Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

Tôn Trung Sơn và Cách mạng Tân Hợi (1911)

Mục a

a) Hoàn cảnh lịch sử

- Vào đầu thế kỉ XX, giai cấp tư sản Trung Quốc đã lớn mạnh lên rất nhiều. Họ bị tư bản nước ngoài và triều đình phong kiến Mãn Thanh chèn ép, kìm hãm.

- Dựa vào các cuộc đấu tranh bền bỉ của quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản Trung Quốc bắt đầu thành lập các tổ chức chính trị của mình. Tôn Trung Sơn là đại diện ưu tú và là lãnh tụ của phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc.

Mục b

b) Tôn Trung Sơn và Trung Quốc Đồng minh hội

-Tôn Trung Sơn là một trí thức có tư tưởng cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

-Tháng 8/1905, Tôn Trung Sơn tập hợp giai cấp tư sản Trung Quốc thành lậpTrung QuốcĐồng minh hội- chính Đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc.

- Thành phần: tri thức tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, thân sĩ bất bình với nhà Thanh, cùng một số ít đại biểu công nông.

-Cương lĩnh chính trị: theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn, nêu rõ: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”

-Mục tiêu:lật đổ Mãn Thanh, thành lập dân quốc, thực hiện bình đẳng về ruộng đất cho dân cày.

- Lực lượng tham gia: trí thức tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, công - nông,...

Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

Tôn Trung Sơn

Mục c

c) Cách mạng Tân Hợi 1911

* Nguyên nhân

- Nhân dân Trung Quốc mâu thuẫn với đế quốc phong kiến.

- Ngòi nổ của cách mạng là do nhà Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt cho đế quốc, bán rẻ quyền lợi dân tộc (quốc hữu hóa đường sắt) nên phong trào “giữ đường” bùng nổ, nhân cơ hội đó Đồng minh hội phát động đấu tranh.

* Diễn biến:

Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

Lược đồ diễn biến cách mạng Tân Hợi

- Khởi nghĩa bùng nổ ở Vũ Xương 10/10/1911, lan rộng khắp miền Nam, miền Trung Trung Quốc.

- Ngày 29/12/1911: Quốc dân đại hội họp ở Nam Kinh

+ Tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân quốc.

+ Tôn Trung Sơn làm Đại Tổng thống lâm thời.

+ Hiến pháp lâm thời được thông qua, công nhận quyền bình đẳng và quyền tự do dân chủ của mọi công dân. Không đề cập đến vấn đề ruộng đất của nông dân.

- Trước thắng lợi của cách mạng, tư sản thương lượng với nhà Thanh, đế quốc can thiệp.

=> Vua Thanh thoái vị, Tôn Trung Sơn từ chức (12/2/1912), Viên Thế Khải làm Tổng thống (6/3/1912) – thế lực phong kiến quân phiệt lên nắm quyền.

* Tính chất - ý nghĩa:là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản

- Lật đổ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.

- Ảnh hưởng nhất định đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á.

* Hạn chế

- Không thủ tiêu thực sự giai cấp phong kiến.

- Không đụng chạm đến các nước đế quốc xâm lược.

- Không giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.

=> Cách mạng Tân Hợi (1911) mang tính chất là cuộc cách mạng tư sản không triệt để.

* Nguyên nhân thất bại

- Chưa thủ tiêu triệt để giai cấp phong kiến, chưa tấn công đế quốc.

- Chưa giải quyết vấn đề thiết yếu cho dân cày: Ruộng đất.

Mục d

d) Mở rộng: Tư tưởng Tôn Trung Sơn ảnh hưởng đến con đường đấu tranh của Phan Bội Châu:

- Học thuyết Tam dân và cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Quốc đã có ảnh hưởng đến nhiều nhà yêu nước Việt Nam trong đó có Phan Bội Châu.

- Tháng 6-1912, Phan Bội Châu và các đồng chí của mình thành lập Việt Nam Quang phục hội với mục đích: đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam.

ND chính

- Tôn Trung Sơn và Trung Quốc Đồng minh hội.

- Cách mạng Tân Hợi 1911: nguyên nhân, diễn biến, tính chất, ý nghĩa, hạn chế,...

- Tư tưởng Tôn Trung Sơn ảnh hưởng đến con đường đấu tranh của Phan Bội Châu.

Sơ đồ tư duy Trung Quốc


Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

Loigiaihay.com

  • Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

    Lý thuyết Trung Quốc

    Lý thuyết Trung Quốc

  • Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

    Xác định trên bản đồ Trung Quốc (treo tường) những vùng bị các nước đế quốc chiếm đóng

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 13 SGK Lịch sử 11

  • Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

    Nêu diễn biến chính của các phong trào yêu nước của nhân dân Trung Quốc từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 14 SGK Lịch sử 11

  • Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

    Dựa trên lược đồ (hình 8), trình bày diễn biến chính của cách mạng Tân Hợi

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 17 SGK Lịch sử 11

  • Trình bày hiểu biết của em về tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi 1911

    Nêu kết quả của Cách mạng Tân Hợi. Vì sao gọi cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng tư sản không triệt để ?

    Giải bài tập 1 trang 17 SGK Lịch sử 11

Mục lục

  • 1 Bối cảnh
  • 2 Tổ chức Cách mạng
    • 2.1 Giai đoạn đầu
    • 2.2 Các nhóm nhỏ
    • 2.3 Đồng Minh hội
      • 2.3.1 Trước Cách mạng Tân Hợi
    • 2.4 Tổ chức khác
    • 2.5 Tầm nhìn
  • 3 Giai cấp và tổ chức
    • 3.1 Hải ngoại
    • 3.2 Trí thức mới xuất hiện
    • 3.3 Thượng lưu và tư sản
    • 3.4 Người ngoại quốc
    • 3.5 Binh sĩ Tân quân
  • 4 Khởi nghĩa và biến cố
    • 4.1 Khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ nhất
    • 4.2 Khởi nghĩa quân Độc lập
    • 4.3 Khởi nghĩa Huệ Châu
    • 4.4 Khởi nghĩa Đại Minh
    • 4.5 Khởi nghĩa Bình Lưu Lễ
    • 4.6 Ám sát tại nhà ga Đông Chính Dương môn Bắc Kinh
    • 4.7 Khởi nghĩa Hoàng Cương
    • 4.8 Khởi nghĩa Hồ Thất Nữ Huệ Châu
    • 4.9 Khởi nghĩa An Khánh
    • 4.10 Khởi nghĩa Khâm Châu
    • 4.11 Khởi nghĩa Trấn Nam quan
    • 4.12 Khởi nghĩa Khâm Liêm
    • 4.13 Khởi nghĩa Hà Khẩu
    • 4.14 Khởi nghĩa Mã Pháo Doanh
    • 4.15 Khởi nghĩa Tân quân Canh Tuất
    • 4.16 Khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ hai
    • 4.17 Khởi nghĩa Vũ Xương
  • 5 Khởi nghĩa ở các tỉnh
    • 5.1 Quang phục Trường Sa
    • 5.2 Khởi nghĩa Thiểm Tây
    • 5.3 Khởi nghĩa Cửu Giang
    • 5.4 Khởi nghĩa Thái Nguyên Sơn Tây
    • 5.5 Khởi nghĩa Trùng Cửu Côn Minh
    • 5.6 Quang phục Nam Xương
    • 5.7 Khởi nghĩa vũ trang Thượng Hải
    • 5.8 Khởi nghĩa Quý Châu
    • 5.9 Khởi nghĩa Chiết Giang
    • 5.10 Quang phục Giang Tô
    • 5.11 Khởi nghĩa An Huy
    • 5.12 Khởi nghĩa Quảng Tây
    • 5.13 Phúc Kiến độc lập
    • 5.14 Quảng Đông độc lập
    • 5.15 Sơn Đông độc lập
    • 5.16 Khởi nghĩa Ninh Hạ
    • 5.17 Tứ Xuyên độc lập
    • 5.18 Khởi nghĩa Nam Kinh
    • 5.19 Tây Tạng độc lập
    • 5.20 Mông Cổ độc lập (Trung Quốc công nhận từ sau năm 1949)
    • 5.21 Khởi nghĩa Địch Hóa và Y Lê
    • 5.22 Khởi nghĩa Đài Loan
  • 6 Thay đổi chính quyền
    • 6.1 Nhà Thanh
    • 6.2 Chính phủ Cách mạng
    • 6.3 Hội nghị Bắc Nam
  • 7 Thành lập Dân Quốc
    • 7.1 Trung Hoa Dân Quốc công bố và vấn đề quốc kỳ
    • 7.2 Xô xát Đông Hoa môn
    • 7.3 Hoàng đế thoái vị
    • 7.4 Lựa chọn Thủ đô
  • 8 Chính phủ Bắc Dương
  • 9 Sau Cách mạng Tân Hợi
  • 10 Nhận xét sơ lược
  • 11 Chú thích
  • 12 Sách tham khảo

Bối cảnhSửa đổi

Từ Hi Thái hậu (1835–1908), là hiện thân phe bảo thủ trong triều đình nhà Thanh, bà nắm quyền lực triều chính trong vòng 47 năm, và đã ngăn chặn nỗ lực Bách nhật duy tân của vua Quang Tự (1871–1908).
Sau thất bại Bách nhật duy tân năm 1898, cố vấn vua Quang Tự là Khang Hữu Vi (trái, 1858–1927) và Lương Khải Siêu (1873–1929) đã đi lưu vong, trong khi Đàm Tự Đồng (phải, 1865–1898) bị xử tử. Tại Canada, Khang và Lương thành lập Bảo Hoàng Hội (保皇會) để thúc đẩy chế độ quân chủ lập hiến tại Trung Quốc. Năm 1900, hội ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền trung Trung Quốc để giải cứu Quang Tự, và sau đó bị chính quyền Bắc Kinh đàn áp. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911-1912, Lương trở thành Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Hoa Dân Quốc. Khang vẫn tiếp tục ủng hộ bảo hoàng và hỗ trợ phục vị hoàng đế Trung Hoa (Đại Thanh) cho Thanh Đế cuối cùng Phổ Nghi năm 1917 trước khi bị lật đổ trở lại bởi sự phản đối gay gắt của các thế lực quân phiệt cùng toàn bộ nhân dân Trung Quốc.

Sau thất bại đầu tiên trước phương Tây trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất năm 1842, triều đình nhà Thanh đã nỗ lực ngăn chặn sự xâm phạm của người nước ngoài vào Trung Quốc. Những nỗ lực cải cách và điều chỉnh miễn cưỡng sự quản lý truyền thống đã bị triều đình cực bảo thủ ngăn chặn, vốn không muốn có quá nhiều quyền lực bị thay đổi. Sau thất bại Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai năm 1860, nhà Thanh đã cố gắng hiện đại hóa bằng cách áp dụng một số công nghệ phương Tây thông qua Phong trào Tự cường (洋務運動) từ năm 1861.[4] Trong các cuộc chiến chống Thái Bình Thiên Quốc (1851–64), Niệp (1851–68), Vân Nam (1856–68) và Tây Bắc (1862–77), quân đội đế quốc truyền thống tỏ ra thiếu khả năng và triều đình đã dựa vào quân đội địa phương.[5] Năm 1895, Trung Quốc phải chịu một thất bại khác trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[6] Điều này chứng tỏ rằng xã hội phong kiến ​​truyền thống Trung Quốc cũng cần phải được hiện đại hóa nếu những tiến bộ công nghệ và thương mại thành công.

Năm 1898 vua Quang Tự được các nhà cải cách lúc đó như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cho một cuộc cải cách mạnh mẽ trong giáo dục, quân sự và kinh tế theo Bách nhật duy tân.[6] Cuộc cải cách đột ngột bị ngăn chặn bởi phe bảo thủ do Từ Hi Thái hậu lãnh đạo.[7] Vua Quang Tự, là con rối phụ thuộc vào Từ Hi, bị trục xuất khỏi cung và quản thúc tháng 6/1898.[5] Các nhà cải cách Khang và Lương buộc phải sống lưu vong. Khi ở Canada, vào tháng 6 năm 1899, họ đã cố gắng thành lập Bảo Hoàng Hội trong nỗ lực phục vị hoàng đế.[5] Từ Hi Thái hậu là người kiểm soát chính nhà Thanh từ thời điểm này. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn thúc đẩy Liên quân bát quốc tấn công Bắc Kinh năm 1900 và sự áp đặt các hiệp ước bất bình đẳng, chia cắt hầu hết lãnh thổ, tạo ra các tô giới và đặc quyền thương mại. Dưới áp lực bên trong và bên ngoài, triều đình nhà Thanh bắt đầu áp dụng một số cải cách. Nhà Thanh quản lý để duy trì sự độc tài trong quyền lực chính trị bằng các cuộc đàn áp, thường rất tàn bạo, với tất cả các cuộc nổi loạn trong nước. Những người bất đồng chính kiến ​​chỉ có thể hoạt động trong các đoàn thể bí mật và các tổ chức ngầm, trong các tô giới hoặc lưu vong ở nước ngoài.

Theo suy nghĩ của những người Hán đương thời (tuyệt đại đa số người Trung Quốc), thì nhà Thanh là một chính quyền do ngoại tộc (Mãn Châu) làm chủ từ năm 1644, vừa hèn yếu thối nát, vừa ngăn trở đất nước phát triển theo đường lối tư bản.

Tổ chức Cách mạngSửa đổi

Giai đoạn đầuSửa đổi

Có nhiều nhà cách mạng và các nhóm muốn lật đổ chính quyền nhà Thanh để tái lập chính quyền do người Hán lãnh đạo. Các tổ chức cách mạng đầu tiên được thành lập bên ngoài Trung Quốc, như Phụ Nhân Văn xã (輔仁文社) do Dương Cù Vân, thành lập tại Hồng Kông năm 1890. Văn xã gồm 15 thành viên, bao gồm Tạ Toản Thái, người đã châm biếm chính trị "Tình hình Viễn Đông", một mạn họa đầu tiên của Trung Quốc, và sau này trở thành một trong những người sáng lập cốt lõi của Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (南華早報).[8]

Tôn Dật Tiên tại Luân Đôn

Tôn Dật Tiên thành lập Hưng Trung Hội (興中會) tại Honolulu năm 1894 với mục đích chính là gây quỹ cho các cuộc cách mạng.[9] Hai tổ chức đã sát nhập năm 1894.[10]

Các nhóm nhỏSửa đổi

Hoa hưng Hội được thành lập năm 1904 với các nhân vật nổi tiếng như Hoàng Hưng, Chương Sĩ Chiêu, Trần Thiên Hoa và Tống Giáo Nhân, cùng hơn 100 người khác. Hội có khẩu hiệu là "Chiếm cứ một tỉnh, các tỉnh khác hưởng ứng"nhằm đánh đổ Mãn Thanh vốn cướp nước của người Hán từ 1644 đến lúc đó nên mục tiêu là quét sạch phong kiến quân chủ Mãn Châu để đi thành lập 1 nền Cộng hòa dân quốc Trung Hoa cho người Hán (雄踞一省,与各省纷起).[11]

Quang phục Hội (光復會) thành lập năm 1904, tại Thượng Hải, bởi Thái Nguyên Bồi. Các nhân vật nổi tiếng gồm Chương Bỉnh Lân và Đào Thành Chương.[12] Mặc dù tuyên bố phản Thanh, Quang phục Hội rất phê phán Tôn Dật Tiên.[13] Một trong những nhà cách mạng nữ nổi tiếng nhất là Thu Cẩn, người đấu tranh cho quyền của phụ nữ và cũng đến từ Quang phục hội.[13]

Ngoài ra còn có nhiều tổ chức cách mạng nhỏ khác, như Lệ Trí Học hội (勵志學會) tại Giang Tô, Công Cường hội (公強會) tại Tứ Xuyên, Ích Văn hội (益聞會) và Hán tộc Độc lập hội (漢族獨立會) tại Phúc Kiến, Dị Tri xã (易知社) tại Giang Tây, Nhạc Vương hội (岳王會) tại An Huy và Quần Trí hội (群智會/群智社) tại Quảng Châu.[14]

Ngoài ra còn có các tổ chức vũ trang chống Mãn Châu, gồm Thanh bang (青帮) và Hồng môn Trí Công đường (致公堂).[15] Tôn Trung Sơn đã tiếp xúc với Hồng môn, còn được gọi Thiên Địa hội.[16][17]

Ca Lão hội (哥老會) là một tổ chức khác, với Chu Đức, Ngô Ngọc Chương, Lưu Chí Đan và Hạ Long. Đây là nhóm cách mạng cuối cùng phát triển thành đảng Cộng sản.

Tôn Dật Tiên với thành viên Đồng Minh hội

Đồng Minh hộiSửa đổi

Tôn Dật Tiên thống nhất thành công Hưng Trung Hội, Hoa hưng Hội và Quang Phục Hội vào mùa hè năm 1905, qua đó thành lập Đồng Minh Hội (同盟會) tháng 8/1905 tại Tokyo.[18] Cương lĩnh của Hội là "Đánh đuổi giặc Thát[19], khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ hợp quần". Khi thành lập Đồng Minh hội có 90% thành viên có độ tuổi từ 17 đến 26.[20] Một số tác phẩm trong thời đại bao gồm các ấn phẩm mạn họa, như Thời sự Họa báo (時事畫報).[21]

Theo sử liệu, thì Cách mạng Tân Hợi thành công không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc vận động cách mạng lâu dài và các cuộc nổi dậy trước đó, mà công đầu là Đồng Minh hội do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý.

Trước Cách mạng Tân HợiSửa đổi

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì trước khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Tôn Dật Tiên và đảng cách mạng của ông đã tổ chức 10 cuộc khởi nghĩa chống Thanh nhưng đều bị thất bại. Điểm lược một vài vụ nổi bật:

Năm 1895, nhân lúc nhân dân cả nước căm giận nhà Thanh ký hiệp ước Mã Quan với Nhật Bản, ngày 26 tháng 10, Tôn Dật Tiên định tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu. Nhưng kế hoạch bị lộ, các đồng chí của ông bị giam và bị giết hơn 70 người, ông phải trốn sang Nhật Bản, rồi qua Honolulu. Đây là cuộc khởi nghĩa lần đầu của ông[22].

Tháng 11 năm 1899, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, Tôn Dật Tiên cùng với các đồng chí chạy thoát vội trở về nước, tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu lần thứ hai. Ông cử Trịnh Sĩ Lương đi đánh Huệ Châu (Quảng Đông), Sử Kiên Như đi ném tạc đạn giết Tổng đốc Đức Thọ. Nhưng cả hai việc đều thất bại. Sử Kiên Như tuẫn nạn và nhiều chiến sĩ cách mạng khác lại bị bắt giam và bị giết.

Ngày 18 tháng 9 năm 1905 tại Tokyo (Nhật Bản), Tôn Dật Tiên cùng Hoàng Hưng chủ trì việc hợp nhất Hưng Trung Hội với hai tổ chức cách mạng khác là Quang Phục hội và Hoa Trung hội. Kể từ đây, đảng vừa hợp nhất có tên là Trung Quốc Đồng Minh hội (gọi tắt là Đồng Minh hội), do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý[23]. Năm 1906, hai hội viên của Đồng Minh hội là Lưu Đạo Nhất và Thái Thiệu Nam tổ chức khởi nghĩa ở ba nơi là Bình Hương (Giang Tây), Trương Lăng [24] và Lưu Dương (Hồ Nam), nhưng tất cả đều thất bại.

Mùa thu năm 1907, Đồng Minh hội tổ chức khởi nghĩa ở Khâm Châu thuộc Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây). Chiếm được Phòng Thành, nhưng vì không có tiếp tế, phải rút vào Thập Vạn Đại Sơn[25]. Đến mùa đông năm ấy, quân cách mạng đánh chiếm Trấn Nam Quan[26], Khâm Châu, Liêm Châu (nay tên là Hợp Phố thuộc Quảng Tây), Thượng Tư (Quảng Tây), nhưng rồi cùng vì không có tiếp tế nên phải rút đi.

Năm 1908, quân cách mạng cùng dân địa phương khởi nghĩa ở Hà Khẩu (Vân Nam). Sau khi đánh thắng một trận lớn, quân và dân cùng tiến lên uy hiếp Mông Tự, nhưng rồi cũng phải rút đi vì không có tiếp tế. Mùa thu năm ấy, chi bộ Đồng Minh hội thành lập ở Hương Cảng (Hồng Kông). Năm 1910, tổ chức này cho người vận động lực lượng tân binh ở Quảng Đông nổi dậy, nhưng bị đàn áp ngay.

Tháng 4 năm 1911, Đồng Minh hội chọn 500 cảm tử quân, hợp với quân địa phương, đánh vào dinh Tổng đốc Quảng Châu. Cuộc đột kích này do Hoàng Hưng và Triệu Thanh chỉ huy, nổ ra ngày 27 tháng 4 năm 1911 (tức ngày 29 tháng 3 năm Tân Hợi). Tuy nhiên, do quân cảm tử và khí giới không đến cùng một lượt, và còn do bị lộ, nên số quân đánh vào dinh Tổng đốc phải tuẫn nạn nhiều. Sau tìm được 72 thi hài đem hợp táng tại Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, và được người đời gọi là Thất thập nhị liệt sĩ [27]. Đây là lần khởi nghĩa thứ 10 do Đồng Minh hội tổ chức, trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa tự phát ở Vũ Xương.

Cũng trong khoảng thời gian này, việc nhà Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi, nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6. 750.000 đô la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Đến ngày 9 tháng 5 năm 1911, Thanh đình ra sắc lệnh "Quốc hữu hóa đường sắt" nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu, Tứ Xuyên...nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt...Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái quân chủ "lập hiến", phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên[28].

Ngày 7 tháng 9 năm 1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô (tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên) kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhĩ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác. Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc triều Thanh phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.

Tổ chức khácSửa đổi

Tháng 2/1906 Nhật Tri hội (日知會) cũng gồm nhiều nhà cách mạng, như Tôn Vũ (孫武), Trương Hán Kiệt, Hà Quý Đạt và Chu Tử Long.[29][30] Những người tham gia hội sau đó trở thành nòng cốt thành lập Đồng Minh hội tại Hồ Bắc.

Trong tháng 7/1907 một số thành viên của Đồng Minh hội ở Tokyo đã ủng hộ một cuộc cách mạng ở khu vực sông Dương Tử. Lưu Quỹ Nhất (劉揆一), Tiêu Đạt Phong (焦達峰), Trương Bá Tường (張伯祥) và Tôn Vũ (孫武) thành lập Cộng Tiến hội (共進會).[31][32] Trong tháng 1/1911, tổ chức cách mạng Chấn Vũ học xã (振武學社) đổi tên thành Văn học xã (文學社).[33] Tưởng Dực Võ (蔣翊武) được chọn làm lãnh đạo.[34] Hai tổ chức này sau đó đóng góp vai trò quan trọng trong Cách mạng Vũ Xương.

Nhiều nhà cách mạng trẻ đã thông qua chương trình cấp tiến vô chính phủ. Tại Tokyo Lưu Sư Bồi (劉師培) đề xuất lật đổ chính quyền người Mãn và quay lại giá trị chính thống Trung Quốc. Tại Paris Lưu Sư Bồi, Ngô Trĩ Huy và Trương Nhân Kiệt tán thành với Tôn Vũ về sự cần thiết cách mạng và gia nhập Đồng Minh hội, nhưng lập luận rằng một sự thay thế chính trị của một chính phủ bằng một chính phủ khác sẽ không tiến bộ;cách mạng trong gia đình, giới tính và xã hội sẽ loại bỏ giá trị của chính quyền và sự áp bức. Trương Kế một người vô chính phủ cho rằng phương tiện cách mạng là bảo vệ ám sát và khủng bố, nhưng những người khác khẳng định rằng chỉ có giáo dục là chính đáng. Những người vô chính phủ quan trọng bao gồm Thái Nguyên Bồi, Uông Tinh Vệ và Trương Nhân Kiệt, là những người hỗ trợ tài chính cho Tôn Vũ. Nhiều người trong số những người vô chính phủ này sau đó sẽ đảm nhận các vị trí cao trong Quốc Dân Đảng (KMT).[35]

Tầm nhìnSửa đổi

Nhiều nhà cách mạng đẩy mạnh quan điểm phản Thanh/chống-Mãn và nhắc lại truyền thống lịch sử những cuộc chiến chống Mãn Châu với người Hán trong thời nhà Minh (1368–1644). Chủ đạo giới trí thức bị ảnh hưởng bởi những cuốn sách có từ thời cuối nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Năm 1904, Tôn Dật Tiên tuyên bố mục tiêu tổ chức là "đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, bình đẳng ruộng đất." (驅除韃虜, 恢復中華, 創立民國, 平均地權).[18] Nhiều tổ chức ngầm thúc đẩy ý tưởng "Phản Thanh phục Minh" (反清復明) đã có từ những ngày Thái bình Thiên quốc.[36] Những người khác như Chương Bỉnh Lân, hỗ trợ con đường "hưng Hán diệt Hồ" (興漢滅胡) và "chủ nghĩa bài Mãn" (排滿主義).[37]

Tìm hiểu cách mạng Tân Hợi lớp 11

Cách mạng Tân Hợi lớp 11 là một trong những bài giảng quan trọng nằm trong chương trình dạy và học lịch sử phổ thông lớp 11. Lịch sử đã ghi lại cuộc cách mạng này còn có tên gọi là Cách mạng Trung Quốc hay Cách mạng 1911. Để có thêm những thông tin chi tiết về cuộc cách mạng này, cùng tham khảo kiến thức tổng hợp dưới đây.

1. Hoàn cảnh lịch sử

Đầu năm 1905, phong trào đấu tranh chống phong kiến, chống đế quốc lan rộng khắp các tỉnh tại Trung Quốc. Nắm bắt tình hìnhTôn Trung Sơntừ châu Âu về Nhật Bản với mục đích thành lập một chính đảng. Vào tháng 8-1905, chính đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc Trung Quốc – Đồng minh hội ra đời. Thành phần của hộ này bao gồm: tiểu tư sản, địa chủ, tư sản, đại biểu công nông, thân sĩ bất bình với nhà Thanh.

Dựa trên học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn, Đồng minh hội đưa ra Cương lĩnh chính trị nêu rõ: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Thành lập Dân quốc, đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thực hiện quyền bình đẳng về ruộng đất cho dân cày là mục tiêu của hội. Phong trào cách mạng Trung Quốc phát triển theo con đường dân chủ tư sản dưới sự lãnh đạo của Đồng minh hội.

2. Tôn Trung Sơn và Trung Quốc Đồng minh hội

-Tôn Trung Sơn là một trí thức có tư tưởng cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

-Tháng 8/1905, Tôn Trung Sơn tập hợp giai cấp tư sản Trung Quốc thành lậpTrung QuốcĐồng minh hội- chính Đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc.

- Thành phần: tri thức tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, thân sĩ bất bình với nhà Thanh, cùng một số ít đại biểu công nông.

-Cương lĩnh chính trị: theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn, nêu rõ: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”

-Mục tiêu:lật đổ Mãn Thanh, thành lập dân quốc, thực hiện bình đẳng về ruộng đất cho dân cày.

- Lực lượng tham gia: trí thức tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, công - nông,...

Tôn Trung Sơn