Thời các vua nhà nguyễn (đời vua minh mạng): quần đảo trường sa có tên gọi là gì:

Vẻ đẹp trường tồn của bộ Cửu đỉnh. (Ảnh: Đỗ Trưởng/TTXVN)

Thời phong kiến, ở những nước Á Đông như Việt Nam, đỉnh được xem là thứ bảo vật, tượng trưng cho quyền lực thống trị của nhà vua.

Hiện ở Cố đô Huế vẫn còn tồn tại bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh đồng) có từ thời nhà Nguyễn, được đánh giá như một cụm tượng đài bất diệt, hoành tráng về đất nước Việt Nam đầu thế kỷ 19 được biểu trưng bằng hình ảnh.  

Cửu đỉnh Huế không chỉ là báu vật quốc gia thể hiện cho quyền uy và sức mạnh của vương triều nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, mà còn được đánh giá là một bộ dư địa chí, một bộ bách khoa thư độc đáo về Việt Nam hồi đầu thế kỷ 19.

Đặc biệt, trên Cửu đỉnh nhiều địa danh sông núi, biển đảo... của đất nước được thể hiện rất rõ ràng, minh xác. Điều đó cho thấy cha ông ta ngày trước rất ý thức về chủ quyền quốc gia, trong đó có vấn đề biển đảo.

Vua Minh Mạng ra lệnh chế tác, khởi công đúc Cửu Đỉnh từ tháng 12/1835 và đến ngày 1/3/1837 thì việc đúc đỉnh được hoàn thành.

Trước khi đúc, triều đình tổ chức lễ cáo, đúc xong đưa tới đặt trước sân Thế Tổ Miếu (miếu thờ các vị vua triều Nguyễn bên trong Hoàng Thành, Huế), sau lưng Hiển Lâm Các, làm lễ tạ. Cửu đỉnh ở nguyên vị trí từ đó đến ngày nay. Trải qua 200 năm, đi qua bao cuộc chiến tranh tàn khốc, song đến nay, Cửu đỉnh vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu.

Mỗi đỉnh tượng trưng cho một vị vua triều Nguyễn và được đặt tên ứng với thuỵ hiệu (tên của vua sau khi băng hà) của vị vua ấy. Ví dụ như Cao đỉnh tượng trưng cho vua Gia Long được đặt theo thụy hiệu Cao Hoàng đế, Nhân đỉnh tượng trưng cho vua Minh Mạng được đặt theo thụy hiệu Nhân Hoàng đế...

[Bảo vật quốc gia Cửu Đỉnh Huế xứng đáng là Di sản tư liệu thế giới]

 Trên mỗi đỉnh, theo lệnh vua Minh Mạng, các nghệ nhân đúc đồng chạm khắc tổng thể 162 bức họa tập hợp lại thành một bức tranh toàn cảnh về đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn. Đặc biệt, vua Minh Mạng đã cho khắc 3 vùng biển của Tổ quốc lên 3 đỉnh cao, to và quan trọng nhất trong bộ đỉnh này, gồm Biển Đông (với lãnh thổ bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) ở Cao Đỉnh, biển Nam ở Nhân Đỉnh và biển Tây ở Chương Đỉnh.

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng thời vua Minh Mạng, ranh giới hành chính các địa phương và các vùng biển được phân chia rất rõ ràng trong phân cấp quản lý nhà nước. Theo đó, Biển Đông (Đông Hải) kéo dài từ phía Bắc cho đến Bình Thuận, bao gồm cả dải cát vàng Hoàng Sa, Trường Sa hay còn gọi là Vạn lý Ba Bình. Biển Nam (Nam Hải) bao gồm từ Bình Thuận đến Hà Tiên có nhiều hòn đảo như Đại Kim, Mảnh Hảo, Nội Trức, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Châu... tiếp giáp với hải phận của các nước Malaysia, Indonesia… Biển Tây (Tây Hải) là vùng biển giáp với vịnh Thái Lan.

Trên bề mặt Cao đỉnh, hình ảnh chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam được khắc rõ nét vào năm 1836 với các bức chạm khắc về Biển Đông (Đông Hải) với, Ô thuyền (loại thuyền tuần tiễu trên biển của thủy binh thời vua Gia Long), Đa tác thuyền (thuyền lớn có khả năng đi biển được dài ngày, vượt đại dương) và con ba ba.

Trên Nhân đỉnh chạm khắc hình ảnh Biển Nam (Nam Hải), cá voi, đồi mồi. Trên Chương đỉnh có hình ảnh Biển Tây (Tây Hải), thuyền rồng, con rùa. Và trên Nghị đỉnh, Dụ đỉnh, Thuần đỉnh, Nhân đỉnh… có hình cửa biển Thuận An, cửa biển Đà Nẵng, biển Cần Giờ. Ngoài ra trên các đỉnh này còn được chạm khắc các hình tượng thuyền như Ô thuyền, Thuyền lâu - loại thuyền lớn đóng bằng gỗ tốt có tầng lầu đẹp cho thấy thành tựu nổi bật của ngành đóng tàu thuyền của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn) hay thuyền Hải đạo - chuyên dùng cho Thủy binh nhà Nguyễn.

Hình tượng biển Đông Hải được khắc trên Cao đỉnh. Biển Đông Hải có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được khắc vào năm 1836 dưới triều vua Minh Mạng. (Nguồn: Báo ảnh Việt Nam)

Trên Nhân đỉnh chạm khắc hình ảnh Biển Nam (Nam Hải), cá voi, đồi mồi. Trên Chương đỉnh có hình ảnh Biển Tây (Tây Hải), thuyền rồng, con rùa. Và trên Nghị đỉnh, Dụ đỉnh, Thuần đỉnh, Nhân đỉnh… có hình cửa biển Thuận An, cửa biển Đà Nẵng, biển Cần Giờ. Ngoài ra trên các đỉnh này còn được chạm khắc các hình tượng thuyền như Ô thuyền, Thuyền lâu - loại thuyền lớn đóng bằng gỗ tốt có tầng lầu đẹp cho thấy thành tựu nổi bật của ngành đóng tàu thuyền của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn) hay thuyền Hải đạo - chuyên dùng cho Thủy binh nhà Nguyễn.

Trên cửu đỉnh vùng biển Đông Hải, Nam Hải và Tây Hải của Việt Nam được khắc với hình ảnh sóng nước nhấp nhô, ẩn hiện rất nhiều đảo lớn nhỏ và chính giữa hình khắc có các chữ Hán nổi thể hiện rõ tên của mỗi vùng biển.

Những hình ảnh trên cho thấy từ thời các vua Nguyễn, vấn đề về chủ quyền biển đảo đã được đề cao.

Theo các bằng chứng lịch sử các vua triều Nguyễn đã sớm xác lập và khẳng định chủ quyền đối với biển, đảo Tổ quốc. Dưới thời nhà Nguyễn, chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được thiết lập và thực thi một cách đầy đủ và toàn vẹn, không có tranh chấp.

Bằng chứng là ngôi chùa có tên Hoàng Sa tự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa là do cai đội Phạm Văn Nguyên cùng lính và phu dân hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi chuyên chở vật liệu từ đất liền ra xây dựng.

Tháng 6 âm lịch năm Ất Mùi niên hiệu Minh Mạng 16 (năm 1835), sách Đại Nam thực lục chép rằng: "Dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu. Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong rồi về."

Hoàng Sa tự là "bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam" tại Hoàng Sa.

Cửu đỉnh Huế là bảo vật tư liệu vô giá. (Nguồn: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế)

Các triều vua nhà Nguyễn đã huy động một lực lượng lớn bao gồm quan chức của các cơ quan Trung ương Nội các, Bộ Công, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Giám thành Khâm thiên giám, thủy sư... phối hợp với quan chức địa phương và ngư dân các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định hàng năm thực thi công vụ Hoàng Sa như vẽ bản đồ, kiểm kê tài nguyên trên đảo, đo đạc hải trình, cắm cọc tiêu, trồng cây, dựng miếu, cắm bia chủ quyền, xây dựng hệ thống kho tàng, đồn luỹ, đặt trạm thu thuế, quan trắc thiên văn và dự báo thời tiết.

Cùng với hàng loạt tài liệu Hán-Nôm cổ, trong đó có Châu bản triều Nguyễn đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương, những hình ảnh biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh là một nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.

(Vietnam+)

Trong 13 vị vua triều Nguyễn nối tiếp nhau từ năm 1802 đến 1945, Minh Mạng là vị vua thứ hai, trị vì từ năm 1820 đến 1841. Là một nhà cải cách hành chính nổi tiếng, người có công lớn trong việc thống nhất đất nước, phân định ranh giới hành chính các địa phương một cách khoa học, hợp lý ổn định gần như từ đó đến nay.

Đặc biệt, trên lĩnh vực kế thừa giữ gìn và phát huy chủ quyền biển đảo của đất nước, vua Minh Mạng đã chủ trương thực hiện nhiều chính sách cụ thể nhằm khẳng định chủ quyền cương hải của Tổ quốc hết sức bài bản và quyết liệt.

Minh chứng cụ thể nhất mà du khách thập phương ai cũng nhìn thấy mỗi khi đến tham quan quần thể di tích cố đô Huế, đó là biển đảo Việt Nam đã được khẳng định chủ quyền bằng hình ảnh sinh động trên Cửu đỉnh đặt trước Thế Miếu. Cửu đỉnh là 9 đỉnh đồng lớn được vua Minh Mạng cho đúc vào tháng 12-1835 và hoàn thành tháng 6-1837, là văn bản chủ quyền bằng hình ảnh sống động nhất của vua Minh Mạng gửi các thế hệ mai sau như là lời khẳng định sự trường tồn của đất nước.

Vua Minh Mạng trị vì đất nước từ năm 1820 đến 1841. Ảnh tư liệu

Ba vùng biển Việt Nam được khắc trên Cửu đỉnh với hình ảnh sông nước nhấp nhô, ẩn hiện rất nhiều đảo lớn nhỏ, chính giữa hình ảnh là đại tự khắc nổi ghi tên mỗi vùng biển Đông Hải, Nam Hải, Tây Hải. Đây là thông điệp khẳng định chủ quyền biển đảo của đất nước độc đáo, ấn tượng nhất mà vua Minh Mạng để lại trong tiến trình lịch sử bảo vệ và giữ gìn biển đảo của Tổ quốc.

Còn trên văn khố, châu bản triều Nguyễn còn lưu giữ đến ngày nay, thì vua Minh Mạng không chỉ là người đưa ra chủ trương vươn ra biển đảo, mà còn là người trực tiếp kiểm tra giám sát việc thực hiện hết sức cụ thể, với hàng trăm bản châu phê chỉ đạo việc đo vẽ bản đồ, cắm mốc hải giới, trồng cây, xây miếu thờ trên Hoàng Sa nhằm khẳng định chủ quyền lãnh hải thiêng liêng của đất nước. Như Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) ghi: Vua chỉ dụ Bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời".

Hay như việc cắm mốc chủ quyền cũng được vua Minh Mạng chỉ đạo rất sát sao: Hằng năm cử người ra Hoàng Sa, Trường Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc. Thuyền đi đến đâu cắm mốc đến đó…".

Nếu làm phép tính đơn giản, trong 20 năm trị vì đất nước, năm nào cũng có một đội dân binh Hoàng Sa theo lệnh nhà vua ra cắm 10 mốc chủ quyền trên các đảo của Hoàng Sa và Trường Sa, thì đã có hàng trăm đảo lớn nhỏ trên "Dải cát vàng" đã được xác định chủ quyền của Việt Nam từ hơn 200 năm trước.

Trong 153 hình ảnh đặc trưng của đất nước được chọn để khắc vào Cửu đỉnh, có Biển Đông (Đông Hải) được chạm khắc vào Cao đỉnh là đỉnh lớn nhất trong Cửu đỉnh, Biển Nam (Nam Hải) được khắc vào Nhân đỉnh và Biển Tây (Tây Hải) được khắc vào Chương đỉnh, đây cũng là ba đỉnh lớn nhất tượng trưng cho ba vị vua đầu tiên của triều Nguyễn. Theo các nhà nghiên cứu Huế, thời vua Minh Mạng ranh giới hành chính các địa phương và các vùng biển được phân chia rất rõ ràng trong phân cấp quản lý Nhà nước. Biển Đông kéo dài từ phía bắc cho đến Bình Thuận, bao gồm cả dải cát vàng Hoàng Sa, Trường Sa hay còn gọi là Vạn lý Ba Bình. Biển Nam bao gồm từ Bình Thuận đến Hà Tiên có nhiều hòn đảo như Đại Kim, Mảnh Hảo, Nội Trức, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Châu... tiếp giáp với hải phận của các nước Malaysia, Indonesia… Biển Tây là vùng biển giáp với vịnh Thái Lan.

Loại thuyền đi biển quan trọng nhất của nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX, Biển Đông (Đông Hải) và cửa biển Đà Nẵng được khắc trên Cửu đỉnh - Huế. Ảnh tư liệu

Không chỉ khuyến khích dân binh ra với vạn lý Hoàng Sa, mà vua Minh Mạng còn đưa ra chính sách thưởng phạt rất nghiêm khắc đối với những ai không hoàn thành nhiệm vụ ở Trường Sa. Tờ Châu bản số 092, Stt 070, quyển 054 năm Minh Mạng 16 (1835) ghi: Việc sai phái quân đội ra Hoàng Sa đo đạc và vẽ bản đồ nhưng vẽ chưa được rõ ràng là các Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện và Nguyễn Văn Hoằng đều đánh 80 gậy chuẩn cho thả tất cả. 2 tên hướng dẫn là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sinh đều thưởng cho 3 mai tiền bằng bạc hạng nhỏ. Các binh thợ tham gia đều thưởng cho mỗi người 1 quan tiền.

Theo các nhà nghiên cứu Huế, trong 13 triều vua Nguyễn, vua Minh Mạng là người để lại số lượng văn bản ghi chép, châu phê, châu điểm về vấn đề khai thác, bảo vệ Hoàng Sa nhiều nhất. Chính vì sự quan tâm đặc biệt của nhà vua về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, nên dưới thời vua Minh Mạng cũng đã đào tạo, tôi luyện nên nhiều chỉ huy đội hùng binh Hoàng Sa nổi tiếng để lại dấu ấn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của triều Nguyễn, như Cai đội thuyền Phạm Văn Nguyên năm Minh Mạng thứ 16 (1835), Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện năm Minh Mạng thứ 18 (1837)…

Có thể nói, dưới thời vua Minh Mạng, việc mở mang lãnh hải xác định chủ quyền biển đảo đất nước đã được kế thừa và phát huy hết sức hiệu quả mà không phải vị vua triều Nguyễn nào cũng làm được. Nhờ những công lao to lớn ấy của vua Minh Mạng mà hiện nay chúng ta có thêm nhiều bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước trong vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và là bài học quý báu cho chúng ta và các thế hệ mai sau trong việc bảo vệ và giữ gìn biên cương lãnh hải của Tổ quốc./.

Nguồn: vietnam.vn

Video liên quan

Chủ đề