Năm 1917 nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời, năm 1924 thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, bao gồm 15 nước cộng hoà được thành lập. Sau Đại chiến thế giới thứ lI (sau năm 1945), hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời, mà Liên Xô là trụ cột. Năm 1991, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã. Từ năm 1991 đến nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cuba vẫn tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, và ở mỗi nước đã và đang tiến hành nhiều chính sách đổi mới, cải cách xây dựng nhà nước pháp quyền, pháp trị, xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện cải cách, dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội. Trong giai đoạn đổi mới, đường lối phát triển kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, tập thể, cá thể, tiểu chủ, tư Š bản tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kĩ thuật và giao với thị trường thế giới. Show Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa có các đặc điểm cơ bản sau: thiết lập và đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; tất cả các cơ quan nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; quyền lực nhà nước là thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc, hình thức phổ biến là chính thể cộng hoà dân chủ, không có hình thức chính thể quân chủ lập hiến như các nước tư sản; mục đích của nhà nước xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự hình thành phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Mác - Lênin Sự ra đời và tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã đem lại những thành tựu to lớn cho nhân loại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái ưào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vân đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.1 Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, một xã hội mới ra đời bao giờ cũng được thai nghén từ trong lòng xã hội cũ, trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn nội tại khách quan của xã hội. Khi mâu thuẫn xã hội lên tới đỉnh điểm, cách mạng xã hội nổ ra là tất yếu. Thắng lợi của cách mạng đưa tới việc xoá bỏ nhà nước cũ, thiết lập nhà nước kiểu mới. Thực tế đã chứng minh luận điểm đó. Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản dần chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên hầm trọng. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất phát triển ngày càng cao. Cùng với nó, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản cũng ngày càng sâu sắc. Giai cấp tư sản rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng. Nỗi cùng khổ quẫn bách của giai cấp vô sản trở nên nặng nề hơn bao giờ hết, ý thức giác ngộ chính trị của họ ngày càng được nâng cao, trước đó họ phải nhẫn nhục chịu để cho giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nhưng đến “thời kì bão táp” họ đã bị đẩy đến chỗ phải có hành động lịch sử. Tất cả những yếu tố đó là những tiền đề cho một cuộc cách mạng xã hội có thể nổ ra. Trong hoàn cảnh đó, các chính đảng, đội tiên phong chiến đấu của giai cấp vô sản được vũ hang bằng học thuyết Mác - Lênin, trên cơ sở nhận thức rõ tình thế và thời cơ cách mạng, nắm vững quan điểm về bạo lực cách mạng, phát động quần chúng đứng lên làm cách mạng, đập tan chính quyền của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản đưa đến việc thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, cách mạng vô sản cũng có thể xảy ra ở những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở những nước này, yếu tố dân tộc và thời đại có tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của nhân dân lao động. Khi xuất hiện những tiền đề kinh tế xã hội ở trong nước, cùng với sự tác động của yếu tố quốc tế, tạo điều kiện thuận lọi cho phong trào cách mạng của nhân dân lao động nổ ra và thắng lợi, xoá bỏ nhà nước cũ, thiết lập nhà nước của nhân dân lao động. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà đặc trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, chế độ công hữu không phải là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, công hữu về tư liệu sản xuất phải được coi là mục tiêu cần đạt tới của chủ nghĩa xã hội. Quá trình công hữu hoá tư liệu sản xuất hoàn toàn tùy thuộc vào quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Cơ sở xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, trong đó nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Trong thời kì đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp thống trị cũ mới chỉ bị lật đổ khỏi địa vị cầm quyền, vẫn còn nuôi dưỡng âm mưu chống đối nhân dân lao động một cách quyết liệt. Bởi vậy, đấu tranh giai cấp trong thời kì cách mạng mới thành công còn hết sức gay gắt. Dần dần, khi nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng chứng tỏ sức sống và sự thắng lợi của mình, giai cấp thống trị cũ ngày càng được giáo dục, cải tạo, chúng sẽ dần từ bỏ âm mưu chống đối, đối kháng giai cấp vì thế giảm dần từng bước. Khi đó, trong xã hội vẫn còn có các giai cấp, tầng lớp có lợi ích không hoàn toàn giống nhau nhưng không đối lập nhau mà cơ bản là thống nhất với nhau. Các nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã tồn tại như một hệ thống trong thế kỉ XX, có khả năng đối trọng mạnh mẽ với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, hàng loạt các nước khác trên thế giới cũng định hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa như Angola, Mozambic, Nicaragoa, Lào, Mông cổ... Do mắc phải những hạn chế sai lầm về nhiều mặt nên cuối thế kỉ XX, Liên Xô và các nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã. Trước thực trạng đó, nhiều người tỏ ra hoài nghi về quy luật phát triển xã hội mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của học thuyết Mác - Lênin mà “đó là sụp đổ của một mô hình lỗi thời được phổ biến ở nhiều nước tới mức đồng dạng”' mà những nước này lựa chọn. Công cuộc cải cách, đổi mới của Trung Quốc, Việt Nam thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đã là một thực tiễn sinh động để khẳng định:
Mặc dù “hiện nay, chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng tự điều hoà để làm dịu đi những mâu thuẫn nội tại và còn dựa được vào nguồn của cải đồ sộ bóc lột từ mẩy thế ki nay để tiếp tục làm giàu và tiếp tục đưa vào cơ thể những kích thích tố giúp nó vượt qua những cơn khủng hoảng”. Song, nhìn lại xã hội loài người từ khi xuất hiện chế độ tư hữu, một điều dễ nhận thấy, lịch sử phát triển xã hội gắn liền với quá trình xã hội hoá tư liệu sản xuất và đấu tranh để giải phóng con người. Chính vì vậy, có cơ sở để khẳng định rằng, loài người nhất định sẽ phát triển đến một giai đoạn mà tư liệu sản xuất xã hội sẽ hoàn toàn thuộc sở hữu chung của toàn xã hội, khi đó sẽ không còn áp bức bất công, không còn tình trạng người này chiếm đoạt thành quả lao động của người khác. Cách mạng là con đường đạt tới xã hội đó, tuy nhiên, cần lưu ý rằng:
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập) Chủ nghĩa xã hội Vs. Chủ nghĩa tư bản là một trong những chủ đề được tranh luận cao trong thảo luận nhóm. Đây là hai hệ thống kinh tế phổ biến tại hoặc được áp dụng bởi các quốc gia khác nhau trên thế giới. Chủ nghĩa tư bản là hệ thống chính trị cổ đại, có nguồn gốc từ năm 1400 sau Công nguyên ở châu Âu. Trái lại, Chủ nghĩa xã hội, được phát triển từ năm 1800 sau Công nguyên và nơi xuất phát của nó là Pháp. Một nền kinh tế tư bản được đặc trưng với thị trường tự do và ít sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, trong đó ưu tiên hàng đầu được dành cho vốn. Trái ngược với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đề cập đến tổ chức xã hội, được đặc trưng bởi sự bãi bỏ các quan hệ giai cấp và do đó coi trọng con người hơn. Vì vậy, ở đây chúng tôi đã trình bày cho bạn tất cả sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, có thể giúp bạn quyết định hệ thống nào là tốt nhất. Biểu đồ so sánh
Định nghĩa của chủ nghĩa tư bảnChủ nghĩa tư bản được định nghĩa là một hệ thống kinh tế trong đó các phương tiện sản xuất, thương mại và công nghiệp được sở hữu và kiểm soát bởi các cá nhân hoặc tập đoàn tư nhân để kiếm lợi nhuận. Còn được gọi là nền kinh tế thị trường tự do hoặc nền kinh tế laissez-faire. Theo hệ thống chính trị này, có sự can thiệp tối thiểu của chính phủ, trong các vấn đề tài chính. Các yếu tố chính của một nền kinh tế tư bản là tài sản tư nhân, tích lũy vốn, động cơ lợi nhuận và thị trường cạnh tranh cao. Các đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản như dưới đây:
Định nghĩa chủ nghĩa xã hộiKinh tế xã hội chủ nghĩa hay Chủ nghĩa xã hội được định nghĩa là một nền kinh tế trong đó các nguồn lực được sở hữu, quản lý và điều tiết bởi Nhà nước. Ý tưởng trung tâm của loại hình kinh tế này là tất cả mọi người đều có quyền tương tự và theo cách này, mỗi người đều có thể gặt hái thành quả của kế hoạch sản xuất. Khi các nguồn lực được phân bổ, theo hướng của cơ quan tập trung, đó là lý do tại sao nó cũng được gọi là Nền kinh tế chỉ huy hoặc Kinh tế kế hoạch tập trung. Theo hệ thống này, vai trò của các lực lượng thị trường là không đáng kể trong việc quyết định phân bổ các yếu tố sản xuất và giá cả của sản phẩm. Phúc lợi công cộng là mục tiêu cơ bản của sản xuất và phân phối sản phẩm và dịch vụ. Các đặc điểm nổi bật của Chủ nghĩa xã hội như sau:
Sự khác biệt chính giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hộiSau đây là những khác biệt chính giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
Phần kết luậnNhư chúng ta đều biết rằng mỗi đồng tiền đều có hai khía cạnh, một là tốt và hai là xấu và tương tự là trường hợp của hai hệ thống kinh tế. Rất khó để nói hệ thống nào tốt hơn hệ thống kia. Chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự phát triển của nền kinh tế của đất nước cùng với việc tạo ra của cải nhưng nó ủng hộ sự phân biệt giữa những người có và không có. Chủ nghĩa xã hội lấp đầy khoảng cách giàu nghèo, và làm cho mọi thứ có sẵn cho tất cả mọi người, nhưng đồng thời, nó xóa sạch sự khuyến khích để làm việc chăm chỉ, do đó Tổng sản phẩm quốc nội rơi xuống và mọi người đều trở nên nghèo. Theo tôi, sự kết hợp của hai nền kinh tế là nền kinh tế hỗn hợp tốt nhất, chấp nhận giá trị của cả hai. Nó có thể giúp đất nước phát triển và thịnh vượng cùng với khoảng cách ít hơn giữa những người có và không có. Sẽ có một quan hệ đối tác công-tư trong nền kinh tế và giá cả được quản lý tồn tại. |