Thực trạng kho lạnh tại Việt Nam

Xu hướng người tiêu dùng chuyển sang mua sắm trực tuyến đang thúc đẩy nhu cầu đối với kho lạnh chứa hàng, phân khúc vốn đang thiếu hụt nguồn cung trầm trọng ở Việt Nam.

Thực trạng kho lạnh tại Việt Nam
Một mô hình dịch vụ kho lạnh đang được vận hành tại Việt Nam. Ảnh: ABA.com.vn

Nhu cầu tăng cao

Tháng 6 là cao điểm thu hoạch nhiều loại nông sản tại Long An, trong khi xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn và người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang đi chợ trực tuyến do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, khiến tình trạng ùn ứ, quá tải hàng hóa tại các kho lạnh ngày càng trầm trọng.

Ông Nguyễn Quốc Trịnh, Chủ tịch Hiệp hội Thanh long Long An cho biết, dù nhiều giải pháp đã được áp dụng, song vẫn có tình trạng thanh long phải bán đổ, bán tháo, nhất là với các nông dân, hợp tác xã không đủ vốn để đầu tư kho bảo quản riêng.

“Tổng công suất kho lạnh tại Long An đủ cho nhu cầu trữ thanh long, nhưng các chủ kho cũng kinh doanh thanh long, nên nhiều khi, vì lý do cạnh tranh, họ không cho nông dân, hợp tác xã thuê kho để bảo quản”, ông Trịnh nói.

Ngoài nông sản, xuất khẩu thủy sản cũng là ngành chiếm nhiều diện tích kho lạnh nhất. Hiện nguồn cung kho lạnh chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Nam, trong đó, khoảng 60% thị phần được nắm giữ bởi các nhà đầu tư nước ngoài.

Bà Trang Bùi, Giám đốc Cấp cao JLL thị trường Việt Nam cho biết, do thị trường kho lạnh Việt Nam còn khá phân mảnh, những nhà cung cấp dịch vụ kho lạnh có thị phần tương đối như Emergent Cold, Minh Phú Gemadept, ABA, Hoàng Phi Quân, Lotte, An Việt Cold Storage, Phan Duy, Satra, Meto, Alpha, Transimex… chỉ mới đáp ứng được một phần rất nhỏ của thị trường, cũng như chưa tích hợp nhiều dịch vụ trong kho lạnh.

Theo bà Trang, dù thị trường đầy tiềm năng, nhưng nguồn cung kho lạnh vẫn bị hạn chế do các cơ sở kho lạnh cần nhiều thời gian xây dựng hơn các loại bất động sản hậu cần khác. Việc xây dựng các kho bảo quản lạnh phức tạp và tốn kém hơn so với các kho tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, thời hạn thuê thường kéo dài 15 - 20 năm cũng khiến nguồn cung càng khan hiếm hơn.

Bên cạnh đó, ngành này đòi hỏi bên tham gia phải có chuyên môn về bảo quản nhiệt độ, vì mỗi loại hoa quả, rau củ, thịt cá... đều có những quy định riêng về nhiệt độ, cần điều chỉnh phù hợp. Điều này lý giải vì sao trong hàng ngàn công ty tham gia lĩnh vực logistics, chỉ có một số ít nhảy vào chuỗi cung ứng lạnh.

Dư địa còn rất lớn

JLL dự báo, nhu cầu kho lạnh sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong ít nhất nửa thập niên tới do người tiêu dùng toàn cầu đang thay đổi hành vi mua sắm kể từ biến động lịch sử đại dịch. Trước tiềm năng to lớn của thị trường, loại hình bất động sản này đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư địa ốc, nhiều quỹ đầu tư cũng cân nhắc kho lạnh như một khoản đầu tư thay thế bất động sản công nghiệp truyền thống tại thị trường Việt Nam.

Mới đây, Tập đoàn Louis Holdings tiếp tục khởi công xây dựng Nhà máy Toccoo tại TP. Tân An, tỉnh Long An về chế biến rau củ quả đông lạnh xuất khẩu, có diện tích hơn 17.000 m2, tổng mức đầu tư khoảng 250 tỷ đồng. Đây là dự án thứ hai doanh nghiệp này đầu tư trong hệ thống nhà máy Toccoo. Dự kiến, sẽ có thêm các kho lạnh nữa được xây dựng theo mô hình này ở An Giang và Bình Thuận.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Huỳnh Quang Vinh, Tổng giám đốc Tập đoàn Louis Holdings cho biết, nhà máy sẽ tập trung sản xuất và mang ra thế giới các sản phẩm từ nguồn nông sản chủ lực của tỉnh Long An và vùng lân cận như mít, thanh long, dứa (khóm) và xoài. Với công suất 4 tấn/giờ, dự kiến mỗi năm, nhà máy sẽ cung cấp cho chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu từ 15.000 đến 20.000 tấn sản phẩm.

“Nếu mọi chuyện thuận lợi, nhà máy có thể bắt đầu hoạt động vào tháng 7/2021. Chúng tôi đã xây dựng nhiều nhà máy thế này rồi, tức là mô hình kinh doanh đã có sẵn. Chúng tôi biết tất cả máy móc công nghệ và dây chuyền hiện đại trong ngành này. Với sự quyết tâm của Tập đoàn, chúng tôi ra quyết định việc đầu tư và xây dựng nhà máy này rất nhanh”, ông Vinh nói.

Cũng bày tỏ lo ngại về tác động của Covid-19 đang ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu, nhưng ông Vinh cho biết: “Khi mọi người nhìn thấy nguy cơ, thì chúng tôi nhìn thấy cơ hội. Hơn nữa, khách hàng vẫn có và nguyên liệu luôn luôn dồi dào. Chúng tôi rất tự tin với ‘cuộc chơi’ này. Quan điểm là, nếu chúng ta có tài chính và có sự tự tin, thì nên đón đầu”.

Kho lạnh nằm trong chuỗi cung ứng lạnh là khái niệm để chỉ hệ thống có thể điều chỉnh, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm nhằm kéo dài thời gian lưu kho một số mặt hàng nhất định. Kho lạnh có thể phân thành 3 loại chính: Kho trữ đông lạnh sâu (từ -30 tới -28oC đối với thủy sản), Kho đông lạnh (từ -20 tới -16oC đối với sản phẩm thịt) và Kho mát (từ 2 tới 4oC đối với rau quả và hoa các loại).


Đặc điểm ngành kho lạnh

Kho lạnh nằm trong chuỗi cung ứng lạnh là khái niệm để chỉ hệ thống có thể điều chỉnh, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm nhằm kéo dài thời gian lưu kho một số mặt hàng nhất định. Kho lạnh có thể phân thành 3 loại chính: Kho trữ đông lạnh sâu (từ -30 tới -28oC đối với thủy sản), Kho đông lạnh (từ -20 tới -16oC đối với sản phẩm thịt) và Kho mát (từ 2 tới 4oC đối với rau quả và hoa các loại).

Thực trạng kho lạnh tại Việt Nam
















Ngành kho lạnh hiện đang là ngành mới ở Việt Nam với một lịch sử phát triển trong khoảng 20 năm trở lại. Kho lạnh thương mại đầu tiên được xây dựng năm 1996 bởi Konoike Vinatrans, một liên doanh giữa Konoike Transport (Nhật Bản) với ba doanh nghiệp Việt Nam gồm Vinatrans, Vinalink và Vinafreight. Tới năm 1998, Swire Cold Storge (Úc) nối bước Konoike xây dựng một trong những kho lạnh hiện đại nhất thời bấy giờ. Năm 2007, thị trường kho lạnh mới thực sự bùng nổ với sự xuất hiện của bốn kho lạnh mới, trong đó, đáng ghi nhận là Công ty Cổ phần Hùng Vương xây dựng hai kho lạnh với tổng sức chứa là 40.000 tấn hàng nhằm đáp ứng nhu cầu tự thân của doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp thủy sản khác và các công ty bán lẻ trên thị trường. Kể từ đây, thị trường Việt Nam đã trở nên hấp dẫn với những nhà cung cấp kho lạnh cả trong và ngoài nước.

Thực trạng kho lạnh tại Việt Nam













Theo thống kê của StoxPlus, những nhà cung cấp lớn về kho lạnh thương mại chủ yếu tập trung ở khu vực phía Nam do nhu cầu lớn. Những nhà cung cấp này được phân loại thành 4 nhóm chính: nhóm các nhà công ty trong nước, nhóm các công ty ngoại, nhóm các công ty kho vận và nhóm khác (Hình 3).

Thực trạng kho lạnh tại Việt Nam
.


















Mặc dù đứng đầu thị trường về công suất thiết kế, nhóm các công ty kho lạnh được xếp vào nhóm doanh nghiệp cấp hai. Những doanh nghiệp dẫn đầu trong nhóm này gồm Hoàng Lai, Hùng Vương, SATRA và Phan Duy. Trong đó, hai công ty Hùng Vương và SATRA là những công ty đầu tiền triển khai kho lạnh nhằm đảm bảo nhu cầu của chính họ. Tuy nhiên, những kho lạnh này chỉ được trang bị cơ bản và thiết kế đơn giản. Thậm chí, một số kho lạnh còn không có kệ để trữ hàng.

Trong khi đó, nhóm các doanh nghiệp ngoại dẫn đầu thị trường bởi tận dụng tốt đội ngũ chuyên nghiệp và trang thiết bị hiện đại. SWIRE là một trong những nhà cung cấp kho lạnh nước ngoài đầu tiên thâm nhập vào thị trường Việt nam từ năm 1998 với đội ngũ quản lý chuyên nghiệp cũng như trang thiết bị hiện đại tại thời điểm đó. Những doanh nghiệp khác có thể kể đến LOTTE Sea (2009) và Preferred Freezer Services (2010). Các nhà cung cấp nước ngoài chính là những người dẫn đầu thị trường trong chất lượng và quản lý với nhóm khác hàng đa dạng và những địa điểm vô cùng thuận lợi.

Thực trạng kho lạnh tại Việt Nam























Tiềm năng lớn từ thị trường kho lạnh thương mại Việt Nam

Theo báo cáo Thị trường Kho lạnh Việt Nam 2016 của StoxPlus, kho lạnh là một trong những phân ngành dịch vụ vận tải nhiều hứa hẹn nhất ở Việt Nam, một nền kinh tế mà nông nghiệp đóng góp 16% GDP cả nước. Tính đến thời điểm này mới có một số ít doanh nghiệp tham gia vào thị trường này, nhưng chưa công ty nào cung cấp được chuỗi dịch vụ cung ứng đầy đủ.

Hiện nay, nhu cầu sử dụng kho lạnh đến từ bốn lĩnh vực chính gồm thủy sản, thịt, rau quả và bán lẻ. Trong đó, xuất khẩu thủy sản và hàng bán lẻ được kỳ vọng trở thành động lực  chính cho việc tăng nhu cầu kho lạnh ở Việt Nam cũng như ảnh hưởng của một số hiệp định thương mại tư do được kí năm 2015. Cụ thể, TPP có thể giúp xuất khẩu của Việt Nam tăng 68 tỷ USD năm 2025 với việc xóa bỏ hàng loạt hàng rào thuế quan đối với càng thị trường xuất khẩu lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ và Canada. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam như thủy sản được kỳ vọng sẽ tăng trường mạnh trong giá trị xuất khẩu tới những nước tham gia TPP như Hoa Kỳ. Từ đó, nhu cầu giao nhận vận tải trong đó có kho lạnh cho các sản phẩm xuất nhập khẩu cũng sẽ tăng cao.

Bên cạnh đó, các tập đoàn bán lẻ quốc tế cũng đang có những kế hoạch thâm nhập vào thị trường Việt Nam trong tương lai gần. Việt Nam được kỳ vọng sẽ có khoảng 1200 – 1300 siêu thị, 180 trung tâm mua sắm và 157 cửa hàng bách hóa vào năm 2020. Các kênh phân phối trong đó có kho lạnh cũng sẽ hướng đến sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và sức chứa để đáp ứng nhu cầu đến từ sự bùng nổ này.

StoxPlus cho rằng điểm đáng chú ý ở đây là các ngành khác nhau sẽ có những yêu cầu khác nhau và nhu cầu riêng đối với kho lạnh.

Thị trường kho lạnh Việt Nam đang dần trở nên cạnh tranh hơn khi mà một số dự án đầu tư kho lạnh đang được triển khai bởi cả nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó, dự án đầu tư lớn nhất là kho lạnh với sức chứa 50.000 tấn hàng được xây dựng tại khu công nghiệp sông Hậu, tỉnh Hậu Giang. Dự án đang trong giai đoạn khởi công với tổng vốn đầu tư là 46,1 triệu USD và được phát triển bởi Tập đoàn Gemadept và Tập đoàn thủy sản Minh Phú.

Để có thể nắm bắt được những cơ hội đầy triển vọng trong phân ngành kho lạnh tại Việt Nam, theo StoxPlus, các doanh nghiệp hiện tại cũng như những nhà đầu tư nước ngoài muốn thâm nhập vào thị trường cần phải xác định được thị trường mục tiêu cũng như có được những kể hoạch bán hàng và marketing thích hợp.