã gửi gắm qua nhân vật của mình. Nếu có ý kiến hay đóng góp gì cho bài viết so sánh nhân vật Mị và Thị Nở, mời các bạn để lại nhận xét để chúng mình thảo luận thêm nhé!

Xem thêm >>> So sánh nhân vật Tnú và Việt trong Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình

Xem thêm >>> So sánh nhân vật Tràng và A Phủ trong Vợ Nhặt và Vợ chồng A Phủ

Xem thêm >>> Phân tích hình tượng người lính oai hùng trong Tây Tiến của Quang Dũng

Please follow and like us:

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị

Phân tích so sánh nhân vật mị và thị