Sự chuẩn bị cho cách mạng Tháng 8

Sự chuẩn bị chu đáo của Đảng ta cho Cách mạng tháng Tám 1945

Đăng lúc: 13:18:40 16/08/2018 (GMT+7)69736 lượt xem

Th.S Lê Na
Khoa Xây dựng Đảng

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy: Nếu chỉ có lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc không thôi thì chưa thể đánh thắng được kẻ thù xâm lược, giành lại nền độc lập chodân tộc. Điều đó đã được chứng minh bằng thất bại của các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40- 43), Bà Triệu (428)…chống quân xâm lược phương Bắc. Để đánh thắng được những kẻ thù xâm lược lớn mạnh thì ngoài sức mạnh tinh thần cần phải có sức mạnh vật chất của quần chúng nhân dân và sự chuẩn bị chu đáo của lực lượng lãnh đạo. Nếu kết hợp được sức mạnh của cả 3 yếu tố đó thì mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh bại được bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Thắng lợi của quân và dân nhà Trần trong 3 lần kháng chiến chống quân Mông- Nguyên ở thế kỷ XIII, khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng quân Minh ở thế kỷ XV và cuộc đánh đuổi quân Thanh và quân Xiêm của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ ở thế kỷ XVIII… là những minh chứng hùng hồn cho luận điểm đó.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hầu hết các nước Châu Á, Phi, Mỹ La tinh đều nằm dưới sự thống trị và bóc lột của các nước đế quốc chủ nghĩa. Kể từ khi Pháp tiến hành xâm lược nước ta (1858) đã có rất nhiều phong trào đấu tranh yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản nổ ra nhưng đều thất bại bởi vì các phong trào đó đều không có sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, không tập hợp được lực lượng để có thể phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Từ kinh nghiệm lịch sử ấy nên ngay từ khi mới ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất chú trọng đến sự chuẩn bị chu đáo về đường lối và các nhân tố quan trọng cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 được thể hiện bằng sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, bền bỉ và khoa học của Đảng ta trong suốt tiến trình khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng.

Nói đến sự chuẩn bị về các yếu tố cơ bản của Đảng cho Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự chuẩn bị về những vấn đề gì? Ngay trong ngày đầu lãnh đạo phong trào Cách mạng, Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định rằng nếu chỉ đấu tranh chính trị không thôi thì không thể giành được chính quyền từ tay kẻ thù mà phải kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Vì thế, Đảng đã chuẩn bị về chủ trương, đường lối; xây dựng lực lượng chính trị; củng cố các căn cứ địa cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để có thể đương đầu với kẻ thù. Cách mạng tháng Tám diễn ra và thắng lợi chỉ trong khoảng 2 tuần lễ, vậy mà Đảng ta đã mất 15 năm để chuẩn bị cho chiến thắng đó. Sự chuẩn bị chu đáo của Đảng ta cho cách mạng tháng Tám là sự chuẩn bị về 5 vấn đề chính sau:

1. Quá trình chuẩn bị về chủ trương, đường lối

Ngay từ ngày đầu mới thành lập Đảng đã nêu chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và quan điểm này đã thể hiện được sức mạnh của nó ngay ở cao trào cách mạng 1930- 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh.

Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, căn cứ vào sự thay đổi tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Sự chuyển hướng được thể hiện đầy đủ qua Hội nghị TƯ 6 (11/1939), Hội nghị TƯ 7 (11/1940), Hội nghị TƯ 8 (5/1941) với nội dung cốt lõi đó là:

Đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của nhân dân Đông Dương, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn Việt gian phản động, chia lại đất công, giảm tô, đặt vấn đề khởi nghĩa vũ trang, xúc tiến chuẩn bị mọi mặt để tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang khi có điều kiện là nhiệm vụ trọng tâm; tập hợp mọi lực lượng tiêu biểu để thành lập mặt trận chung lấy tên là: “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương” (tháng 11/1939) sau là Việt Nam độc lập Đồng Minh (tháng 5/1941); phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh dưới những hình thức phù hợp với tình hình mới; Cách mạng Việt Nam phải đoàn kết và quan hệ mật thiết với Cách mạng thế giới. Chủ trương chỉ đạo chiến lược Cách mạng của Đảng qua các Hội nghị 6, 7, 8 là kim chỉ nam cho mọi hoạt động và có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của Cách mạng tháng Tám.

2. Quá trình xây dựng lực lượng chính trị

Lực lượng chính trị quần chúng đóng một vai trò rất quan trọng cho sự thành công của cách mạng tháng Tám. Để xây dựng lực lượng chính trị quần chúng ngày càng đông đảo, mạnh mẽ thì cần phải có một đội ngũ cán bộ trung kiên, có lý luận nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo để liên kết các phong trào đấu tranh. Đây là những hạt giống đầu tiên tạo nên một hệ thống tổ chức cơ sở Đảng ở khắp các địa phương trên cả nước. Chính vì thế, trong mọi giai đoạn, Đảng ta luôn chú trọng đến công tác cán bộ để xây dựng lực lượng chính trị quần chúng vững mạnh.

Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng xây dựng lực lượng chính trị. Rất nhiều những thanh niên ưu tú được đưa đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế cộng sản. Nhiều người sau này nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng như đồng chí Trần Phú, Trường Chinh... Họ có nhiệm vụ rất quan trọng là truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào trong nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân.

Trong thời kỳ 1930-1931, Đảng tập trung xây dựng khối liên minh công- nông. Lực lượng này ngày càng đông đảo và có đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng làm xuất hiện các Xô viết ở Nghệ Tĩnh. Do còn có những hạn chế nhất định cho nên trong thời kỳ này ta chưa liên kết được khối liên minh công- nông với các tầng lớp khác trong xã hội như: tiểu thương, địa chủ, tiểu tư sản…Tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng Xôviết Nghệ- Tĩnh đã thể hiện sức mạnh của khối liên minh công - nông, giúp cho nhân dân hiểu được mô hình nhà nước tiên tiến trong tương lai, động viên họ tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giành chính quyền.

Ở giai đoạn 1932-1935, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng Đảng ta vẫn kiên trì giữ vững đường lối cách mạng. Trong nhà tù, các chiến sĩ cộng sản vẫn tiếp tục đấu tranh, khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Nhà tù trở thành trường học, nơi để rèn luyện thử thách cán bộ đảng. Bên ngoài nhà tù, các đảng viên vẫn tích cực tuyên truyền vận động nhân dân ủng hộ cách mạng nhằm phát triển, khôi phục lực lượng và phong trào cách mạng.

Đến những năm 1936 - 1939, cuộc vận động dân chủ diễn ra mạnh mẽ. Đảng ra hoạt động công khai nên đã tập hợp được rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, giai cấp ở mọi miền Tổ quốc. Phong trào cách mạng diễn ra rộng khắp, dưới nhiều hình thức như: bãi công, biểu tình, bãi thị, bãi khoá… Tiêu biểu như cuộc bãi công của công nhân công ty than Hòn Gai, xe lửa Trường Thi (7- 1937)... và đặc biệt là cuộc mít tinh của hơn 2 vạn người tại nhà Đấu Xảo - Hà Nội.

Năm 1941, để có lực lượng chính trị quần chúng hùng mạnh đủ sức chiến thắng kẻ thù, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh bao gồm các tổ chức quần chúng có tên chung là “Hội cứu quốc”. Việt Minh đã công bố tuyên ngôn, chương trình và điều lệ chính thức gồm 44 điều sau được đúc kết thành 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh vừa ích nước vừa lợi dân. Việt Minh đã nhanh chóng trở thành nơi tập trung khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên cứu nước, cứu nhà.

3. Quá trình xây dựng lực lượng vũ trang

Để giành được chính quyền cách mạng, Đảng luôn có chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang và coi đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị trí vô cùng quan trọng và quyết định trong sự thành công của cách mạng tháng Tám.

Đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang phát triển còn rất tự do, nhỏ lẻ, chưa có tổ chức. Từ năm 1940, đội du kích Bắc Sơn ra đời là hình mẫu cho sự ra đời của các đội du kích, lực lượng vũ trang sau này như: đội du kích Ba Tơ, du kích Ngọc Trạo, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Hình thức hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là vũ trang tuyên truyền, nghĩa là kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, coi trọng công tác tuyên truyền là chính để hướng tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Bên cạnh đó, Đảng ta đã biên soạn nhiều tài liệu quân sự như: cách đánh du kích; cách huấn luyện cán bộ quân sự, mười điều kỷ luật…

Kết quả là đến đầu năm 1945 ta đã có đựợc một đội quân chính quy bên cạnh các cơ sở, lực lượng dân quân ở các địa phương. Quần chúng nhân dân ra sức ủng hộ lực lượng vũ trang cách mạng, họ không chỉ trực tiếp tham gia kháng chiến mà còn nuôi giấu bộ đội, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

4. Quá trình xây dựng căn cứ địa cách mạng

Do có sự chênh lệch về lực lượng giữa ta và địch cho nên Đảng ta đã thấy được tầm quan trọng, vai trò của căn cứ địa cách mạng trong việc xây dựng, tổ chức lực lượng cách mạng để chuẩn bị khởi nghĩa. Từ thực tế phong trào cách mạng 1930- 1931, 1936 - 1939, Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm về sự cần thiết đảm bảo sự an toàn cho các tổ chức cách mạng, giữ vững các cơ quan lãnh đạo hoạt động và phát triển liên tục.Căn cứ địa là nơi đóng quân của lực lượng cách mạng, là nơi đánh địch, rút lui để bảo vệ mặt trận, cũng là nơi cung cấp người và của cho cách mạng…Với nhận thức đó, ngay từ khi mới về nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chọn các tỉnh miền núi (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến 6/1945 khu giải phóng Việt Bắc ra đời bao gồm: Cao, Bắc, Lạng, Thái, Tuyên, Hà. Từ đó căn cứ địa đã dần mở rộng ra nhiều nơi.

Trong lịch sử, cha ông ta đã từng xây nhiều căn cứ địa cho các cuộc khởi nghĩa như: căn cứ địa Lạng Sơn (khởi nghĩa Lạng Sơn), Tây Sơn (phong trào nông dân Tây Sơn), Hố Chuối (khởi nghĩa Yên Thế)… các căn cứ này xây dựng đều dựa trên các tiêu chí: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Tuy nhiên, để xây dựng căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn này, ngoài việc đảm bảo các tiêu chí trên, Đảng ta còn chú ý đến việc phải đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Đảng ta chọn Việt Bắc làm cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến vì ở đó có địa hình thuận lợi, dễ phòng thủ, lại gần Trung Quốc nên thuận tiện cho việc nhận sự giúp đỡ từ phía các nước xã hội chủ nghĩa. Vùng giải phóng Việt Bắc như hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam và ngày càng được mở rộng, làm bàn đạp cho ta tiến sâu xuống vùng đồng bằng để giải phóng hoàn toàn đất nước.

5. Dự đoán đúng thời cơ khởi nghĩa

Cách mạng tháng Tám thắng lợi vẻ vang có thể nói một phần là nhờ sự nhận định về thời cơ rất chính xác của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tất cả sự chuẩn bị của Đảng từ những năm đầu thành lập là rất chu đáo, công phu, kiên trì, bền bỉ, đặc biệt chú ý đến sự biến đổi của tình hình thế giới, chỉ chờ cơ hội chín muồi là tiến hành khởi nghĩa.

Tháng 9/1939, thế chiến 2 bùng nổ, lôi kéo hàng chục nước trên thế giới vào cuộc chiến khốc liệt. Do bị Đức đánh chiếm nên Pháp ngày càng trở nên kiệt quệ chỉ còn cách quay sang bóc lột, vơ vét các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Năm 1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, dân ta phải chịu cảnh “Một cổ hai tròng”. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đã liên tiếp nổ ra với mong muốn đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lại độc lập.

Năm 1942, Đảng nhận định rằng phe Đồng minh sẽ chiến thắng trong thế chiến 2, đó là điều kiện vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Tháng 9/1944 mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp càng trở nên gay gắt, Nhật đã hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông Dương. Bên cạnh đó, phe phát xít đã trở nên yếu thế trên chiến trường thế giới, lúc này, Đảng ta đã đưa ra phương hướng: “Hãy mài gươm, lắp súng khi quân Nhật - Pháp bắn nhau, kịp nổi dậy tiêu diệt giặc giành lại giang sơn”.

Tháng 3/1945, Hội nghị thường vụ Trung ương Đảng họp đã dự đoán về thời cơ của Cách mạng. Hội nghị đã nêu được các điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam như:

Thế chiến 2 đang đến giai đoạn quyết liệt, quân Đồng minh đang chiếm ưu thế và sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật; tình hình chính trị ở trong các nước đế quốc khủng hoảng (đặc biệt là ở Nhật và Pháp) nên chúng không rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói năm 1945 đã cướp sinh mạng hai triệu đồng bào ta, khiến nhân dân vô cùng phẫn nộ; lực lượng cách mạng của ta ở các địa phương đã ngày càng lớn mạnh; chúng ta cũng cần chú ý đến trường hợp quân Đồng minh chưa vào mà ta tiến hành khởi nghĩa rất có thể sẽ bị Nhật đàn áp và khó giành được thắng lợi.

Giữa năm 1945, thế chiến 2 kết thúc, tạo điệu kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ở Đông Dương, quân Nhật hoang mang tê liệt. Trong tình hình đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ 13 đến 15/8/1945 tại Tân Trào đã phân tích tình hình, chỉ ra những điều kiện chủ quan, khách quan đã chín muồi để khởi nghĩa có thể nổ ra thắng lợi và quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Từ 14 đến 18/8/1945 nhiều xã, huyện thuộc các tỉnh từ Bắc đến Nam đã chớp thời cơ nổi dậy giành chính quyền. Sớm nhất là: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam. Tại Hà Nội, ngày 15-8 đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng đã tổ chức diễn thuyết, truyền đơn, biểu tình qua hàng chục con phố... Ngày 19/8 cả thủ đô ngập tràn cờ đỏ sao vàng; ngày 23/8, Huế giành được chính quyền; ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đã giành được thắng lợi trên phạm vi cả nước.

Như vậy, thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã chứng minh rằng Đảng và nhân dân ta đã có sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo. Công cuộc chuẩn bị đó không chỉ diễn ra trong thời kỳ 1939 - 1945 mà là sự chuẩn bị suốt 15 năm kể từ khi Đảng ra đời, nhờ đó đã đưa đến sự thắng lợi mau lẹ của Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi đó đã chấm dứt gần 100 năm nước ta dưới sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta, đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên mới từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước tự do, độc lập. Và thực tế trên cũng đã chứng minh rằng: "Cách mạng không tự nó đến, phải chuẩn bị nó, giành lấy nó"./.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

24/08/2020 - 09:57

15 năm kỳ công chuẩn bị cho thắng lợi vẻ vang

Đọc bài Lưu

QPTĐ-Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chấm dứt gần 100 năm sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên mới từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước tự do, độc lập. Thực tế thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cũng đã chứng minh rằng: "Cách mạng không tự nó đến, phải chuẩn bị nó, giành lấy nó".

Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời ngày 22/12/1944, đánh dấu sự phát triển mới của lực lượng vũ trang cách mạng. (Ảnh tư liệu)

Bước ngoặt lịch sử

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”. Tư tưởng ấy của Người đã được hiện thực hóa sinh động trong sự nghiệp giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước.

Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Năm 1924, Người từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc), lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, quy tụ những thanh niên-trí thức yêu nước ưu tú, mở nhiều lớp huấn luyện để đào tạo họ thành một lớp cán bộ tài năng, chuẩn bị cho sự nghiệp dựng Đảng-cứu nước vĩ đại. Khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đứng ra thống nhất các tổ chức cộng sản sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930, điểm thứ nhất trong “Năm điểm lớn” được Người đưa ra coi như nguyên tắc để gạt bỏ các bất đồng trước đó và đi tới thống nhất phong trào cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh đầu tiên là: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn là một bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, tạo ra nhân tố hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây là tiền đề quan trọng nhất cho những bước phát triển tiếp theo và cho thắng lợi hoàn toàn của cuộc đấu tranh giải phóng và cho công cuộc phục sinh, chấn hưng, phát triển của dân tộc.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 của Đảng họp vào tháng 5/1941 đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng, mở ra con đường đi tới thắng lợi của cuộc đấu tranh yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Hội nghị khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”; xác định chủ trương hoàn toàn mới: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”. Trong “Kính cáo đồng bào” năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng”.

15 năm kỳ công chuẩn bị

Cách mạng Tháng Tám diễn ra và thắng lợi chỉ trong khoảng 15 ngày, vậy mà Đảng ta đã mất 15 năm để chuẩn bị cho chiến thắng đó. Mà trong đó là tổng hòa của các quá trình chuẩn bị xây dựng lực lượng chính trị; xây dựng lực lượng vũ trang; xây dựng căn cứ địa cách mạng; và trên hết là dự đoán đúng thời cơ khởi nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) của Đảng và sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đánh dấu bước ngoặt trong đường lối lãnh đạo cách mạng. Việc ra đời của Mặt trận Việt Minh đã đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, vì lợi ích chung tối cao là độc lập dân tộc, đáp ứng yêu cầu của thực tế. Như vậy, Đảng đã thực sự trở thành trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên tinh thần yêu nước của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, bồi dưỡng và phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước sức mạnh tinh thần to lớn của lực lượng chính trị trong việc chuẩn bị và thực hiện Tổng khởi nghĩa.

Cùng với lực lượng chính trị, Đảng ta đã xây dựng được một đội quân vũ trang, là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Bên cạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, Đảng ta đã tiến hành việc chuẩn bị căn cứ cách mạng làm chỗ dựa cho vũ trang khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và trực tiếp là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã chọn các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn…để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Nhờ đó, đến tháng 6/1945 trước thềm Cách mạng Tháng Tám, Khu giải phóng Việt Bắc đã được thành lập làm căn cứ địa quan trọng của cuộc Tổng khởi nghĩa, nơi đặt cơ quan chỉ huy đầu não của lực lượng cách mạng, nơi cung cấp sức người, sức của cho cuộc khởi nghĩa.

Tháng 7/1945, sau khi phát xít Đức, Ý bại trận, phát xít Nhật chuẩn bị đầu hàng, Đảng đã sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần. Ngay sau khi nhận được tin Nhật Bản đầu hàng, đêm 13/8, từ Tân Trào, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã phát ra Quân lệnh số 1, nêu rõ: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một không hai cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!… Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!...”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng, lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc". Thực tế là, việc chuẩn bị lực lượng đã được tiến hành từ 15 năm trước, kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) và đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng. Đảng ta đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện về đường lối cách mạng đúng đắn, từng bước vận động, giáo dục và tổ chức tập hợp quần chúng. Ba cao trào cách mạng lớn 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, như là những cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị lực lượng, là bước chuẩn bị đầy đủ tiếp theo và có ý nghĩa quyết định cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.

Hải Yến
(Theo Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)

Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 4 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là không thể phủ nhận

(ĐCSVN) - Hằng năm, vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các thế lực thù địch, phản động bằng mọi âm mưu, thủ đoạn, với nhiều hình thức đã bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc.

Nhân dân Hà Nội chiếm Phủ Khâm sai , Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
tại Hà Nội tháng 8/1945. (Ảnh tư liệu)

Các thế lực đó cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công không phải là do sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải là sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng mà là nhờ một sự “may mắn” của hoàn cảnh lịch sử. Thậm chí, còn trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử rằng “dù không có Đảng Cộng sản, nhiều thuộc địa vẫn giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn xương máu là do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra”.

Những luận điệu thiếu khách quan, sai sự thật, xuyên tạc lịch sử đó của là nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hạ thấp, coi nhẹ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xem nhẹ vai trò và giá trị thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, từ đó làm cho nhân dân ta mất niềm tin vào Đảng và chế độ. Do đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, nâng cao tinh thần cảnh giác, sức đề kháng để tăng cường đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kỳ tích vĩ đại có một không hai trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, không phải là một cuộc cách mạng vội vàng, ngẫu nhiên, “ăn may” như các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, bóp méo. Để có được thành quả đó, toàn dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh, mất mát cho việc chuẩn bị mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Đó là sự chuẩn bị về chủ trương, đường lối; về xây dựng lực lượng chính trị; về xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng căn cứ địa cách mạng; về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa…

Về chủ trương, đường lối: Để có thành quả cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã có sự điều chỉnh về đường lối chiến lược và sách lược phù hợp. Từ việc tiến hành song song hai nhiệm vụ cách mạng là phản đế và phản phong, đến việc xác định nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. Thực hiện chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa với phương pháp đấu tranh phù hợp, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp… Các quan điểm này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt qua các cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945.

Về xây dựng lực lượng chính trị: Đảng ta xác định lực lượng chính trị quần chúng có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Để xây dựng lực lượng chính trị quần chúng đông đảo, mạnh mẽ, cần có đội ngũ cán bộ nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo để liên kết các phong trào đấu tranh. Chính vì thế, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng chính trị. Đảng đã cử nhiều thanh niên ưu tú đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế Cộng sản để sau này về nước nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng, trong các tổ chức cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, Đảng đã thành lập một số tổ chức quần chúng để lập nên khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên làm cách mạng cứu nước.

Về xây dựng lực lượng vũ trang: Để giành chính quyền cách mạng, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang và xác định đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị trí vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của cách mạng.

Hà Nội giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 qua tài liệu ảnh tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia.

Từ thực tiễn tình hình đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa có tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) đã ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương cũng như Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Tháng 12 năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội vũ trang Cao Bằng. Đây là quá trình thúc đẩy việc xây dựng lực lượng quân sự, bước đầu xác định những nguyên tắc cơ bản để tiến tới thành lập lực lượng vũ trang tập trung, làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa. Khi phong trào cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ chức vũ trang đánh giặc. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: từ so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ kinh nghiệm truyền thống của ông cha ta trong lịch sử giữ nước, Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trên thực tế, các căn cứ địa cách mạng của ta đã phát huy tốt vai trò là nơi tổ chức, giữ gìn, phát triển lực lượng cách mạng và đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng ta đã tích cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung ương 7 của Đảng (tháng 11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác. Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

Về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa: Sự chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã nhạy bén nắm bắt sự biến đổi nhanh chóng và mau lẹ của tình hình thế giới để chờ cơ hội chín muồi tiến hành tổng khởi nghĩa. Việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” tháng 3 năm 1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, bản Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Với sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi yếu tố cho khởi nghĩa trong thời gian lâu dài và biết chọn đúng thời cơ khởi nghĩa mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 của dân tộc đã thắng lợi to lớn, triệt để, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Từ những vấn đề trên, một lần nữa khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Ngoài bối cảnh thế giới có những chuyển biến mau lẹ, thuận lợi thì yếu tố chủ quan vẫn là cơ bản, quyết định. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công là minh chứng hùng hồn khẳng định, Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tình thế cách mạng để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lựa chọn phương pháp cách mạng phù hợp. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi hoàn toàn không phải là một sự “ăn may” mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng vĩ đại đó là một biểu tượng của tinh thần quật cường “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, đó là sự kết tinh và toả sáng của sức mạnh nội lực Việt Nam.

Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám diễn ra dưới hình thức tổng khởi nghĩa nhưng hầu như không có đổ máu. Đó là do Đảng ta đã lãnh đạo sử dụng bạo lực cách mạng một cách hợp lý, bao gồm cả bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị của toàn dân tộc và lực lượng vũ trang cách mạng, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, trong đó đấu tranh chính trị là chủ yếu, làm nền cho đấu tranh vũ trang. Đến lượt mình, đấu tranh vũ trang làm chỗ dựa vững chắc và thúc đẩy đấu tranh chính trị đến cao trào, tiến tới một cuộc tổng khởi nghĩa toàn diện. Chính lực lượng chính trị của quần chúng, của toàn dân kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định chủ yếu đã tạo nên sức mạnh to lớn của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, làm nên cuộc cách mạng ít đổ máu. Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó.

Những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch, phản động nêu ra đối với cách mạng tháng Tám không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó phủ nhận toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta dưới dự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ nhận. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan, xuyên tạc, vu cáo về cuộc cách mạng này đều không có giá trị./.

TS Tống Thị Nga, Học viện Chính trị CAND

Xây dựng lực lượng cách mạng và chuẩn bị mọi mặt góp phần thắng lợi Cách mạng Tháng Tám - 1945

Thứ ba - 17/08/2021 21:52

Cùng với tiến trình hoạch định chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho và Đảng bộ tỉnh Gò Công khẩn trương tiến hành xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng lãnh đạo, lực lượng quần chúng, lực lượng vũ trang,... Mặt trận Việt Minh là tổ chức có sức hấp dẫn với các tầng lớp nhân dân. Trên thực tế, Việt Minh thiết lập được mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức thành viên, tạo thêm điều kiện cho lực lượng cách mạng phát triển không ngừng trên địa bàn toàn tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công.


Trên nền tảng đoàn kết của khối liên minh công - nông, Đảng bộ tiếp tục vận động, tập hợp tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, những người tiến bộ có xu hướng chống đế quốc và tay sai vào Mặt trận đoàn kết thống nhất chung, thông qua các tổ chức công khai, hợp pháp như: hội cứu tế đỏ, hội đọc sách báo, các nghiệp đoàn của người lao động; tổ chức Thanh niên Tiền phong... Từ đó tạo nên sức mạnh đoàn kết đấu tranh hiệu quả, áp đảo hệ thống cai trị của thực dân Pháp và tay sai.

Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ được Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh các cấp đặc biệt xem trọng. Nhiều hình thức tổ chức huấn luyện, đào tạo cán bộ được tổ chức tại các vùng căn cứ địa cách mạng nhằm cung cấp kịp thời đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ quân sự cho các địa phương. Tiêu biểu là các khóa đào tạo cán bộ quân sự của tỉnh Mỹ Tho ở cầu Bến Chùa, xã Long An, quận Châu Thành.

Công tác xây dựng lượng vũ trang tiến hành khẩn trương. Từ các đội tự vệ, đội du kích, lực lượng vũ trang các cấp phát triển cùng các đoàn thể cứu quốc. Lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt, kết hợp với lực lượng quần chúng, tạo nên sức mạnh áp đảo quân Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.

Công tác xây dựng căn cứ địa ở phía Bắc các quận Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè và Gò Công là những nơi đứng chân để xây dựng lực lượng. Sức mạnh và ảnh hưởng của căn cứ địa ngày càng lan rộng cùng với sự xuất hiện các khu du kích. Khu du kích xã Mỹ Hạnh Đông (quận Cai Lậy), xã Thiên Hộ (quận Cái Bè), xã Hưng Thạnh (quận Châu Thành), xã Gia Thuận (Gò Công)... phát triển mạnh mẽ.

Công tác xây dựng Đảng là một trong những công tác có tính quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Trong công tác này có ba việc cần phải được quan tâm đúng mức, đó là: xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, xây dựng Đảng về mặt tổ chức và bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới. Đó là điều kiện bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng với quần chúng. Đồng thời, Đảng bộ chỉ đạo tổ chức xây dựng các tổ chức quần chúng, thông qua đó che giấu các tổ chức bí mật của Đảng, bảo vệ cán bộ, đảng viên và tuyên truyền vận động, đưa quần chúng ra đấu tranh.

Nhờ thực hiện công tác chính trị, tư tưởng kịp thời, đúng đắn, Đảng bộ giữ được niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng vào thắng lợi của cách mạng. Đó là nhân tố quan trọng để cách mạng tiến lên giành thắng lợi.


Lê Văn Tý

Video liên quan

Chủ đề