Tại sao lại gọi là bệnh viện c

Đại tá Bác sĩ Tạ Lưu Anh, Anh hùng LLVT nhân dân, kể: Tôi đã có một thời làm việc cùng ông Trần Bảo - người Viện trưởng đầu tiên của Viện 108,

Đại tá Bác sĩ Tạ Lưu Anh, Anh hùng LLVT nhân dân, kể: Tôi đã có một thời làm việc cùng ông Trần Bảo - người Viện trưởng đầu tiên của Viện 108, mà ngày đó, còn gọi là phân viện 8 đóng ở Đồng Càng, Yên Thạch, Thái Nguyên. Ông quả là một Bác sĩ tài đức vẹn toàn. Ở đây, tôi chỉ xin kể một chuyện vui về ông:

Số là sau khi Cục Quân y mở các lớp bồi dưỡng về công tác tổ chức quản lý quân y cho các cán bộ chủ chốt trong ngành vào cuối năm 1951, hệ thống điều trị bắt đầu vào nền nếp. Các bệnh viện tĩnh tại đều gọi là Phân viện, được đánh số thứ tự từ phân viện 1 đến phân viện 9. Đồng thời lúc này, Cục cũng thành lập các bệnh viện lưu động với biên chế tổ chức, trang thiết bị máy móc, dụng cụ ít hơn, cũng được đánh số thứ tự gọi tắt là ĐT1 (tức điều trị 1), ĐT2 đến ĐT6...

Hồi đó, địch đã oanh tạc vào một vài cơ sở quân y, quân dược. Vì lo máy bay 'bà già' lần theo thứ tự này đánh giá và bọn Việt gian trà trộn giả dạng là người đi mua lông gà lông vịt, bán kẹo kéo, bán thuốc rê len lỏi vào các vùng rừng núi, làng bản hẻo lánh để phát hiện các cơ quan nhà nước hoặc các đơn vị bộ đội đóng quân, rồi dùng gương chiếu ánh sáng, chỉ điểm cho máy bay, nên ông Trần Bảo đã 'tự động' quyết định cộng '100' vào thành Viện quân y 108, thành ra mặc nhiên tên đó không bỏ đi được nữa. Chưa hết, hoà bình 1954, các phân viện đều được đổi tên thành Quân y viện. Thế là lúc này có từng cặp Quân y viện trùng tên, xảy ra nhiều rắc rối do 'râu ông nọ cắm cằm bà kia', như có hai Quân y viện 5- Một Quân y viện 5 đóng ở Ninh Bình, một Quân y viện 5 đóng ở Sơn Tây. Dụng cụ máy móc, tiền bạc, sổ sách chuyên môn... theo tiêu chuẩn của Quân y viện 5 Ninh Bình, thì Cục quân y gửi cho Quân y viện 5 Sơn Tây; ngược lại Quân y viện 5 Sơn Tây có chuyện gì làm sai, thì Cục lại gửi công văn phê bình Quân y viện 5 Ninh Bình...Thế là, để chấm dứt tình trạng này, Cục quân y quyết định: Tên các Quân y viện thuộc Cục quân y đều được cộng thêm '100'...Như thế 'hành động tự do cộng thêm 100' do ông đề xuất trước đó, sau lại được 'thực hiện có tổ chức'. Và cũng từ đó, trên miền Bắc có các Quân y viện 108, 103, 105, 109 và 110 tồn tại cho đến ngày nay.


Nguyễn Văn Thân

Viện Curie Đông Dương trước năm  1954 

Viện  Curie Đông Dương (Insitut Curie de L’Indochine) đã ra đời tại Hà Nội vào ngày 19 tháng 10 năm 1923 do Luật sư  Mourlan phụ trách. Từ ngày 07 tháng 6 năm 1926, Viện  Curie Đông Đương được đổi tên thành Viện Radium Đông Dương, sau đó Viện còn được gọi với một tên gọi khác là Viện Ung thư.

Viện Curie Đông Dương vốn là một tổ chức từ thiện, có chức năng nghiên cứu khoa học và theo đuổi 4 mục tiêu chính:

- Xây dựng tại Hà Nội và các khu vực  khác ở Đông Dương các viện điều trị ung thư bằng tia phóng xạ từ nguồn Radium và tia X.

- Theo dõi, nghiên cứu các khối u ác tính tại Đông Dương.

- Tổ chức một mạng lưới các cơ sở phòng chống ung thư.

- Điều trị những bệnh nhân mắc bệnh ung thư.

Do hoàn cảnh khó khăn về cơ sở vật chất và các phương tiện khám chữa bệnh nên khi mới thành lập, Viện mới chỉ có một cơ sở chính ở miền Bắc Việt Nam là Viện Radium Đông Dương (tiền thân là Viện Curie Đông Dương, nay là Bệnh viện K) và một cơ sở điều trị đặt tại Bệnh viện Bảo hộ (Bệnh viện Phủ Doãn, tức Bệnh viện Việt Đức ngày nay). 

Về công tác tổ chức, Viện Radium lúc đầu hoạt động như một hội, do một vị chủ tịch đứng đầu. Kể từ khi thành lập 1923 cho đến năm 1945 đã có nhiều người đảm nhiệm chức vụ này như: Luật sư Mourlan (1923), Henri Tissot (1926), Le Roy des Barres và Pièrre Huard (1933), Sauvage, Long (1934)……

Sau đại chiến thế giới thứ hai, nhất là vụ Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945 đã làm đảo lộn hoàn toàn cục diện chính trị trong nước. Trong hoàn cảnh đó, Viện Radium không tránh khỏi những biến đổi.

Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, Viện đã xác lập được vai trò và có một vị trí quan trọng trong việc điều trị bệnh ung thư ở Việt Nam, góp phần làm giảm bớt số lượng bệnh nhân tử vong vì căn bệnh nan y này.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội, Viện Radium bị tận dụng làm trụ sở của quân Pháp do Sainteny đứng đầu, bên cạnh tướng Molière, chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp đóng tại trụ sở báo Nhân dân ngày nay (số 71 Hàng Trống, Hà Nội). Sau 2 tháng bị chiếm đóng, Viện được trả lại đúng chức năng chuyên môn, các hoạt động của Viện Radium cũng dần dần được phục hồi trở lại. Lúc này, Chủ tịch Viện Radium là Bác sỹ Long, sau nhiều biến cố, nhất là 60 ngày đêm khói lửa ở Hà Nội, cơ sở vật chất và các phương tiện khám chữa bệnh  của Viện Radium vẫn được bảo toàn gần như nguyên vẹn.

Đầu năm 1948, Hội ung thư Việt Nam được thành lập do BS. Nguyễn Xuân Chữ làm Chủ tịch. Ông cũng đồng thời đảm nhiệm việc điều trị bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện Phủ Doãn.

Trong những năm 1948 – 1954, ngoài Bác sỹ Long, Bác sỹ Nguyễn Xuân Chữ, Viện Radium còn có sự cộng tác của Giáo sư  Huard và các bác sỹ: Oliver, Chardon, Jisslt, Bác sỹ Lương Tấn Trường……Hiệp nghị Genève được kí kết (7/1954), quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc. Tại các bệnh viện ở Hà Nội, trong đó có Viện Radium, một số bác sĩ đã di cư vào miền Nam.

Vì là một tổ chức tư nhân nên đến năm 1957, Viện mới được Pháp chính thức bàn giao cho Chính phủ Việt Nam. Thực hiện tiếp quản Viện Radium có các bác sĩ Nguyễn Như Bằng, Đỗ Bá Hiển, Phạm Thụy Liên, Lương Tấn Trường, Phan Huy Chữ và y tá Đỗ Thiên Thu. Như vậy, từ một cơ sở y tế tư nhân hình thành dưới thời thuộc địa, Viện Radium từ nay đã trở thành tài sản của nhân dân và trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền y học Việt Nam.

 Khoa Ung thư của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, tiền thân của Bệnh viện K

Năm 1959 Viện Radium được sát nhập vào nhà thương Phủ Doãn (sau là bệnh viện Việt - Đức) và trở thành khoa Ung thư của bệnh viện này trong những năm 1959 – 1969. Giám đốc của viện là Giáo sư Tôn Thất Tùng, lúc này cũng là Giám đốc Bệnh viện Phủ Doãn, sau là (Bệnh viện Việt Đức) và trở thành khoa Ung thư của bệnh viện này trong những năm từ 1959 – 1969.

Trong một thời gian khá dài từ năm 1960 đến năm 1969, để chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc phát triển thành Viện trong tương lai, Khoa đã bắt đầu xây dựng các bộ phận cận lâm sàng mang tính chất độc lập. Từ buổi ban đầu hoàn toàn phụ thuộc vào Bệnh viện Việt – Đức về mặt tài chính, các cán bộ y bác sĩ của khoa đã chủ động tổ chức và tự đảm nhiệm được công tác chuyên môn theo phạm vi nhiệm vụ của mình.

Bệnh viện K thành lập

Ngày 17 tháng 7 năm 1969, được sự đồng ý của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định số 711/QĐ-BYT thành lập Bệnh viện K trên cơ sở Khoa Ung thư của Bệnh viện Việt Đức. Từ đây ngành nghiên cứu và chữa trị bệnh ung thư Việt Nam cũng đã bắt đầu bước sang giai đoạn mới, góp phần đắc lực trong việc phục vụ sức khỏe nhân dân.

Giám đốc đầu tiên của Bệnh viện K là bác sĩ Phạm Thụy Liên, Phó Giám đốc là bác sĩ Lương Tấn Trường với tổng số cán bộ nhân viên gồm 68 người. Tuy điều kiện làm việc còn khó khăn, thiếu thốn, các y bác sĩ, cán bộ bệnh viện K đã cố gắng hết mình, tận tâm, tận lực với nghề, sáng tạo ra nhiều phương pháp để khám chữa bệnh phục vụ sức khỏe nhân dân, góp phần chi viện cho tiền tuyến, đào tạo các khóa y sĩ, bác sĩ đầu tiên về chuyên khoa ung thư.

Năm 2000, cơ sở II của Bệnh viện K tại Tam Hiệp ra đời và cơ sở III Bệnh viện K Tân Triều đi vào hoạt động từ năm 2012.

+ Cơ sở 1: Số 43 Quán Sứ, Hoàn Kiếm, Hà Nội và số 9A-9B Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội. 

+ Cơ sở 2: Tựu Liệt, Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội.

+ Cơ sở 3: cơ sở Tân Triều, số 30 Cầu Bươu, Thanh Trì, Hà Nội.

Ban Lãnh đạo Bệnh viện K qua các thời kì

Năm 1975 đồng chí Lê Hoành Sơn được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc, BS. Vũ Khoa được bổ nhiệm Phó Giám đốc năm 1976.

Năm 1981, BS. Nguyễn Tòng được bổ nhiệm làm Giám đốc và 02 Phó Giám đốc là BS. Nguyễn Huy Thiêm và bà Phạm Thị Thanh.

Năm 1983, PGS. Nguyễn Công Thụy được bổ nhiệm là Giám đốc Bệnh viện.

Năm 1988, GS.TS Nguyễn Bá Đức đảm nhiệm vị trí Giám đốc Bệnh viện.

Năm 2009, PGS.TS Bùi Diệu chính thức đảm nhiệm vị trí Giám đốc Bệnh viện K cùng với các Phó Giám đốc: PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu (8/2007 – 5/2015); PGS.TS Trần Văn Thuấn (8/2007 – 9/2016); PGS.TS Nguyễn Văn Tuyên; PGS.TS Bùi Công Toàn; PGS.TS Nguyễn Đại Bình (5/2011 – 2017); ThS. Lê Văn Quân (5/2011 đến nay); Kĩ sư Phạm Lương An (2/2015 đến nay).

Tháng 10/2016, GS.TS Trần Văn Thuấn được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Bệnh viện K. Cùng với đó là 03 Phó Giám đốc: ThS. Lê Văn Quân; PGS.TS Lê Văn Quảng, TS.BS Nguyễn Tiến Quang được bổ nhiệm là Phó Giám đốc Bệnh viện K.  

Tháng 06/2020, PGS.TS Lê Văn Quảng được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Bệnh viện K. 

Tháng 12/2020, TS.BS Nguyễn Tiến Quang được bổ nhiệm là Chủ tịch Hội đồng Quản lý Bệnh viện K. 

Hiện Bệnh viện có 03 Phó Giám đốc là: ThS. Lê Văn Quân; TS.BS Phạm Văn Bình; TS.BS Đỗ Anh Tú.