Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử tiếng trung

Lễ giáo xưa còn kén dâu theo tam tòng, tứ đức. Vậy bạn có biết tam tòng tứ đức là gì không? hãy cùng tìm hiểu với chúng tôi qua bài viết này nhé

Tam tòng

Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải tuân theo, đó là: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà phải theo cha, đi lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con). Cũng từ ý này mà người ta khẳng định: ở nhà thì phải nghe lời cha, đi lấy chồng phải nghe lời chồng, chồng chết phải nghe lời con. Như vậy, ở bất cứ nơi đâu người phụ nữ đều bị lệ thuộc. Rõ ràng tam tòng là hoàn toàn xa lạ vối lối sống xã hội hiện đại, với bình đẳng nam nữ trong xã hội văn minh.

“Tam tòng tứ đức” là gì?

Tứ đức gồm: Công, dung, ngôn, hạnh.

Công

Công là sự khéo léo tinh tế về tay chân và nghề nghiệp của người con gái. Như lao động giỏi trên đồng ruộng với những đường cày thẳng tắp, với cấy lúa thẳng hàng, biết nội trợ, biết lo toan sắp xếp mọi công việc của người phụ nữ trong gia đình. Từ việc lo “cái mặc” như việc trồng dâu, chăn tằm, kéo sợi, dệt vải, rồi vá may, thêu thùa… phải thông thạo. Đến việc lo “cái ăn” như việc cấy hái, trồng trọt, cơm nước, nấu nướng cho bữa ăn hàng ngày, biết lo chu tất cho mâm cỗ, bánh trái cho ngày giỗ, ngày tết. Có thế khi “ra ở riêng” mới gánh vác nổi “Giang sơn nhà chồng”. Chữ công đó sau này trở thành chuyên ngành nữ công gia chánh của phụ nữ.

Dung

Dung là nhan sắc, là sắc đẹp với vẻ đẹp bên ngoài hiền dịu. Dung ở đây chỉ có nghĩa là con người vừa phải, không có khuyết tật gì trên cơ thể gây biến dị khó coi. Chứ thực ra các cụ đã nói: “Sông nào sào ấy”, con trai nhà mình nếu giàu có, tài năng, đẹp đẽ thì mới có quyền chọn lựa một nàng dâu xứng ý toại lòng.

Mặt khác, tục ngữ cũng nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, hoặc đôi khi còn sợ sắc đẹp sẽ gây sắc dục có hại cho sức khỏe cho người đàn ông. Vì thế, tục ngữ đã răn đe: “Tốt mái hại trống”, hoặc “Vợ đẹp càng tổ đau lưng”… Do đó, sắc đẹp tức chữ dung chỉ là chuyện tương đối. Tuy nhiên, người con gái đẹp, dân ta cũng đã có những tiêu chuẩn nhất định như: khuôn mặt trái xoan, như “cái răng, cái tóc”, nó là “một góc con người”; hàm răng đều chằn chặn, lại được nhuộm đen hạt huyền, hạt na; làn tóc dài óng ả lại bỏ đuôi gà duyên dáng.

Thời xưa, các cô gái thường mặc yếm, váy bằng lụa tơ tằm, đi với chiếc thắt lưng màu hoa đào hoặc hoa lý. Rồi dây xà tích bằng bạc với đôi khuyên tai vàng óng ánh làm duyên trong ngày hội. Tất cả, hoàn thiện bằng chiếc nón quai thao và đôi dép cong cong, tạo nên một dáng đẹp mẫu mực.

Ngôn

Ngôn là lời nói, là cách phát ngôn trong ứng xử hàng ngày, với mọi thứ bậc và mọi mối quan hệ gia đình, xã hội như: ông bà, cha mẹ, anh chị em, cô dì, chú bác, chồng con, xóm giềng… Nếu trong các mỗi quan hệ ấy, việc sử dụng ngôn từ tỏ ra biết phải trái, biết điều hay điều dở, để phân biệt đối xử và ứng xử, khiến ai cũng vừa lòng và nể trọng. Người như thế được xem là người có văn hoá, có giáo dục. Thật ra mối quan hệ này vô cùng phức tạp và tế nhị. Bởi thế tục ngữ thường răn:

Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Hoặc:

Kim vàng ai nỡ uốn câu

Người ngoan ai nỡ nói nhau nặng lời

Thực ra, trong dân gian người ta vẫn định chuẩn rằng: Cô gái biết nói năng mạch lạc, biết thưa gửi rành rẽ. Lời nói điềm đạm, lễ độ, ngọt ngào, biết trên biết dưới với bố mẹ, với anh em nhà chồng bà con họ mạc và bè bạn. Đối với chồng thì:

Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cười tủm tỉm rằng anh giận gì?

Rồi đợi lúc nào chồng nguôi giận, vợ chồng bên nhau, người vợ mới tỉ tê nhỏ to “góp ý”. Chỉ có thế mới giữ được tổ ấm gia đình.

Hạnh

Hạnh là đạo đức, là đức hạnh của người con gái. Trong sự đánh giá toàn diện về con người, xã hội ta thường coi trọng đạo đức hơn cả. Thế mà không hiểu tại sao trong trật tự này, người ta lại xếp Hạnh vào hàng cuối.

Có lẽ, Hạnh ở đây, người xưa muốn đề cập đến vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Bởi họ có ảnh hưởng rất lớn trong việc nuôi dạy con cái. Nếu con hư, trách nhiệm đầu tiên xã hội quy về người mẹ: “Con hư tại mẹ”. Nếu nhà có nền nếp kỷ cương, xã hội cũng quy công cho người mẹ: “Phúc đức tại mẫu”.

Hạnh ở đây chính là đạo làm người. Trong đó bao hàm phần đạo lý với các bổn phận và nghĩa vụ với ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cháu, họ hàng, xóm giềng và các mối quan hệ xã hội khác. Đạo đức người phụ nữ là phải thể hiện được lòng tôn kính, tính hoà thuận, lòng nhân ái, đức bao dung… Tuy đặt xuống hàng thứ tư trong thứ tự phẩm hạnh của người phụ nữ, nhưng thực tế xã hội coi Hạnh là bao trùm. Xưa đã thế, nay cũng vẫn vậy.

Theo giải thích của Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quốc âm tự vị thì Tứ đức như sau:

  • Phụ công: Sự khéo léo thành thậo trong gia chính (việc trong nhà).
  • Phụ dung: Thái độ, tư thế nhẹ nhàng, đoan trang, nghiêm chỉnh
  • Phụ ngôn: Nói năng lễ độ, kín đáo, ôn hoà.
  • Phụ hạnh: Cư xử nết na, đằm thắm.

Theo Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục thì giải thích Tứ đúc mang tính “dân gian” hơn:

  • Phụ công: Là nghề khéo của người đàn bà, nghề khéo thì chẳng qua trong nghề vá may thêu dệt và biết buôn bán mà thôi.
  • Phụ dung: Là dáng người đàn bà, dáng phải chính đính hoà nhã, nhưng cũng phải chải chuốt cho gọn gàng sạch sẽ.
  • Phụ ngôn: Là lời ăn tiếng nói của người đàn bà, ăn nói phải khoan thai, dịu dàng; đừng cẩu thả mà cũng đừng the thé, quý hồ mềm mỏng cho ai cũng dễ nghe.
  • Phụ hạnh: Là nết na người đàn bà, nết na thì đến trên kính, dưới nhường, ở trong nhà chiều chồng thương con và lấy nết hiền hậu mà ở với anh em họ hàng nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh mà cũng không cay nghiệt với ai.

Đấy là tứ đức, có đủ chừng ấy mối là người đáng khen.

Thực ra tứ đức này cũng chỉ ở các gia đình quyền quý, thì các cô con gái mới có được sự giáo dục đầy đủ và có điều kiện đế thực hành những khuôn mẫu văn hoá ấy. Còn ở tầng lớp trung lưu và dân thường, đặc biệt là nông dân thì tứ đức lại được hiểu một cách cụ thể hơn (thậm chí thô thiển hơn, ví dụ: chữ ngôn chẳng hạn, người ta hiểu rằng: Phụ nữ mà giọng khàn hoặc chua thì ngôn coi như hỏng; hoặc như chữ dung thì thường được hiểu nghiêng về khía cạnh sắc đẹp của người phụ nữ như: khuôn mặt trái xoan, thắt đáy lưng ong, răng đen hạt huyền…)

Trong xã hội phong kiến, chữ trinh là một tiêu chuẩn quan trọng đối với việc chọn dâu (mặc dầu không ai, không sách nào giải thích chữ trinh, nhưng đây lại là tiêu chuẩn đứng trên tất cả, thậm chí còn bao trùm cả tứ đức). Đây là một tiêu chuẩn vô cùng khắc nghiệt của xã hội cũ, thậm chí trước đây ta còn bắt chước lệ Tàu là: lễ lại mặt bao giờ cũng có một con lợn béo. Nếu con lợn này có đủ bộ vị (đầu, đuôi, chân, tai) thì nhà gái rất hãnh diện với bà con thân thuộc, xóm làng vì sự trinh tiết của con gái mình. Nhưng nếu đôi tai của chú lợn mà bị xẻo đi (do nhà trai xẻo) thì thật là vô phúc cho nhà gái, vì điều đó có nghĩa là cô dâu đã bị mất trinh. Lúc ấy thì ông bà nhạc cùng anh chị em nhà gái chỉ còn cách chui xuống đất cho thiên hạ khỏi mỉa mai, tệ hơn nữa là các cô con gái còn lại của nhà này coi chừng phải “ế’ suốt đời vì không chàng trai nào dám cưới họ về làm vợ nữa.

Người biên tập: Trịnh Văn Tuyển

Tam tòng tứ đức là tiêu chuẩn đạo đức, ứng xử mà xã hội xưa đã đặt ra cho người phụ nữ

Tìm hiểu về Tam tòng tứ đức 三从四德 sān cóng sì dé

Tam tòng tứ đức là tiêu chuẩn đạo đức, ứng xử mà xã hội xưa đã đặt ra cho người phụ nữ bên cạnh tam cương ngũ thường là tiêu chuẩn mà người đàn ông trong xã hội phong kiến phải thực hiện theo. Những người phụ nữ sống trong xã hội xưa, họ có thể không được đi học, không hiểu biết nhiều về các kiến thức xã hội, thậm chí họ còn không biết chữ nhưng họ lại hiểu rất rõ về “tam tòng tứ đức”. Vậy “tam tòng tứ đức” là gì? Trung tâm tiếng Trung Ánh Dương sẽ cùng bạn tìm hiểu nhé!  

Tam tòng tứ đức 三从四德 sān cóng sì dé đã từng là khuôn phép được đặt ra, yêu cầu người phụ nữ phải thực hiện vì chỉ có làm theo tam tòng tứ đức người phụ nữ ấy mới được coi là một người phụ nữ có giáo dưỡng. Tam tòng tứ đức một thời trở thành nền tảng xã hội cũng như quy phạm đạo đức được dùng để đánh giá một người phụ nữ.

1. Tam tòng là gì?

Tam tòng trong tiếng Trung là 三从 sān cóng. Tam 三 sān là ba, chữ tòng 从 cóng trong 顺从 shùncóng thuận theo, tòng có nghĩa là nghe theo, thuận theo, vâng lời, làm theo. Tam tòng để chỉ ba điều mà người phụ nữ xưa bắt buộc phải nghe theo và làm theo. Đó là :

• 在家从父 zài jiā cóng fù tại gia tòng phụ: Có nghĩa là con gái khi còn ở nhà phải nghe theo cha mẹ. Trong xã hội xưa một người con gái ngoan ngoãn, được mọi người đánh giá là con nhà giáo dưỡng thì phải biết nghe lời bố mẹ, làm theo những lời bố mẹ mà chủ yếu là người cha đề ra. 
出嫁从夫 chū jià cóng fū xuất giá tòng phu: Có nghĩa là con gái khi đã được ngả đi rồi thì phải nhất nhất nghe theo chồng. Người phụ nữ phải có trách nhiệm vun vén, tạo dựng hạnh phúc gia đình, giúp chồng làm lên nghiệp lớn. 
夫死从子 fū sǐ cóng zǐ phu tử tòng tử: Có nghĩa là nếu chồng qua đời thì phải theo con. Tòng tử được hiểu là nếu người chồng mất đi thì người phụ nữ phải ở vậy nuôi con trưởng thành và các việc trọng đại thì đều do con trai quyết định.

Như vậy, tam tòng chính là tòng phụ 从父 cóng fù, tòng phu 从夫 cóng fū và tòng tử 从子 cóng zǐ. Tam tòng trong xã hội hiện đại ngày nay nên được hiểu một cách khái quát và rộng hơn. Là một người phụ nữ cũng là một người con thì việc nghe lời bố mẹ là điều đúng nhưng trong xã hội ngày nay thì việc nghe lời nên đi kèm với chính kiến cá nhân. Khi đã lấy chồng thì dù là xưa hay nay thì người vợ vẫn luôn nên tôn trọng, dung hòa và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nếu chồng qua đời thì người phụ nữ ngày nay dù có đi thêm bước nữa cũng nên là một điểm tựa vững chắc cho con. 

2. Tứ đức là gì?

Tứ đức trong tiếng Trung là 四德 sì dé. Đối với một quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của nho giáo như Việt Nam thì có lẽ cụm từ tứ đức đã không còn quá xa lạ. Tứ 四 sì là bốn, đức 德 dé là đạo đức, tứ đức là bốn đạo đức mà người phụ nữ nên có. Đó là:

功 gōng công: Là công lao, sự nghiệp, việc lớn. Có nghĩa là người phụ nữ khéo léo trong việc làm, đảm đang, tháo vát. Sự nghiệp lớn của người phụ nữ đó là chăm sóc con cái, gìn giữ gia đình hòa thuận hạnh phúc. 
容 róng dung: Dung là dung mạo. Dung mạo ở đây không chỉ chỉ ngoại hình mà còn chỉ cách ăn mặc, trang điểm. Người phụ nữ có “dung” là một người phụ nữ biết cách ăn mặc trang nhã, phù hợp, đoan trang.
言 yán ngôn: Ngôn là lời nói. Ngôn có mặt trong tứ đức là bởi xã hội xưa cho rằng người phụ nữ phải biết cách ăn nói sao cho nhẹ nhàng, khéo léo, không tho tục, hỗn hào. 
德 dé hạnh: Hạnh chính là đức hạnh, là đức quan trọng nhất của người phụ nữ. Một người phụ nữ đức hạnh sẽ biết cách giáo dục con cái, biết cách dung hòa mối quan hệ trong gia đình. 

Xem thêm bài viết: Chữ Đức trong tiếng Trung

Như vậy chúng ta có thể thấy tam tòng tứ đức đối với người phụ nữ là rất cần thiết. dù rằng xã hội càng hiện đại tam tòng tứ đức cũng không khắt khe như trước nhưng nó sẽ luôn có giá trị nhất định trong việc hình thành nhân cách của người phụ nữ. Hi vọng bài viết này đã mang đến nhiều kiến thức bổ ích cho các bạn. 

Video liên quan

Chủ đề