Trong triết học của Hegel giữa tinh thần và tự nhiên quan hệ với nhau như thế nào

Tổng quan triết học Hegel (Kỳ 1)

Lê Tử Thành
10:58 CH @ Thứ Bảy - 30 Tháng Sáu, 2018

I. Khái quát về triết học Hegel

Có thể nói rằng, kể từ Hegel, triết học bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của con người sống trong lịch sử và tạo nên lịch sử. Trước đây Platon và Aristote, với quan niệm về một vũ trụ có bản tính bất biến và vĩnh cửu, đã không quan tâm tới lịch sử. Hay nói đúng, thời gian đối với họ có nghĩa lý gì khi mà mọi vật muôn đời vẫn thế?

Đến Descartes và Kant, triết học được xem đã chuyển qua một hướng khác, hướng của con người nỗ lực giành lại quyền làm chủ thiên nhiên và đề cao tự do của con người. Tuy nhiên, con người của Descartes và Kant vẫn còn lầm lì quá, thế giới của họ vẫn còn tĩnh quá. Phải đợi tới Hegel, ta mới thấy thế giới thực sự chuyển động, thời gian mới trôi chảy một cách liên tục và con người mới rõ mặt là chủ nhân đã tác tạo nên vũ trụ và lịch sử của chính mình. Cho nên điểm son trong triết học Hegel chính là ở chỗ đã khám phá ra con người và thế giới đang hình thành và tiến hóa trong thời gian.

Thế nhưng trước khi đi sâu vào tư tưởng của Hegel, thiển nghĩ cần phải lưu ý ngay ở đây rằng: Triết Hegel là một triết học duy tâm và lịch sử của vũ trụ vạn vật, nói cho cùng chỉ là lịch sử của Tinh Thần trên đường tự giác mà thôi.

Trong triết học của Hegel giữa tinh thần và tự nhiên quan hệ với nhau như thế nào

Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) là một nhà triết học người Đức.

.

1. Chủ trương duy tâm của Hegel

Hegel chủ trương rằng chỉ có một thực tại duy nhất là Tinh Thần Tuyệt Đối (hay Ý Tưởng Tuyệt Đối) là căn nguyên phát sinh ra tất cả vũ trụ vạn vật. Đó là thực tại duy nhất và tự tại chứ không có bất cứ ai tác tạo nên. Nó là một thực thể thuần nhất nhưng lại chứa bên trong một mầm mâu thuẫn. Chính mầm mâu thuẫn ấy đã khiến Ý Tưởng Tuyệt Đối phải rời bỏ trạng thái thường tịch nguyên thủy, tự tha hóa để bước vào lịch trình hiện tượng hóa.

Lịch trình này trải qua nhiều giai đoạn: giai đoạn khoáng vật, thực vật, động vật rồi đến người. Ở giai đoạn khoáng vật Ý Tưởng Tuyệt Đối hầu như còn đắm chìm trong thứ vật chất vô tri giác, còn bị tha hóa một cách trầm trọng nên ta không thấy có chút dấu vết gì khả dĩ gọi là có tự do trong loài đất đá. Đến giai đoạn thực vật, ý niệm tự do mới phảng phất xuất hiện, bởi lẽ loài cây cỏ đã tỏ ra có khả năng lựa chọn, chẳng hạn lựa chọn để hướng về phía có mặt trời. Tới loài động vật thì ý niệm tự do đã phát triển vượt xa hẳn loài thực vật. Và đến người thì ý niệm đó phát triển trọn vẹn. Đây cũng là giai đoạn con người có ý thức về mình và giác ngộ rằng chính Tinh Thần đã tác tạo nên tất cả mọi mặt.

Vậy là sau khi rời bỏ trạng thái nguyên thủy, chuyển vào lịch trình hiện tượng hóa, Tinh Thần Tuyệt Đối theo luật mâu thuẫn, biến thành vô số lịch trình biện chứng, mỗi lịch trình luôn luôn gồm có 3 nhịp: Chính đề, Phản đề và Tổng đề. Cứ như thế Ý Tưởng xuất hiện thành muôn và hiện tượng trong vũ trụ.

Tuy nhiên lịch trình hiện tượng hóa của Tinh Thần Tuyệt Đối không phải là một đường thẳng mà là một đường vòng tròn ốc bởi vì Ý Tưởng ở trạng thái uyên nguyên (chính đề), sau khi chuyển vào các hiện tượng (phản đề), tiến đế cực độ thì lại sẽ quay trở về trạng thái uyên nguyên thuần nhất (hợp đề). Trạng thái uyên nguyên trước kia vì nay đã được bồi dưỡng bởi những kinh nghiệm tích lũy trong quá trình hiện tượng hóa và cuối cùng tự giác được rằng “mình là Tuyệt Đối”.

Như thế chúng ta thấy rằng, khởi thủy Tinh Thần chưa tự biết mình. Tinh Thần chỉ đạt được tự giác, sau khi đã trải qua cuộc tiến hóa trong lịch sử. Cho nên mọi thực tại (thế giới vật chất, văn minh, nghệ thuật, triết lý, tôn giáo, nhà nước…) chỉ là những biểu lộ của Tinh Thần trong lịch sử tiến về tự giác mà thôi. Vậy khi Tinh Thần tìm hiểu thế giới bên ngoài thì không có nghĩa là Tinh Thần đã hiểu những gì khác với mình, mà thực ra chỉ là tìm hiểu chính mình qua những biểu lộ ra bên ngoài. Thường tình, chúng ta chỉ biết mình là kẻ sáng tạo khi đứng trước tác phẩm đã hoàn thành của mình, thì ở đây cũng vậy, tinh thần cũng chỉ có thể tự giác khi đứng trước những hình thái tồn tại khác nhau của mình ở trong vũ trụ.
Tóm lại, nói gì mặc lòng, triết Hegel bản chất vẫn là một triết học duy tâm. Bởi vì đối với Hegel, chỉ có Tinh Thần Tuyệt Đối là thực thể duy nhất và là nguồn gốc uyên nguyên của mọi sự trên đời này.

Trong triết học của Hegel giữa tinh thần và tự nhiên quan hệ với nhau như thế nào

.

2. Logic biện chứng của Hegel

Logic học là một môn học nhằm xác định những quy luật và hình thức tư duy chính xác trong việc nhận thức chân lý. Thế nhưng từ logic hình thức của Aristote bước sang logic biện chứng của Hegel, chúng ta thấy có một khác biệt lạ lùng: logic hình thức thì “tĩnh” phản ánh thế giới hoàn toàn im lìm, bất động còn logic biện chứng lại “động” phản ánh thế giới luôn luôn biến đổi khác với trước. Logic hình thức đặt nền tẳng trên nguyên lý đồng nhất và tối kị mâu thuẫn. Trái lại, logic biện chứng lại đề cao nguyên lý mâu thuẫn, coi mâu thuẫn như là điều kiện của mọi tiến bộ trong vũ trụ.

Hegel quan niệm rằng sự vật nào cũng luôn luôn biến dịch theo luật biến chứng, tức theo một quá trình gồm 3 nhiệp: chính đề (tức quyết thể), phản đề (hủy thể) và hợp đề (hủy thể của hủy thể). Như vậy, mâu thuẫn xuất hiện ở nhịp hai để phá vỡ tình trạng hiện có, đưa sự vật đến một tình trạng hoàn hảo hơn. Chẳng hạn tình trạng mù chữ (chính đề) phải bị hủy đi bằng sự học đọc học viết (phản đề) thì ta mới trở thành người biết chữ (hợp đề). Nhưng tình trạng mới biết đọc biết viết sẽ bị vượt qua để tiến tới một tình trạng có kiến thức cao hơn. Do đó, mọi vật muốn tiến bộ, phải hủy tình trạng cũ để đạt đến tình trạng mới; rồi lại hủy tình trạng mới để đạt đến tình trạng mới hơn nữa… Cứ thế sự vật biến dịch đến vô tận cho đến khi Tinh Thần Tuyệt Đối tự giác mình là Tuyệt Đối.

Vậy không có vật nào giữ mãi ở trạng thái lầm lì, bất biến. Dù là đất đá vô tri giác cũng vẫn thay đổi như thường. Dù là đất đá vô tri giác cũng vẫn thay đổi như thường. Cho nên có thể quyết rằng mọi vật, nhanh hay chậm, bao giờ cũng đổi ra khác. Và động lực biến chúng ra thành khác chính là do ở sức mâu thuẫn ẩn chứa trong mỗi sự vật.

Nhưng theo Hegel, các sự vật sau khi tiến qua chính đề và phản đề để đạt tới tình trạng hoàn hảo hơn ở hợp đề thì chân lý trong mỗi trường hợp đó cũng chỉ là một chân lý phiến diện, thiếu hụt, chưa tròn đầy. Bởi vì mỗi hợp đề như vậy rồi sẽ trở thành một chính đề mới và sẽ lại bị hủy bởi một phản đề khác. Cho nên cái chân lý lý tưởng, đối với Hegel, phải là một chân lý “toàn diện”. Cái chân lý ấy chỉ xuất hiện ở tận cùng lịch sử, ở một “nhịp ba tối cao”, bao trùm hết mọi đối nghịch và mâu thuẫn trong vũ trụ. Đó là lúc, sau khi trải qua hết cuộc hành trình của số kiếp, Tinh Thần Tuyệt Đối nhận ra mình: nhận ra rằng mình là nguồn gốc của mọi mâu thuẫn và biến dịch ở đời, mình là tác giả của mọi vật trong vũ trụ.

(Còn nữa)


Về tác giả:
Lê Tử Thành, sinh năm 1942 tại Đà Nẵng
Trong triết học của Hegel giữa tinh thần và tự nhiên quan hệ với nhau như thế nào

.
  • Bút hiệu: Lê Hồng Đức, Trường Thành, Quan Điểm, Vạn Lý, Nguyễn Thị Ngọc Thắm
  • Đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Tư Tưởng, Nghiên cứu Việt Nam, Văn Học, Thiện Mỹ, Trình Bày, Văn Mới...
  • Tốt nghiệp cao học triết học (thạc sĩ) tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn năm 1966.
  • Giảng dạy triết học phương Tây, Logic học, Phương pháp luận nghiên cứu Khoa học (ở bậc Đại học và sau Đại học)
  • Trước 1975: Đại học Văn khoa Sài Gòn, Đại học Cần Thơ, Đại học Vạn hạnh, Đại học Tây Ninh.
  • Sau 1975: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Cần Thơ, Đại học Kinh tế, Đại học Luật, Đại học Kiến trúc, Đại học Mở Bán công, Đại học Văn Lang, Đại học Hùng Vương, Đại học Văn Hiến, Đại học Bình Dương, Đại học Yersin Đà Lạt
.
* Tác phẩm đã xuất bản:
  • Đại cương triết học cận đại (1973)
  • Đưa vào triết học (1973)
  • Tìm hiểu Logic học (1991)
  • Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học (1991)
  • Nhập môn Logic học (2004)
  • Người đàn bà huyền thoại (2013)
LinkedInPinterestCập nhật lúc:12:22 CH @ 02/07/2018
triết họctư duyduy tâmbiện chứngHegel

Về khái niệm "tinh thần tuyệt đối" trong triết học Hêghen

28/07/2018

Luận giải và làm rõ nội dung của khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” trong triết học Hêghen, trong bài viết này, trước hết tác giả bài viết đã làm rõ vị trí của khái niệm này trong Triết học tinh thần của ông, đồng thời luận giải quá trình đi từ nhận thức cái Tuyệt đối đên nhận thức cái Tinh thần ở ông. Với Hêghen, cái Tinh thần là sự thống nhất giữa ý thức và tự ý thức, là quá trình nó tự vận động, sự biểu hiện và tự nhận thức mình theo tính tất yếu và đó chính là Ý niệm đã trở lại với chính mình; Tinh thần tuyệt đối là sự “dung hoà hoàn hảo” giữa tự nhiên và tinh thần, giữa tinh thần chủ quan và tinh thần khách quan – sự dung hoà của tất cả các mặt đối lập trong quá trình nhận thức tính tất yếu của nó, là tư duy của tinh thần về chính bản thân mình với tư cách chân lý tuyệt đối, vừa là kết quả vừa là quá trình tinh thần tự nhận thức bản thân mình thông qua con người, xã hội loài người và lịch sử. Tiếp đó, tác giả bài viết đưa ra những nhận xét sơ bộ về khái niệm Tinh thần tuyệt đối của Hêghen.

Đối với Hêghen (1770-1831), triết học là tinh hoa tinh thần của thời đại, là thời đại thể hiện dưới hình thức tư tưởng. Triết học Hêghen đã phản ánh sâu sắc những biến động mang tính cách mạng của thời đại ông, đặc biệt là sự khủng hoảng của xã hội phong kiến Tây Âu trước sự xuất hiện của một xã hội mới, xã hội tư bản chủ nghĩa và các thành tựu của nhận thức khoa học ngày càng làm phá sản các quan niệm siêu hình. Ngay trong Lời nói đầu của Hiện tượng học tinh thần (1807) – tác phẩm đánh dấu bước ngoặt của triết học Hêghen, ông đã viết: “Dễ dàng nhận thấy thời đại chúng ta là thời đại xuất hiện và đang chuyển biến sang một giai đoạn mới. Tinh thần đã đoạn tuyệt với tồn tại và với cả quan niệm về thế giới trước đây, thậm chí nó còn sẵn sàng nhấn chìm tồn tại đó vào quá khứ và tiến hành tự cải biến mình”(1). Vốn là nhà triết học duy tâm, khi lý giải về cá nhân, xã hội và lịch sử, Hêghen đã dành cho “tinh thần” nói riêng, Triết học tinh thần nói chung một vai trò đặc biệt trong hệ thống triết học của ông, trong đó “tinh thần” phải trải qua quá trình tự vận động và phát triển đầy “khổ đau” và “bi đát” để vươn tới “Tinh thần tuyệt đối”.

Chính vì vậy, mỗi khi đề cập tới nền tảng và bản chất của hệ thống triết học Hêghen, người ta không thể không nói tới khái niệm căn bản - “Tinh thần tuyệt đối” mà theo chúng tôi, chỉ có thể hiểu được trong mối quan hệ với toàn bộ hệ thống đã được Hêghen dày công xây dựng và và xem nó như là kết quả của sự tự nhận thức “triết học” và như là sự hiện thân của “lịch sử thế giới”. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày một số nội dung chính của khái niệm “Tinh thần tuyệt đối”.

Hêghen cho rằng, do “chân lý là chỉnh thể” nên tri thức phải là một hệ thống và đó cũng là cách trình bày duy nhất có thể có của khoa học (được hiểu là triết học). Với quan niệm này, ông đã trình bày hệ thống triết học của mình một cách cô đọng và hoàn chỉnh trong Bách khoa thư các khoa học triết học(2), bao gồm ba phần: I. Lôgíc học - khoa học về ý niệm tự nó và cho nó;II. Triết học tự nhiên - khoa học về ý niệm trong tồn tại khác của nó; và III. Triết học tinh thần - khoa học về tinh thần với tư cách ý niệm tự trở về với bản thân mình từ tồn tại khác của mình.

Tuy nhiên, theo Hêghen, sự phân chia đó chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi cả ba “khoa học đặc thù” ấy đều chỉ là các “tính quy định của ý niệm” và do vậy, chúng có quan hệ hữu cơ với nhau như những bộ phận của một chỉnh thể. Và, trong hệ thống triết học của mình, Hêghen đã cố gắng giải quyết những vấn đề triết học căn bản, xuất hiện từ triết học của các bậc tiền bối, như sự đối lập giữa chủ thể nhận thức và thế giới, giữa giới tự nhiên và sự tự do, giữa cá nhân và xã hội, giữa tinh thần hữu hạn và tinh thần vô hạn.

Mục đích của triết học, theo Hêghen, là nhận thức cái Tuyệt đối. Nói cách khác, cái Tuyệt đối được ông coi là đối tượng duy nhất của triết học. Rõ ràng rằng, khái niệm “cái Tuyệt đối” đã được Hêghen kế thừa trực tiếp từ Triết học đồng nhất của Sêlinh, được hiểu là sự đồng nhất giữa chủ thể và khách thể, giữa tinh thần và hiện thực, giữa nội dung và hình thức. Ông coi Triết học đồng nhất của Sêlinh, trong đó “giới tự nhiên là tinh thần nhìn thấy, còn tinh thần là giới tự nhiên không nhìn thấy”, là chủ nghĩa duy tâm khách quan. Ông đánh giá cao việc Sêlinh đã hợp nhất quan niệm coi giới tự nhiên như một thực thể trong triết học Xpinôda với cái Tôi tuyệt đối của Phíchtơ và thừa nhận nhà triết học này là người có công đầu trong việc đặt ra vấn đề về sự đồng nhất. Tuy vậy, theo Hêghen, hạn chế cơ bản của Sêlinh là ở chỗ, trong triết học của ông, sự đồng nhất đó chỉ có thể được nhận thức nhờ trực giác trí tuệ (intellektuelle Anschauung) và do vậy, ông chỉ mới đưa ra định nghĩa về cái Tuyệt đối chứ “không chứng minh được nó là chân lý”(3). Sêlinh đã không chỉ ra được tính tất yếu của tiến trình phát triển lôgíc theo các quy tắc biện chứng trong học thuyết của mình và do vậy, cái Tuyệt đối ở ông, như Hêghen nhận xét một cách châm biếm, đã xuất hiện nhanh “như viên đạn bắn ra khỏi nòng súng vậy”. Hêghen cho rằng, cái Tuyệt đối phải được nhận thức nhờ tư duy - tư duy theo cách hiểu của riêng ông - dưới “hình thức lôgíc”. Và, chúng ta cần phải hiểu bản thân cái Tuyệt đối là một “sự vận động tự vượt bỏ chính mình thông qua mâu thuẫn giữa các mặt đối lập”, tức là một quá trình.

Người ta vẫn cho rằng, cái Tuyệt đối không có khả năng phát triển. Trái ngược với quan niệm ấy, Hêghen khẳng định rằng, chẳng có gì là mâu thuẫn khi cái Tuyệt đối tự phát triển. Giống như một cơ thể sống, một mặt, nó vẫn là chính nó và, mặt khác, vẫn đang phát triển, cái Tuyệt đối, theo Hêghen, cũng vậy, chỉ có điều là, khác với cơ thể sống là cái nhận được chất liệu cho sự phát triển của mình từ bên ngoài (được hiểu là giới tự nhiên), cái Tuyệt đối tự sáng tạo ra chất liệu cho sự phát triển của mình từ chính bản thân mình.

Ý niệm, về bản chất, là một quá trình thường xuyên giải quyết mâu thuẫn trong bản thân mình để hướng tới Ý niệm tuyệt đối. Phần thứ nhất của Bách khoa thư đã được Hêghen kết thúc ở sự nhận thức Ý niệm tuyệt đối với tư cách lôgíc học và siêu hình học. Kết quả cuối cùng này của khoa học lôgíc lại được Hêghen lấy làm “sự khởi đầu cho một lĩnh vực khác và cho một khoa học khác”. Bởi lẽ, theo ông, cho dù bản thân Ý niệm tuyệt đối, trong sự hoàn tất của nó như tổng thể tuyệt đối của chân lý, vẫn còn “bị giam hãm trong tính chủ quan (Subjektivität)”(4) và nó “quyết định thả tự nhiên ra khỏi bản thân mình”(§ 244, tr.393). Do vậy, giới tự nhiên không phải là cái đứng “đối diện” với Ý niệm và giữa Ý niệm với tự nhiên (cũng như giữa lôgíc học và triết học tự nhiên) không có một hố sâu nào ngăn cách chúng.

Triết học tinh thần phải nối tiếp Triết học tự nhiên vì tinh thần là “mục đích” của quá trình tự nhiên. Hêghen nói một cách hình ảnh rằng, mục đích của giới tự nhiên là “tự mình kết liễu mình, tự mình đốt cháy mình” để rồi, từ trong đống tro tàn ấy, “con phượng hoàng lửa” vùng dậy trở thành tinh thần. Tuy nhiên, bước chuyển từ tự nhiên sang tinh thần không phải là bước chuyển sang một cái gì đó khác, mà chỉ là “sự quay trở lại chính mình của tinh thần đang tồn tại ở bên ngoài mình trong tự nhiên”(§381, tr.25). Theo chúng tôi, quan niệm này của Hêghen đã bộc lộ rõ tính chất duy tâm, thần bí trong triết học của ông. Song, nếu đọc Hêghen một cách duy vật (như V.I.Lênin đã dạy) thì ở ông, toát lên một tư tưởng quan trọng: mối quan hệ khăng khít, gắn bó hữu cơ giữa con người và giới tự nhiên.

Triết học tinh thần là quan niệm của Hêghen về tư duy với tất cả tính toàn vẹn và sâu sắc của nó. Ở đây, tư duy vẫn giữ lại tính chất “duy lôgíc” ban đầu và đồng thời triển khai trên cơ sở “tinh thần hiện thực” những nội dung phong phú của mình, nhận được một ý nghĩa cụ thể, “hiện thực hoá khái niệm của bản thân mình”(5). Chính Triết học tinh thần (trong lĩnh vực tinh thần tuyệt đối) đã đem lại sự “kết thúc” cho quá trình phát triển đó – mọi mục đích định trước được “hiện thực hoá”, cái lôgíc và tư duy ở các hình thức cao nhất của mình “quay trở về” với bản thân mình.

Nhận thức về tinh thần, theo Hêghen, là nhận thức “cụ thể nhất và do vậy, là cao nhất và khó khăn nhất”. Khó khăn xuất hiện là do chúng ta không còn ở ý niệm lôgíc trừu tượng và đơn giản nữa, mà đã ở hình thức cụ thể nhất và phát triển nhất mà Ý niệm đạt tới trong sự hiện thực hoá bản thân mình. Đối với ông, nhận thức về tinh thần chính là nhận thức về bản chất của con người, vì bản thân con người, về thực chất, chính là tinh thần. Bởi vậy, Triết học tinh thần, theo Hêghen, còn có ý nghĩa là “tri thức về con người”.

Sự khảo sát tinh thần, theo Hêghen, chỉ có ý nghĩa triết học, nếu nó “hiểu được tinh thần với tư cách là sự phản ánh của ý niệm vĩnh cửu”(§377, tr.9). Mọi hoạt động của tinh thần là sự nắm bắt chính bản thân mình và mục đích của mọi khoa học chân chính chỉ là việc “tinh thần, ở khắp nơi, trên bầu trời và dưới mặt đất, tự nhận thức chính bản thân mình mà thôi”. Đưa ra quan niệm này, song Hêghen lại phủ nhận khả năng nhận thức tinh thần của tâm lý học. Theo ông, chỉ có triết học tư biện mới có khả năng nhận thức được bản chất của tinh thần cũng như sự vận động và phát triển tất yếu của nó. “Cái tư biện” (das Spekulative) không có nghĩa chỉ là một cái “hoàn toàn chủ quan” theo ý nghĩa thông thường của từ này, mà là “cái bao chứa trong mình những mặt đối lập đã được vượt bỏ và ở đó, lý trí phải dừng bước, (như vậy là cả sự đối lập giữa cái chủ quan và cái khách quan), và do vậy, đồng thời chứng tỏ mình là cụ thể, là chỉnh thể”(§82, tr.178).

Khác với sự phát triển của các sự vật, chẳng hạn như mầm cây (ví dụ của Hêghen), sự phát triển của tinh thần là sự “quay trở về với chính mình”, tức là sự hoà nhập làm một của điểm khởi đầu và điểm cuối, trong đó tinh thần đạt đến đích khi mà “khái niệm của chính nó đã tự hiện thực hoá một cách toàn mỹ”. Theo Hêghen, chỉ khi nào chúng ta xem xét tinh thần trong một quá trình như vậy thì chúng ta mới nhận thức được “tinh thần trong chân lý của nó”. Và, bởi tinh thần, về bản chất và trước hết, là “hoạt động”, cho nên, ở Hêghen, lịch sử chỉ là lịch sử của tinh thần. Bản chất của tinh thần là tự do, vì “chân lý làm cho tinh thần trở nên tự do..., còn tự do làm cho tinh thần trở nên chân thực”(§382, tr.26).

Theo Hêghen, tinh thần có giới tự nhiên là tiền đề, nhưng tinh thần là “chân lý của tự nhiên”. Do vậy, ông đã bác bỏ mọi sự phát triển của giới tự nhiên và cho rằng, trong lĩnh vực ấy chỉ có “sự vận động tuần hoàn mà thôi”. Nói cách khác, chỉ trong tinh thần mới có sự phát triển, còn giới tự nhiên “phi tinh thần” thì không có khả năng tự vận động và tự phát triển theo đúng nghĩa của các từ này. Điều này cho thấy, triết học Hêghen thể hiện ra là duy lôgíc và trong triết học đó, Hêghen vẫn còn dựa vào tư tưởng của Xpinôda khi cho rằng, ý niệm lôgíc là “thực thể tuyệt đối” của tinh thần cũng như của giới tự nhiên và nó là cái phổ biến, thấm sâu vào tất cả. Song, ở Hêghen, “thực thể” không cứng đờ và thụ động như ở Xpinôda, mà còn là “chủ thể” đầy sống động, tức là mang tính tích cực, tự phát sinh và tự phát triển.

Như vậy, ở Hêghen, khái niệm “Tinh thần” được hiểu là sự thống nhất giữa ý thức và tự ý thức, là quá trình nó tự vận động, tự biểu hiện và tự nhận thức mình theo tính tất yếu. Tinh thần được Hêghen thần bí hoá và theo ngôn ngữ của ông, nó là “Ý niệm hiện thực tự hiểu biết về bản thân mình”, hay nói cách khác, tinh thần chính là Ý niệm đã trở lại với chính mình và nhiệm vụ của Triết học tinh thần là luận chứng cho “sự tất yếu ấy”. Với quan niệm này, Hêghen đã đi tới kết luận: “Cái Tuyệt đối là tinh thần; đó là định nghĩa cao nhất của cái Tuyệt đối. Người ta có thể nói rằng, việc tìm ra định nghĩa ấy và hiểu được ý nghĩa và nội dung của nó là khuynh hướng tuyệt đối của mọi nền giáo dục và mọi học thuyết triết học; tất cả các tôn giáo và khoa học đều tập trung vào điểm này và chỉ từ đó, ta mới có thể hiểu được lịch sử thế giới”(§384, tr.29).

Sự phát triển của “Tinh thần” trải qua ba thang bậc từ thấp đến cao, thang bậc sau bao hàm trọn vẹn thang bậc trước : 1) Tinh thần chủ quan - tinh thần trong quan hệ với chính bản thân mình, là đối tượng nghiên cứu của nhân học, hiện tượng học và tâm lý học. Học thuyết về tinh thần chủ quan bàn về cuộc sống của từng con người đơn lẻ; 2) Tinh thần khách quan - tinh thần dưới hình thức của thực tại (Realität) thể hiện trong pháp luật, luân lý và đạo đức. Vương quốc của tinh thần khách quan là gia đình, xã hội (công dân) và nhà nước; 3) Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất (tồn tại tự nó và cho nó) giữa tính khách quan của tinh thần và khái niệm của nó, là tinh thần trong chân lý tuyệt đối của mình, biểu hiện ở nghệ thuật, tôn giáo và triết học.

Do khuôn khổ của bài viết, chúng tôi không có điều kiện trình bày và phân tích sâu hơn tư tưởng của Hêghen về Tinh thần chủ quan và Tinh thần khách quan, mà chỉ muốn lưu ý đến quan niệm của ông về mối quan hệ biện chứng giữa Tinh thần hữu hạn và Tinh thần tuyệt đối, giữa cái hữu hạn và cái vô hạn. Theo Hêghen, cả Tinh thần chủ quan lẫn Tinh thần khách quan đều là hữu hạn, song không nên coi tính hữu hạn này là một “tính quy định cứng nhắc”, mà cần phải hiểu nó với tư cách chỉ là “một vòng khâu”. Trên thực tế, tinh thần là “cái vô hạn chân chính”, tức là cái vô hạn không đứng đối diện với cái hữu hạn một cách phiến diện, mà bao chứa cái hữu hạn trong bản thân mình. Với quan niệm biện chứng này, Hêghen đã phê phán mối quan hệ giữa cái Tôi và cái không - Tôi trong cái Tôi tuyệt đối của nhà triết học tiền bối Phíchtơ. Dưới nhãn quan của ông, cái Tôi tuyệt đối của Phíchtơ cũng là một cái vô hạn, nhưng là “cái vô hạn xấu”, vì đó chỉ là “cú va đập kéo dài đến vô tận giữa cái Tôi và cái không - Tôi”. Do vậy, nếu người ta thừa nhận có Tinh thần hữu hạn thì đó chỉ là “một sự diễn đạt trống rỗng”. Hêghen viết: “Tinh thần với tư cách tinh thần không phải là hữu hạn. Nó có tính hữu hạn nội tại, nhưng đó chỉ là một tính hữu hạn để vượt bỏ và đã được vượt bỏ mà thôi”(§386, tr.36). Tinh thần vừa là hữu hạn, vừa là vô hạn. Mặc dù vậy, cái hữu hạn không có chân lý và chân lý của Tinh thần hữu hạn là Tinh thần tuyệt đối.

Mối quan hệ lôgíc giữa khái niệm, tính khách quan và ý niệm trong Ý niệm tuyệt đối đã “định sẵn” mối quan hệ giữa Tinh thần chủ quan, Tinh thần khách quan và Tinh thần tuyệt đối. Vì thế, Tinh thần chủ quan chỉ là “khái niệm của Tinh thần tuyệt đối”, còn Tinh thần khách quan là “hiện thực (Wirklichkeit) với tư cách tồn tại hiện có của Ý niệm”(§482, tr.301). Tuy nhiên, cả khái niệm lẫn hiện thực đều là những hình thức phiến diện, những phương thức diễn đạt không hoàn hảo về Ý niệm đang trở lại với bản thân mình và chỉ có trong “sự thống nhất” giữa tính khách thể của tinh thần và khái niệm của nó (tức trong Tinh thần tuyệt đối) thì cả hai cái phiến diện ấy mới được khắc phục và khi đó, tinh thần mới tồn tại “trong chân lý tuyệt đối của mình”.

Trong cả ba hình thức của Tinh thần tuyệt đối (nghệ thuật, tôn giáo và triết học), sự khác biệt giữa Tinh thần chủ quan và Tinh thần khách quan, giữa khái niệm và hiện thực đã được vượt bỏ. Và, trong tất cả các lĩnh vực của Tinh thần tuyệt đối, tinh thần đều được giải phóng khỏi các giới hạn chật hẹp của “sự tồn tại bên ngoài của mình”. Ba vương quốc của Tinh thần tuyệt đối chỉ khác nhau về hình thức khi nhận thức đối tượng của mình - cái Tuyệt đối.

Hình thức trực giác cảm tính (sinnliche Anschauung) là đặc trưng của Nghệ thuật và ở đây, sự thống nhất giữa giới tự nhiên và tinh thần vẫn còn là một sự thống nhất “trực tiếp”. Nội dung của nghệ thuật là Ý niệm và hình thức của nó là sự trình bày cảm tính, bằng hình tượng. Cái đẹp không phải là “một sự trừu tượng của lý trí”, mà “nói đúng hơn, cái đẹp là Ý niệm tuyệt đối trong những biểu hiện phù hợp với bản thân mình”. Do vậy, vương quốc của nghệ thuật chính là vương quốc của Tinh thần tuyệt đối.

Hình thức nhận thức của Tôn giáo là biểu tượng, bởi cái Tuyệt đối ở đây đã chuyển từ tính khách thể của nghệ thuật sang đời sống nội tâm của chủ thể. Và, nếu như tác phẩm nghệ thuật cho phép ta nhận thức được cái Tuyệt đối dưới hình thức cảm tính, trực tiếp, thì tôn giáo còn bổ sung vào đó lòng sùng kính (Andacht) của chủ thể trước “khách thể tuyệt đối”. Do vậy, nghệ thuật, theo Hêghen, chỉ là một mặt của tôn giáo.

Khi chuyển từ biểu tượng cảm tính sang sự phản tư bằng lý trí và từ đó, sang tư duy bằng khái niệm thuần tuý, tôn giáo tự tuyên bố mình là Triết học. Do vậy, Triết học, về thực chất, là thần học duy lý và “không có một đối tượng nào khác ngoài Thượng đế”. Ở đây, Thượng đế đã được Hêghen lý giải một cách rất đặc biệt. Thượng đế trong tôn giáo mặc khải của ông không phải là Thượng đế cụ thể của Thiên Chúa giáo, mà là “tư duy thuần tuý”, là “tinh thần trong cộng đồng của mình”(§554, tr.366). Thượng đế là “tinh thần phổ biến, tinh thần bản chất, tuyệt đối” và do vậy, Tinh thần tuyệt đối không chỉ được xem xét về phương diện triết học lịch sử, mà còn cả về phương diện triết học tôn giáo. Đối với Hêghen, triết học có cùng một nội dung với tôn giáo, nhưng không phải với mọi tôn giáo nói chung, mà chỉ là với Thiên Chúa giáo. Bởi lẽ, theo ông, cả Tinh thần chủ quan, Tinh thần khách quan lẫn Tinh thần tuyệt đối đều biểu thị nội dung và luận chứng về lý luận cho biểu tượng “Chúa ba ngôi” của giáo lý Thiên Chúa giáo.

Triết học nắm bắt cái Tuyệt đối bằng hình thức khái niệm. Trong triết học, hai mặt tôn giáo và nghệ thuật đã được hợp nhất làm một (tức là tính khách thể của nghệ thuật và tính chủ thể của tôn giáo được hợp nhất lại). Và, ở đây, sự khác biệt giữa khái niệm và hiện thực của tinh thần đã được vượt bỏ và Tinh thần tuyệt đối không có một cấu trúc gì khác so với Ý niệm tuyệt đối. Nói cách khác, khi đó, Ý niệm tuyệt đối không còn là “cái lôgíc” nữa, mà đã bao chứa nội dung cụ thể của hiện thực trong bản thân mình và như vậy, đã trở thành Tinh thần tuyệt đối. Theo đó, khi nói về triết học Hêghen, người ta thường sử dụng hai khái niệm trụ cột - “Ý niệm tuyệt đối” và “Tinh thần tuyệt đối” - như những từ đồng nghĩa. Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ thuần tuý lôgíc, thì Ý niệm tuyệt đối không phải là Tinh thần tuyệt đối(6).

Trước khi kết thúc Bách khoa thư, Hêghen đã trình bày mối quan hệ giữa cái lôgíc, giới tự nhiên và tinh thần thông qua ba suy lý nổi tiếng. Suy lý thứ nhất: cái lôgíc là điểm khởi đầu và giới tự nhiên đứng giữa, bao hàm tinh thần trong bản thân nó; cái lôgíc trở thành giới tự nhiên và giới tự nhiên trở thành tinh thần; giới tự nhiên này, về bản chất, chỉ là “điểm trung gian” và là “một vòng khâu phủ định”. Suy lý thứ hai: tinh thần tự nó là cái trung giới của quá trình, giả định trước giới tự nhiên và nối kết nó với cái lôgíc. Suy lý thứ ba - suy lý cuối cùng - là ý niệm của triết học, nó cần tới “lý tính tự nhận thức mình” (die sich wissende Vernunft) đang tự phân đôi thành tinh thần và lấy giới tự nhiên làm trung gian. Bản chất của sự vật và khái niệm là tự vận động về phía trước, tự phát triển. Sự vận động này trở thành “hoạt động nhận thức mà ý niệm vĩnh cửu tồn tại tự nó và cho nó; tự hành động, sản sinh và thưởng ngoạn mình một cách vĩnh cửu với tư cách Tinh thần tuyệt đối”.

Quá trình diễn ra từ suy lý thứ nhất đến suy lý thứ ba - cũng đồng thời là toàn bộ hệ thống triết học Hêghen - không phải là quá trình phát triển thẳng tắp, mà là quá trình tự xoay vòng trong chính bản thân mình (“vòng tròn của các vòng tròn”(**)), tự phản tư về chính mình, tự trung gian hoá bản thân mình và trong triết học, Ý niệm tuyệt đối trở thành tinh thần tuyệt đối và Tinh thần tuyệt đối trở thành Ý niệm tuyệt đối, nghĩa là ở đây, chúng có nội dung như nhau. Như vậy, Tinh thần tuyệt đối biểu hiện ra là một sự dung hoà hoàn hảo giữa tự nhiên và tinh thần, giữa Tinh thần chủ quan và Tinh thần khách quan - sự dung hoà của tất cả các mặt đối lập trong quá trình nhận thức tính tất yếu của nó; là tư duy của tinh thần về chính bản thân mình với tư cách chân lý tuyệt đối(7). Tinh thần tuyệt đối vừa là kết quả, vừa là quá trình tinh thần tự nhận thức bản thân mình thông qua con người, xã hội loài người và lịch sử.

Qua những trình bày ở trên, có thể sơ bộ đưa ra một số nhận xét về khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” của Hêghen như sau:

Thứ nhất, xét về phương diện bản thể luận, khái niệm “Tồn tại” khi trải qua con đường phát triển biện chứng từ “Tồn tại thuần tuý” tới “Tinh thần tuyệt đối” đã cho thấy nó có nhiều cấp độ khác nhau và các cấp độ này bao chứa nhau từ thấp đến cao; ứng với các cấp độ ấy là các giá trị khác nhau và các giá trị này tăng tiến theo quá trình vận động của tinh thần, do tinh thần mang lại: ở thang bậc Tinh thần tuyệt đối, nó đạt tới giá trị cao nhất, vì Tinh thần tuyệt đối là “chân lý cụ thể nhất và cao nhất của mọi Tồn tại”. (Thực ra, quan niệm về tồn tại có nhiều cấp độ và có các giá trị tương ứng từ thấp đến cao đã xuất hiện trong lịch sử triết học, như ở Platôn, Aritxtốt, Tômát Đacanh, Lépnít..., nhưng ở Hêghen, nó mang sắc thái riêng: thể hiện tính biện chứng sâu sắc và tầm bao quát rộng lớn.)

Thứ hai, khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” biểu hiện nguyên lý chủ đạo của triết học Hêghen - nguyên lý đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa chủ thể và khách thể. Tuy nhiên, qua khái niệm này, Hêghen đồng thời chỉ ra rằng, sự đồng nhất giữa chủ thể và khách thể (tức cái Tuyệt đối, chân lý) chỉ đạt được thông qua một quá trình lâu dài, đầy khó khăn bằng việc “lột bỏ” các mâu thuẫn trong bản thân mình (tức là một quá trình biện chứng). Sự đồng nhất này được Hêghen luận chứng từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm khách quan, thần bí.

Thứ ba, với khái niệm “Tinh thần tuyệt đối”, Hêghen đã đề cập tới tính xã hội và tính lịch sử của các hình thức văn hoá tinh thần, nhưng do bị chế định trước bởi “bộ khung” lôgíc của hệ thống, nên về thực chất, các hình thức này chỉ là lôgíc học ứng dụng, là tư duy trừu tượng.

Thứ tư, khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” thể hiện sự tuyệt đối hoá tính tích cực của tinh thần, của tư duy và cho thấy tham vọng của Hêghen muốn xây dựng một hệ thống triết học vạn năng, đóng vai trò là “khoa học của các khoa học”; đồng thời, qua đó, chủ nghĩa duy lý truyền thống phương Tây đã được đẩy tới điểm tận cùng của nó.

Thay cho kết luận của bài viết, chúng tôi xin nhắc lại nhận xét xác đáng của C.Mác và Ph.Ăngghen về khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” của Hêghen trong Gia đình thần thánh: “Trong hệ thống của Hêghen có 3 yếu tố là thực thể của Xpinôda, tự ý thức của Phíchtơ và sự thống nhất mâu thuẫn tất nhiên của hai nhân tố trên ở Hêghen - tức Tinh thần tuyệt đối. Yếu tố thứ nhất là tự nhiên đã cải trang một cách siêu hình và thoát ly con người; yếu tố thứ hai là tinh thần đã cải trang một cách siêu hình và thoát ly tự nhiên; yếu tố thứ ba là sự thống nhất của hai yếu tố trên đã cải trang một cách siêu hình, tức con người hiện thực và loài người hiện thực”(8).


(*) Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ ChíMinh.

(1) G.W.F. Hêghen. Hiện tượng học tinh thần. Nxb Rếclam, Stútgát, 1996, tr. 16, (tiếng Đức).

(2) Tác phẩm này được Hêghen công bố lần đầu tiên vào năm 1817 tại Haiđenbéc. Sau đó, ông đã bổ sung và mở rộng qua hai lần tái bản vào các năm 1827 và 1830. Chúng tôi sử dụng các trích dẫn được đánh số theo thứ tự các mục § của bản tiếng Đức gồm ba tập (I-III), do Êva Môđenhauơ và Các Lútvích Misen biên soạn dựa trên nguyên tác năm 1830 của Hêghen. Nxb Giuakăm, Phrăngphuốc a. M. , 1996.

(3) G.W.F. Hêghen. Những bài giảng về lịch sử triết học, t.III. Nxb Giuakăm, Phrăngphuốc a. M., 1996, tr. 435 (tiếng Đức).

(4) G.W.F. Hêghen. Khoa học lôgích, t.II. Nxb Giuakăm, Phrăngphuốc a. M., 1996, tr. 572 (tiếng Đức).

(5) Xem: Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp. Vấn đề tư duy trong triết học Hêghen. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 102-103.

(6) Xem: T.Staihe. Khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” trong triết học G. W.Hêghen. Nxb EOS, Xanh Ốtiliên, 1992, tr. 145 (tiếng Đức).

(**) Với tư tưởng này, Hêghen tin là mình đã khắc phục được “cái vô hạn xấu” (ví dụ như trong triết học của Phíchtơ).

(7) Xem: T. Staihe. Sđd., tr. 193 –194 (tiếng Đức).

(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.211.



Trong triết học của Hegel giữa tinh thần và tự nhiên quan hệ với nhau như thế nào
Bình luận

HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC VỀ NGHỆ THUẬT CỦA G.W.F. HEGEL*

Tư liệu - Thăng Long Library
2022-01-13T07:03:40+07:00 2022-01-13T07:03:40+07:00 https://frs.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/tac-gia-tac-pham/hai-nguyen-ly-co-ban-trong-triet-hoc-ve-nghe-thuat-cua-g-w-f-hegel-62.html https://cdn.giaibainhanh.com/trong-triet-hoc-cua-hegel-giua-tinh-than-va-tu-nhien-quan-he-voi-nhau-nhu-the-nao--6c7822405747c12b1710a41cc3a2dd65.wepb
Bộ môn Tôn giáo học https://frs.ussh.vnu.edu.vn/uploads/drs/logo_tgh2.png
Thứ sáu - 04/06/2021 07:17
* Georg Wilhem Friedrich Hegel (1770 - 1831) - triết gia duy tâm khách quan, và là người đại diện tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức. Tác giả bài viết: Việt Nữ Tâm Anh - Bộ môn Tôn giáo học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Bài đã in trong cuốn sách "Tương tác mở trong mỹ học Việt Nam đương đại" (Tủ sách Mỹ học Việt Nam đương đại), tr. 533-548.
Trong triết học của Hegel giữa tinh thần và tự nhiên quan hệ với nhau như thế nào
Tượng tổ thiền tông Ấn độ đời thứ 18 - Tôn giả Gayasata (Già-da-xá-đa). Ảnh. M.T


1. Dẫn nhập

Theo tác giả Frank Whaling trong bài "Những cách tiếp cận thần học" thì:“Mỗi truyền thống đều có đủ 8 thành phần này, nhưng dành cho mỗi thành phần đó một tầm ảnh hưởng khác nhau: 1 .Cộng đồng: mỗi truyền thống có một cộng đồng giáo hữu. 2. Nghi thức tôn giáo có thể xem xét dưới ba nhóm: cúng lễ và cầu nguyện thường lệ, các thánh lễ và các lễ hội. 3. Đạo đức: Mọi truyền thống đều mang nặng khát vọng được khái niệm hóa đức hạnh để dẫn dắt tín đồ cư xử tốt đẹp trong cuộc sống. 4. Tham dự xã hội và chính trị. 5. Thánh Kinh và Thánh thư: Bao gồm các huyền thoại hay các sự tích linh nghiệm ở các truyền thống có văn tự hoặc truyền khẩu làm chuẩn mực sống cho con người. 6. Quan niệm tín ngưỡng hay chủ thuyết: Truyền thống Cơ Đốc giáo, với ý niệm về tính chính thống học thuyết của mình, đã nhấn mạnh vào các quan niệm tín ngưỡng và thần học hơn các truyền thống khác, nhưng phải nói rằng hết thảy mọi truyền thống đều có những quan niệm tín ngưỡng rất trọng yếu đối với bổn đạo. 7. Mỹ học (Mỹ thuật): Trong diễn trình xuyên suốt cả lịch sử, mỹ học đóng vai trò rất đáng kể ở cấp cơ sở vì nhiều người không đủ học lực để đọc văn tự. Âm nhạc, vũ đạo, điêu khắc, tượng thánh, hội họa, cửa ghép bằng tranh màu vẽ trên kính, sách phổ thông, đều là cực kì quan trọng đối với đông đảo dân chúng, bất kể người biết chữ hay không đọc được. Một số truyền thống tôn giáo, như đạo Hồi, đạo Do Thái hay đạo Tin Lành lại có phần phủ nhận tranh tượng thần thánh và thường tỏ ý nghi ngờ tác dụng của hình tượng vật chất thần linh. Đồ hình ở Taj Mahal và trên các tấm thảm của Ba Tư đã từng là những cách thức mà đạo Hồi vận dụng để thực hiện lệnh cấm biểu hiện Thánh hay chân dung con người trong mỹ thuật và điêu khắc. Các họa phẩm của Giotto thể hiện hình ảnh thánh St. Francis, các đền thờ đạo Hinđu tại Banaras, các giáo đường đồ sộ của đạo Hồi, ngôi chùa hùng vĩ của đạo Phật tại Borobodur là những ví dụ nói lên rất rõ những cảm hứng mỹ học nào bắt nguồn từ tôn giáo. 8. Tính tâm linh nhấn mạnh sự thâm nhập nội tâm của tôn giáo. Ngay cả đến những con người bình thường cũng có thể trở thành quan trọng. Họ đã xả thân cho việc thiện, cho điều lành, họ sùng tín vào một đấng Bề trên đã lựa chọn, họ đã cộng cảm với thiên nhiên hay lương tâm bản ngã coi như con đường đi tự nhiên để thể hiện tâm linh của họ”. [Peter Connolly, 2018, tr. 379 - 382]
Như vậy, ýniệm đẹp và lý tưởng nghệ thuật là những khái niệm được ưa chuộng của Thần học Kitô giáo thời Trung cổ phương Tây. Trong khi đó, Mỹ học (triết học về nghệ thuật) là khái niệm quan trọng trước hết làcủa các nhà triết học duy tâm khách quan. Còn Mỹ học (mỹ thuật, nghệ thuật) lại là khái niệm quan trọng của Tôn giáo học phương Tây từ nhiều cách tiếp cận truyền thống và đương đại. Giữa chúng có những mối liên hệ chặt chẽ với nhau.



2.Triết học về nghệ thuật là gì?
Lần theo tư tưởng của G.W.F. Hegel, một trong số những đại diện tiêu biểu của đường hướng triết học về nghệ thuật, chúng ta có thể tìm được những gợi ý quan trọng. Hegel đã từng nhấn mạnh rằng triết học về nghệ thuật là mắt khâu tất yếu trong trật tự triết học. Cái tất yếu vốn là cái có sức mạnh tự thân không thể loại bỏ nó trong nghiên cứu mỹ học. Hegel bên cạnh đó cũng đồng thời chỉ ra sự khác nhau giữa ba cách tiếp cận, ba đặc trưng của khảo sát về bản chất cái đẹp và nghệ thuật trong lĩnh vực nghiên cứu mỹ học như sau:
1. Đặc trưng của khảo sát khoa học về cái đẹp
2. Đặc trưng của khảo sát cái đẹp dựa trên kinh nghiệm
3. Đặc trưng của khảo sát cái đẹp xuất phát từ ý niệm
Điều này có nghĩa là có thể tiến hành nhiều cách khảo sát đối với bản chất của cái đẹp và nghệ thuật. Cách khảo sát của khoa học nói chung, vào thời đại của mình, Hegel hiểu đó là cách tiếp cận khoa học của Alexander Gottlieb Baumgarten (1714 – 1762) về cái đẹp cảm tính, cảm quan. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại sự khảo sát của một hình thức khác đó chính là triết học về nghệ thuật, xuất phát từ tinh thần, từ cơ sở ý niệm. Điều này rất khác biệt với tình hình nghiên cứu mỹ học hiện nay ở nước ta khi có quá nhiều người đã đồng nhất hoàn toàn các cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu của mỹ học và quy về một mối mỹ học duy nhất là triết học nghệ thuật.
Việc xác định rõ phạm vi đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm nghiên cứu của bộ môn này giúp nhận diện về những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, triết học về nghệ thuật là những khảo sát về bản chất cái đẹp của lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật lấy cơ sở từ phạm vi khảo sát tinh thần suy tư triết học và tinh thần sáng tạo nghệ thuật tự do.
Thứ hai, trong quá trình khảo sát những phương diện có tính lịch sử và logic của mối quan hệ giữa triết học và nghệ thuật sẽ được bộc lộ đầy đủ.
Thứ ba, triết học về nghệ thuật là một cuộc khảo sát dấn thân của những suy tư triết học vào sâu trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật chứ không dừng lại ở sự khảo sát chung ở bên ngoài đối tượng.
Thứ tư, tính đặc thù của công cuộc khảo sát sẽ nâng bình diện tư tưởng của con người lên những tầm cao của bản chất triết học và nghệ thuật, triết học của nghệ thuật và triết học về nghệ thuật trong tính thống nhất, sự kế thừa, sự khác biệt và sự giao thoa giữa chúng.
Thứ năm, triết học về nghệ thuật có khả năng tạo ra những chiều sâu trong công cuộc khảo sát cái đẹp của nghệ thuật, những quy mô mở rộng của bản chất nghệ thuật vào sâu trong các lớp văn bản và tính quy luật của sự xuất hiện, biểu hiện và tiêu vong của các hình thái nghệ thuật.
Thứ sáu, khả năng xâm kích cả chiều rộng lẫn bề sâu của lĩnh vực nghệ thuật, khả năng đo đạc các chiều kích trong sự khám phá bản chất của nghệ thuật, khả năng phát hiện logic nội tại và khái quát tính quy luật của nghệ thuật đều tồn tại trong đường hướng khảo sát của triết học về nghệ thuật.
Không nên lẫn lộn giữa mỹ học với tư cách là triết học về nghệ thuật với toàn bộ các hướng nghiên cứu mỹ học phong phú khác. Tương tự, không nên lẫn lộn mỹ học với thẩm mỹ học, và không nên đồng nhất mỹ học với nghệ thuật học. Điều này có nghĩa là người ta không nên thay thế mỹ học với tư cách là một khoa học bằng nghệ thuật học, hay bằng chính triết học nghệ thuật. Trong Mỹ học với tư cách là một khoa học, cái tinh thần, cái linh hồn của một triết học về nghệ thuật sẽ tồn tại mãi mãi trong nó, không bao giờ bị mất đi, song về sự chiếm lĩnh không gian và trong tính tổng thể của nội dung nghiên cứu mỹ học, triết học về nghệ thuật chỉ là một bộ phận trong tính chỉnh thể, tổng thể của toàn bộ các vấn đề nghiên cứu mà mỹ học với tư cách là một khoa học hướng đến. Ngược lại, sự tồn tại của triết học về nghệ thuật cũng cho thấy góc tiếp cận của mỹ học với tư cách là một khoa học cũng chỉ là một bộ phận trong tổng thể các góc độ tiếp cận của toàn bộ lĩnh vực phong phú là mỹ học.

3. Về hai nguyên lý cơ bản trong triết học về nghệ thuật của Hegel

3.1.Nguyên lý về tính thống nhất giữa cái đẹp ý niệmvà lý tưởng trong lĩnh vực nghệ thuật

Trước hết cần khẳng định đây là một nguyên lý hết sức quan trọng thuộc đường hướng triết học về nghệ thuật chứ không phải là một nguyên lý nền tảng của mỹ học (khoa học). Các triết gia thuộc đường hướng triết học về nghệ thuật thường xác lập phạm vi và sự bảo vệ mối liên hệ giữa tất yếu và tự do của cái đẹp trong lĩnh vực lý tưởng nghệ thuật. Vẻ đẹp là lý tưởng nâng lên thành quy luật.
Cái đẹp của nghệ thuật là cái đẹp có chủ ý. Đây là cái đẹp được xử lý bằng quan hệ tinh thần, và được sắp xếp có chủ ý của chủ thể nghệ sĩ. Lý tưởng của cái đẹp trong nghệ thuật là sự kết hợp cân đối giữa cái chung và cái riêng. Cái đẹp của nghệ thuật có sự phát triển biện chứng giữa nội dung và hình thức, giữa cá tính và hoàn cảnh. Lý tưởng, tinh thần là bản chất của cái đẹp nghệ thuật.
Ý niệm với tính cách cái đẹp nghệ thuật là ý niệm có một đặc tính loại biệt, là một hiện thực đã được cá tính hóa. Nói khác đi, nó là một biểu hiện cá biệt của hiện thực có được cái đặc tính loại biệt là biểu lộ được ý niệm qua bản thân. Như vậy, chúng ta đã nêu lên yêu cầu sau đây: Ý niệm và sự biểu hiện của nó, tức là cái hiện thực cụ thể của nó phải hoàn toàn phù hợp với nhau. Nếu quan niệm như vậy, thì ý niệm với tính cách hiện thực, đã có được cái hình thức tương ứng với khái niệm của mình làm thành lý tưởng. Khi dùng cụm từ ý niệm đẹp để gọi cái đẹp, thì cần phải hiểu như sau: Bản thân cái đẹp cần phải được lý giải là một ý niệm. Cái đẹp là một ý niệm mang một hình thức nhất định tức là lý tưởng. Cái đẹp lý tưởng thông qua mối quan hệ biện chứng của ý niệm tuyệt đối và các hình thức biểu hiện cụ thể của nó (Hegel).
Tính tất yếu của lý tưởng với tính cách cái đẹp trong nghệ thuật, hay nói cách khác thì sự hiện diện của cái đẹp trong nghệ thuật là sự biểu hiện tính tất yếu của một lý tưởng. Nghệ thuật cần phải thể hiện tính cách lý tưởng. Trong đó tính cách làm thành điểm tập trung thực sự của biểu hiện nghệ thuật có tính chất lý tưởng. Ba đặc trưng lớn của tính cách làm thành điểm tập trung thực sự của một biểu hiện nghệ thuật có tính chất lý tưởng là tính phong phú, tính rõ ràng và tính kiên định.
Như vậy, ý niệm với tính cách hiện thực đã có được cái hình thức tương ứng với khái niệm của mình làm thành lý tưởng. Lý tưởng nghệ thuật được nhận diện với nhiều thuật ngữ phong phú như lý tưởng nghệ thuật là tinh thần, là tư tưởng, là chiêm ngưỡng nội tâm, là những sức mạnh phổ biến, là hoạt động con người, thậm chí là thần linh. Nghệ thuật sở dĩ là cái chân thực, vì nó là cái ngoại hiện có tính chất tinh thần. Cái đẹp và cái chân thực là một.
Cái đẹp của nghệ thuật tức là ý niệm được thể hiện trong hình tượng. Nghệ thuật là sự cụ thể hóa ý niệm bằng hình tượng. Quá trình cụ thể hóa ngày càng đầy đủ bao nhiêu thì nghệ thuật càng đẹp bấy nhiêu. Sự thống nhất giữa ý niệm phổ biến và hình tượng làm cho nghệ thuật khác với khoa học và tôn giáo.


3.1.1. Phạm trù cái đẹp trong nghệ thuật

Phạm trù cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong cuộc sống nhưng đồng thời cũng là một hình thức khái quát của tư duy, thể hiện nhận thức của con người về loại đặc tính thẩm mỹ này của sự vật hiện tượng. Các đường hướng triết học nghệ thuật thường đi đến những kết luận sau về bản chất của cái đẹp:
1. Cái đẹp được định nghĩa là sự tương ứng giữa lý tưởng và thực tại, là sự phù hợp của cái riêng biệt với khái niệm chung về nó, trong lĩnh vực nghệ thuật.
2. Cái đẹp là đặc điểm cơ bản của nghệ thuật. Nghệ thuật không tồn tại nếu không có cái đẹp.
3. Cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp của thiên nhiên.
Do đó, đã có nhiều triết gia thuộc đường hướng triết học về nghệ thuật ngay lập tức loại trừ cái đẹp trong tự nhiên ra khỏi phạm vi đối tượng của triết học về nghệ thuật. Giới hạn đối tượng như thế một phần có vẻ võ đoán. Người ta vẫn quen cho rằng khoa học nào cũng có quyền tùy ý qui định ranh giới lĩnh vực của mình căn cứ vào cách mình khảo sát. Nhưng không nên quan niệm ranh giới mỹ học là lĩnh vực cái đẹp nghệ thuật theo nghĩa như vậy.
Trong đời sống hàng ngày, người ta vẫn thường nói đến một màu đẹp, một bầu trời đẹp, một con sông đẹp, những con người đẹp. Chúng ta hãy khoan đi sâu vào những cuộc tranh luận về chỗ cấp tính chất đẹp cho những đối tượng như vậy và, do đó, nêu lên cái đẹp trong tự nhiên, bên cạnh cái đẹp của nghệ thuật là có thể chấp nhận đến mức độ nào. Ngay giờ đây chúng ta đã có thể khẳng định rằng cái đẹp trong nghệ thuật là cao hơn cái đẹp trong tự nhiên. Sở dĩ thế là vì cái đẹp trong nghệ thuật là nảy sinh và được tái hiện trên cơ sở tinh thần và bởi vì tinh thần là cao hơn tự nhiên và các hiện tượng tự nhiên, cho nên cái đẹp nghệ thuật cũng cao hơn cái đẹp của tự nhiên.
Không những thế, nếu nói về mặt hình thức, thì bất kỳ ảo tưởng thảm hại nào nảy sinh trong đầu óc con người cũng là “cao hơn” bất kỳ sáng tạo nào của tự nhiên, bởi vì mọi hư cấu dù sao cũng vẫn còn có một cái gì có tính chất tinh thần, cũng vẫn còn có tự do. Cố nhiên, mặt trời chẳng hạn, xét về nội dung, là một nhân tố tuyệt đối tất yếu; trái lại một ảo tưởng kỳ quặc là một vật ngẫu nhiên và sẽ biến mất nhanh chóng. Nhưng một mẫu mực của tồn tại tự nhiên như là mặt trời, nếu xét theo quan điểm “một tồn tại cho mình” thì sẽ là một vật bàng quan, bản thân không tự do và không tự nhận thức được mình. Còn khi ta nhìn mặt trời ở trong mối liên hệ tất yếu của nó với các tồn tại khác tương tự, ta sẽ không xét mặt trời theo quan điểm một tồn tại cho nó và, do đó, ta sẽ không xem xét mặt trời như một cái gì đẹp.
Sau khi nêu lên cái chân lý phổ biến cho rằng tinh thần và cái đẹp nghệ thuật gắn liền với tinh thần là cao hơn cái đẹp trong tự nhiên. Từ “cao hơn” ở đây hiểu theo nghĩa tính ưu việt của tinh thần, cũng như tính ưu việt của cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật do tinh thần tạo ra so với tự nhiên không phải là một cái gì thuần túy tương đối. Chỉ có tinh thần mới là cái chân thực với tính cách một yếu tố bao quát tất cả, và tất cả cái đẹp sở dĩ là đẹp thực sự chẳng qua vì cái đẹp tham dự vào một cái cao hơn và do cái cao hơn này sản sinh ra. Xét theo nghĩa này, thì cái đẹp trong tự nhiên chỉ phản ánh cái đẹp thuộc về tinh thần. Ở đây, trước mắt chúng ta là một loại đẹp không hoàn mỹ, không đầy đủ, và xét về mặt bản chất, bản thân cái đẹp của tự nhiên là nằm trong tinh thần.
Triết học của cái đẹp nghệ thuật khi xem xét cái đẹp từ bản chất ý niệm đã dùng danh từ ý niệm đẹp để gọi cái đẹp với sự diễn giải bản thân cái đẹp cần phải được lí giải là một ý niệm. Hơn thế, cái đẹp chính là một ý niệm mang một hình thức nhất định đó là “lýtưởng”.Ý niệm nói chung chẳng qua là khái niệm. Nhưng khái niệm xét về mặt bản chất vẫn chưa phải là ý niệm, chỉ có khái niệm nào xuất hiện ở trong tính thực tại của nó và ở trong sự thống nhất với thực tại này thì mới là ý niệm mà thôi.
Khái niệm về mặt bản chất đã là đồng nhất với thực tại rồi và vì vậy khái niệm tự bản thân mình sản sinh ra thực tại với tính cách cái thực tại riêng của mình và cái này là hình thức tự phát triển của ý niệm. Ở đây khái niệm không bỏ mất cái gì của mình hết, nó chỉ tự thể hiện mình mà thôi, khái niệm vẫn ở trong thể thống nhất với mình trong tính khách thể này. Sự thống nhất này của khái niệm và thực tại là đặc trưng trừu tượng của ý niệm. Ý niệm là sự thống nhất cụ thể của khái niệm và tính khách thể.

Cái đẹp nghệ thuật không phải là một ý niệm logic, không phải là tư tưởng tuyệt đối, tự phát triển ở trong yếu tố thuần túy của tư duy. Cái đẹp nghệ thuật cũng không phải là một ý niệm tự nhiên, mà thuộc lĩnh vực tinh thần. Đồng thời, cái đẹp nghệ thuật cũng không dừng lại ở những nhận thức và những hành động của tinh thần hữu hạn. Vương quốc của sáng tác nghệ thuật là vương quốc của tinh thần tuyệt đối.
Cái đẹp của nghệ thuật là ý niệm được quan niệm như là thể thống nhất trực tiếp của khái niệm với hiện thực của nó trong chừng mực thể thống nhất này xuất hiện trong cái hiện thực và cảm quan. Ý niệm đẹp là hiện thực cá tính hóa.Những tư tưởng của các đường hướng triết học về nghệ thuật về bản chất của cái đẹp nghệ thuật hoàn toàn đúng với nhận định của thi hào Đức vĩ đại Johann Wolfgang Von Goethe (1749 – 1832): “Thành tựu cao nhất và vĩ đại nhất của thực tiễn nghệ thuật là cái đẹp”.

3.1.2. Phạm trù lý tưởng trong lĩnh vực nghệ thuật

Bản thân quá trình hiện thực được hình thành, được biểu hiện ra thích hợp với khái niệm của nó đó là lý tưởng. Do đó mà học thuyết về lý tưởng nghệ thuật và về quá trình phát triển của lý tưởng nghệ thuật trở thành một trong những nội dung quan trọng của triết học nghệ thuật trước K. Marx.
Lý tưởng là cái hoàn thiện, cái đáng mong muốn thể hiện khát vọng vươn tới chân lý của con người. Lý tưởng nghệ thuật luôn mang hình thức của cái đẹp đặc thù.
Triết học về nghệ thuật của Hegel nhận định, nghệ thuật không phải là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thế giới vật chất, mà là sự phát triển tự thân của khái niệm. Nghệ thuật là một hình thái nhất định của sự tự nhận thức của tinh thần tuyệt đối. Tinh thần tuyệt đối tự biểu hiện ra dưới ba hình thái: Nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Qua nghệ thuật, nó tự nhận thức dưới hình thái chiêm ngưỡng, cảm quan hình tượng; qua tôn giáo, nó tự nhận thức dưới hình thái cảm niệm, biểu tượng; qua triết học, nó tự nhận thức dưới hình thái khái niệm. Những hình thái này của tinh thần tuyệt đối lần lượt thay nhau chiếm ưu thế trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Ý niệm là nội dung, còn sự thể hiện bằng hình tượng cảm tính là hình thức của nghệ thuật. Ý niệm không phải là một cái gì trừu tượng tuyệt đối, mà là thứ ý niệm được hình thành trong hiện thực, và thống nhất trực tiếp với hiện thực làm nên lý tưởng nghệ thuật.
Các giai đoạn phát triển của lý tưởng biểu hiện ra thành các hình thái nghệ thuật. Những hình thái này được phân hóa, xuất phát từ sự tương ứng khác nhau giữa ý niệm và cái vẻ bề ngoài của ý niệm.
Khi ý niệm hãy còn tồn tại dưới một trạng thái trừu tượng và do đó chưa tìm thấy một bề ngoài hoàn toàn thích ứng, đã cho ra đời tình trạng của lý tưởng nghệ thuật tượng trưng chủ nghĩa. Ở đây, ý niệm và vẻ bề ngoài là không phù hợp với nhau. Nghệ thuật phương Đông cổ đại là nghệ thuật tượng trưng chủ nghĩa.
Hình thái thứ hai là hình thái lý tưởng của nghệ thuật cổ điển chủ nghĩa. Ý niệm được diễn tả đầy đủ trong sự tương thích với hình tượng. Nghệ thuật cổ điển chủ nghĩa tương ứng với nghệ thuật Hy Lạp cổ đại.
Ý niệm chân chính tìm thấy sự thể hiện đầy đủ của nó qua hình thái lý tưởng của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa (nghệ thuật trung cổ và hiện đại đến thời điểm của Hegel). Ở đây, tinh thần là tự do, nó vượt lên trên vật chất, thiên nhiên. Sự phù hợp giữa ý niệm với hình tượng trong nghệ thuật cổ điển chủ nghĩa bị phá vỡ. Hình thức thuộc cảm tính không đủ sức truyền tải tinh thần đã phát triển cao.
Phạm trù lý tưởng là cái hoàn thiện, cái đáng mong muốn thể hiện khát vọng vươn tới chân lý của con người. Lý tưởng như vậy luôn mang hình thức cái đẹp là đặc thù, mặc dù nó đã là sự khái quát có tính vượt trước.
Lý tưởng không được xem xét như một phạm trù độc lập mà xét lý tưởng trong quan hệ với cái đẹp hoàn mỹ của nghệ thuật. Nghệ thuật lý tưởng là một nghệ thuật bậc cao, điều chủ yếu của nghệ thuật lý tưởng là sự sảng khoái trong sáng tạo cao cả, đạt tới tự do bên trong tâm hồn con người. Quan hệ với lý tưởng vẫn là cái hiện thực, có thể coi cặp phạm trù: Hiện thực - lý tưởng là cặp phạm trù tương phản. Khi chúng ta “So sánh cái hiện thực nôm na thì vẻ bên ngoài do tinh thần tạo nên là một kỳ diệu mang tính chất lý tưởng”[Hegel, 1999, tr. 277-287], bởi vì điều lý tưởng đòi hỏi, đó là bản thân hình thức bên ngoài phải tương ứng với tâm hồn.
Nhờ có lý tưởng mới có nghệ thuật và nhờ có nghệ thuật, lý tưởng đã cấp cho sự vật một ý nghĩa của tâm hồn. Nhờ có lý tưởng này, nghệ thuật nâng cao những sự vật mà nếu không có điều đó thì sẽ chẳng có giá trị gì hết. Nhờ có lý tưởng mới tạo cho chúng ta những hứng thú tinh thần, vì lý tưởng gắn với cái mới. Tinh thần luôn luôn mới làm cho nghệ thuật phát triển theo phép biện chứng.
Ý niệm với tính cách ý niệm đẹp cũng đồng thời là một toàn thể những sự khác nhau chủ yếu, là những cái phải được khẳng định và được thể hiện như là những sự khác nhau. Sự khác nhau này ở trong cái toàn thể biểu hiện ở những hình thức nghệ thuật riêng biệt. Những hình thức này là kết quả của sự phát triển của bản thân nội dung của khái niệm lý tưởng. Sự phát triển của các thể loại khác nhau của lý tưởng không được hiểu theo nghĩa thông thường mà cần hiểu theo nghĩa những đặc điểm khác nhau chi tiết hơn, chính xác hơn của bản thân khái niệm cái đẹp và của lý tưởng nghệ thuật. Tính phổ biến của cách trình bày lý tưởng nhờ vậy sẽ có được một cách qui định chính xác hơn, không phải nhờ đến những yếu tố vay mượn từ bên ngoài, mà trên cơ sở khái niệm của chính mình: Thành ra chính khái niệm này trong khi phát triển đã trở thành toàn bộ các hình thức nghệ thuật riêng biệt.
Nói một cách chính xác hơn thì thông qua các hình thức nghệ thuật, ý niệm tự biểu hiện, tự khẳng định và biểu hiện mình trước thực tại thông qua các hình thức môi giới của nghệ thuật.Chỉ có ý niệm phổ biến trong chừng mực nó phát triển do hoạt động của mình thì mới là ý niệm thực sự.
Ở từng giai đoạn nhất định mà lý tưởng trải qua trong sự phát triển, đều có một hình thức riêng tương ứng với nó căn cứ một sự qui định bên trong mà các giai đoạn khác không có được. Do đó, khi chúng ta xét sự diễn biến này ở trong sự phát triển xem như một sự diễn tiến nội bộ của bản thân ý niệm hay là một sự diễn tiến của các hình thức qua đó ý niệm được thể hiện. Điều này làm cho sự thực hiện của ý niệm với tính cách nội dung cũng đồng thời là sự thực hiện của ý niệm với tính cách hình thức. Và ngược lại cũng thế, những thiếu sót của hình thức đồng thời cũng tỏ ra là những thiếu sót của ý niệm, bởi vì chính ý niệm cấp cho sự biểu hiện bên ngoài qua đó ý niệm bộc lộ một ý nghĩa nội tại.
Đối với mỗi nội dung, các hình thức qua đó ý niệm được biểu hiện, đó cũng chính là cái chúng ta gọi là những loại hình nghệ thuật riêng đều phù hợp với cái nó cần phải biểu hiện mà trình độ hoàn mỹ hay trình độ thiếu sót là lệ thuộc vào trình độ chân thực mà bản thân ý niệm có được. Bởi vì bản thân nội dung tự nó phải chân thực và cụ thể, trước khi có thể tìm thấy cái hình thức phù hợp với mình.
Cái đẹp trong nghệ thuật chính là hiện thân của lý tưởng. Sự phát triển của lý tưởng ở trong những hình thức đặc thù của cái đẹp được khu biệt hóa thành những hình thức nghệ thuật riêng biệt.
Nhờ có lý tưởng mới có nghệ thuật và nhờ có nghệ thuật, lý tưởng đã cấp cho sự vật một ý nghĩa của tâm hồn. Nếu so sánh với cái hiện thực nôm na thì vẻ bề ngoài do tinh thần tạo nên là một điều kỳ diệu mang tính chất lý tưởng.

3.2. Nguyên lý về tính thống nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa vật chất và hình thức nghệ thuật, giữa vật chất và tinh thần, giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm nghệ thuật

Trong lĩnh vực nghệ thuật, nội dung luôn thống nhất với hình thức biểu hiện, mặc dù quan niệm của các đường hướng triết học về nghệ thuật là không thống nhất với nhau về phương diện nội dung của cái đẹp quyết định hay hình thức quyết định. Đây là một trong những nội dung quan trọng của một nguyên lý cơ bản thuộc đường hướng khảo sát triết học về nghệ thuật chứ không phải là một nguyên lý nền tảng thuộc đường hướng mỹ học (khoa học). Nguyên lý nền tảng của đường hướng mỹ học (khoa học) có nhiệm vụ khái quát rộng hơn bản thân lĩnh vực sáng tác nghệ thuật.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia thuộc đường hướng triết học về nghệ thuật đã cho rằng một hiện tượng đẹp là hiện tượng có sự thống nhất giữa hình thức nghệ thuậtvà vật chất. Sự thống nhất này tạo ra một ấn tượng trong cảm quan. Cái đẹp nằm trong khả năng về sự nhất trí và sự hoàn chỉnh. Cái đẹp là một thực thể vật chất bao gồm trật tự, tỷ lệ, kích thước, tính nhất quán, sự thống nhất trong đa dạng và sự cảm nhận. Cái đẹp – kể cả động vật hay bất kỳ đồ vật gì – gồm những phần nhất định hợp thành, nó không những cần có sự sắp xếp, mà còn có một kích thước nhất định. Cái đẹp là ở trong kích thước và trật tự, do đó, một vật quá bé không thể trở thành đẹp, vì thoắt nhìn đã qua, không kịp thu nhận; một vật quá lớn, cũng không thể trở thành đẹp, vì một lúc không thể nhìn bao quát vật đó ngay được, tính nhất trí và tính hoàn chỉnh bị mất đi bởi người nhận nó. Do vậy mà cái đẹp không nằm ngoài sự vật, không nằm ngoài kích thước, tỷ lệ, trật tự, sự cân đối và khả năng cảm nhận nó trong tính hoàn chỉnh.
Cái đẹp tinh thần chưa đủ làm nên một sự vật đẹp. Do đó, bên cạnh cái đẹp tinh thần là cái đẹp hình thức. Một hình thức đẹp luôn thích ứng với quy luật. Hình thức đẹp không phải là sự võ đoán, ngẫu nhiên, phi lý tính. Vẻ đẹp đó là lý tưởng nâng lên thành quy luật. Cái đẹp là sự vĩ đại và trật tự. Sự trật tự trong không gian, tính đều đặn và tính xác định là những hình thức của cái đẹp. Nhờ có những nguyên lý chung này mà những yếu tố cá biệt làm thành một thể thống nhất, làm thành cái đẹp chung. Vào thế kỷ XVIII, tư tưởng triết học về nghệ thuật của Hegel về mối quan hệ và về sự thống nhất giữa nội dung và hình thức nghệ thuật là một tư tưởng mỹ học mang tính biện chứng. Trên quan điểm lịch sử, Hegel đã trình bày mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của cái đẹp nghệ thuật lồng vào tiến trình vận động phát triển lịch sử của tinh thần tuyệt đối. Hegel cho rằng, nội dung và hình thức nghệ thuật có quan hệ biện chứng với nhau, nội dung là sự quá độ trở thành hình thức và hình thức là sự quá độ trở thành nội dung. Nội dung của nghệ thuật không tách khỏi hình thức của nó. Sự đối lập giữa nội dung và hình thức đều tồn tại trong một thể thống nhất. Chính sự thống nhất này là biểu trưng của cái đẹp ý niệm tuyệt đối. Bản chất của nghệ thuật cũng như toàn bộ lịch sử phát triển của nó là lịch sử của chính tinh thần tuyệt đối tự nhận thức về mình, và phát triển qua ba giai đoạn: giai đoạn nội dung chưa tìm được hình thức thích hợp (nghệ thuật tượng trưng), giai đoạn nội dung tìm được hình thức thích hợp (nghệ thuật cổ điển) và giai đoạn nội dung vượt lên trên hình thức (nghệ thuật lãng mạn) (Hegel).
Nội dung quy định hình thức và sự thống nhất giữa nội dung và hình thức là sự thống nhất ở nội dung. Bởi vì, cũng như trong mọi việc làm của con người, nội dung vẫn là cái quyết định. Nghệ thuật phải phù hợp với khái niệm của mình. Nghệ thuật có nhiệm vụ thể hiện nội dung dưới một hình thức tồn tại cảm quan ăn khớp với nội dung. Khái niệm không cho phép mặt bên ngoài của cái đẹp tự do tuân theo những quy tắc riêng, trái lại, chính khái niệm quy định mặt bên ngoài phải biểu hiện với diện mạo nào và chính bằng cách ấy mà khái niệm thực hiện được sự nhất trí với mình, mà bản chất của cái đẹp lại chính là ở sự nhất trí ấy. Nghệ thuật tạo hình phương Đông ít tính hiện thực là do nội dung của nó yêu cầu. Sự đối tượng hóa lý tưởng, ý niệm khác nhau sẽ tạo ra các hình thức nghệ thuật khác nhau. Nội dung nghệ thuật là nhất trí với lý tưởng cao cả trong sự thống nhất với tinh thần tuyệt đối.
Nghệ thuật trước sau vẫn là sự thống nhất giữa hình thức cảm quan với nội dung (tinh thần, ý niệm, chủ thể tự do), giữa tính vật chất (chất liệu hình thức biểu hiện) với tinh thần bên trong, giữa tính ngoại hiện, tính khách quan với mặt chủ quan.
Ý niệm đẹp, tự quan niệm mình là tinh thần tuyệt đối, và do đó là tự do ở bản thân và vì bản thân mình. Vì vậy, tinh thần tuyệt đối không còn có khả năng tự thể hiện hoàn toàn bằng những phương tiện bên ngoài, bởi vì nó chỉ tồn tại với tính cách tinh thần mà thôi. Chính vì vậy, nó phá vỡ sự dung hợp giữa nội dung bên trong với sự thực hiện bên ngoài là điều đã được thực hiện bởi nghệ thuật cổ điển, để đi sâu vào bản thân mình.
Do đó, nảy sinh nghệ thuật lãng mạn. Do chỗ nghệ thuật lãng mạn có tính tinh thần tự do, nên nội dung của nó yêu cầu những điều mà sự thể hiện bên ngoài và bằng thể xác không thể đem đến được. Kết quả là nghệ thuật lãng mạn tỏ ra hoàn toàn bàng quan đối với hình thức. Điều này làm nảy sinh một sự chia cách mới giữa nội dung với hình thức, mặc dầu vì những lí do đối lập với những lí do khi so sánh với nghệ thuật tượng trưng.
Cái đẹp với tính cách ý niệm cũng theo một ý nghĩa như người ta vẫn nói đến cái chân và cái thiện với tính cách những ý niệm: Ý niệm là cái bản chất và cái phổ biến, là chất liệu tuyệt đối, không cảm quan.
Định nghĩa một cách chính xác hơn, ý niệm tuy vậy không những là thực tế và tính phổ biến mà còn là sự thống nhất của khái niệm và tính thực tại của khái niệm. Khái niệm biểu lộ với tính cách bản chất ở trong tồn tại khách quan của mình.
Plato là người đầu tiên tuyên bố rằng chỉ có ý niệm là chân thực và phổ biến, là cái cụ thể phổ biến. Còn theo Hegel, bản thân ý niệm của Plato vẫn chưa phải là cái cụ thể thật sự bởi vì nó tương ứng với cái chân thực nếu như ta khảo sát nó ở trong khái niệm và ở trong tính phổ biến của cái chân thực. Nhưng nếu khảo sát nó với tính cách một tồn tại phổ biến thì ý niệm của Plato vẫn chưa được thực hiện và vẫn chưa phải là cái chân thực vì bản thân ở trong sự tồn tại hiện thực của mình. Nó vẫn dừng lại ở trong trạng thái tồn tại vì mình. Khái niệm nếu không tồn tại khách quan thì vẫn chưa là khái niệm thực sự. Cũng vậy, ý niệm cũng chưa là ý niệm thực sự nếu không có sự tồn tại hiện thực của ý niệm và ở ngoài sự tồn tại này. Do đó, ý niệm phải tiến về phía tồn tại hiện thực và ý niệm có được sự tồn tại như vậy do sự tồn tại chủ quan hiện thực phù hợp với khái niệm của tính thống nhất có tính chất ý niệm và của “sự tồn tại cho nó”.
Chỉ có cái cá biệt cụ thể mới là chân thực và hiện thực, trái lại cái phổ biến trừu tượng và cái đặc thù thì không phải như vậy. Cái tồn tại cho mình, cái tồn tại chủ thể do đó là một điểm mà chúng ta phải duy trì. Nhưng tồn tại chủ quan là ở trong thể thống nhất phủ định, là kết quả của việc lý tưởng hóa các sai biệt cũng như lý tưởng hóa tồn tại thực tế của chúng. Sự thống nhất của ý niệm và sự tồn tại hiện thực của khái niệm, do đó là sự thống nhất phủ định của ý niệm với tính cách ý niệm và của tồn tại hiện thực của ý niệm, một sự thống nhất nảy sinh từ chỗ chúng ta đã giả thiết và đã gạt bỏ sự khác biệt giữa ý niệm với sự tồn tại thực tế của nó. Chỉ có nhờ hoạt động này mà ý niệm mới tồn tại một cách khẳng định đối với bản thân và ý niệm là một sự thống nhất và một tồn tại chủ quan vô tận nhờ đó ý niệm liên quan với bản thân. Do chỗ chúng ta cần phải quan tâm ý niệm đẹp trong sự tồn tại hiện thực của nó, chủ yếu như là một tồn tại chủ quan hiện thực, nghĩa là cá biệt, như là một ý niệm chỉ là hiện thực và chỉ có sự tồn tại hiện thực ở trong cái cơ thể cụ thể.Có hai hình thức của cái cá biệt: Hình thức cái cá biệt tự nhiên trực tiếp và hình thức cái cá biệt tinh thần. Ý niệm tồn tại ở cả hai hình thức này.
Nội dung cơ bản của cả hai hình thức do ý niệm tạo nên và trong lĩnh vực đặc biệt mà chúng ta khảo sát do ý niệm cái đẹp tạo nên là như nhau. Nhưng nếu cái đẹp tự nhiên cũng có nội dung hệt như lý tưởng thì cần phải nhận thấy rằng sự khác nhau giữa hai hình thức qua đó thể hiện ý niệm (nghĩa là sự khác nhau giữa cái cá biệt tự nhiên và cái cá biệt tinh thần) cũng vẫn là một sự khác nhau chủ yếu giữa các nội dung của hai hình thức này. Vấn đề là hình thức nào tương ứng thực sự với ý niệm. Ý niệm chỉ bộc lộ cái chính thể chân thực của nội dung của mình ở cái hình thức nào tương ứng thực sự với nó.Điều này cần khảo sát vì trong sự khác nhau về hình thức của cái cá biệt chứa đựng sự khác nhau giữa cái đẹp trong tự nhiên và lý tưởng.
Cái cá biệt trực tiếp thuộc tự nhiên cũng như thuộc tinh thần. Do chỗ tinh thần có một tồn tại bên ngoài ở trong thân thể và ngay cả về quan điểm tinh thần, nó chỉ tồn tại ở trong cái hiện thực trực tiếp. Ý niệm đẹp tự thân nó là một trạng thái chủ thể tự do, vô hạn và nó đạt đến cái chủ thể này trong thực tế với tính cách tinh thần.
Hệ thống các hình thức nghệ thuật được triển khai trong sự phản ánh tính thống nhất về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, vật chất và tinh thần, bản chất và hiện tượng, khách quan và chủ quan như là sự thống nhất giữa ý niệm tuyệt đối với các hình thức biểu hiện của nghệ thuật và của cái đẹp trong lĩnh vực nghệ thuật./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Xavier Barral I Altet (2003), “Lịch sử nghệ thuật”, Nxb.Thế giới.
  2. Lincohn Barnett - Crane Briton - William T. Carnahan… (1951), “Lịch sử người phương Tây thông qua các tác phẩm nghệ thuật”, Nxb. Time - NewYork.
  3. M.Cagan (2004), "Hình thái học của nghệ thuật".Nxb. Hội Nhà văn.
  4. Nguyễn Hồng Dương (2012), “Công giáo thế giới tri thức cơ bản”, Nxb. Từ điển Bách khoa.
  5. Nguyễn Phi Hoanh (1970), “Lược sử Mỹ thuật Việt Nam”, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  6. Hegel (1999), “Mỹ học”, T1, Nxb. Văn học, tr. 277 - 287.
  7. Hegel (1999), “Mỹ học”, T2, Nxb. Văn học.
  8. Robert Layton (2013), “Nhân chủng học của nghệ thuật”, Đại học Cambridge.
  9. Ocvirk - Stinson - Wigg - Bone - Cayton (2006), “Những nền tảng của mỹ thuật”, Nxb. Mỹ thuật.
  10. Peter Connolly (2018) (Chủ biên), "Tôn giáo học từ nhiều cách tiếp cận",Nxb. Tri thức, tr.379-382.
  11. “Triết học cổ điển Đức - những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học” (2004), Kỷ yếu hội thảo quốc tế Đại học Quốc gia HN, Nxb. Chính trị Quốc gia.
  12. Nguyễn Hữu Vui (2002), “Lịch sử Triết học”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.




Tác giả bài viết: Tư liệu - Thăng Long Library

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền