Vì sao giai cấp công nhân la giai cấp tiên phong cách mạng

Vì sao giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất

Admin 16/05/2021 425

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớptrong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớptrong cách mạng vàxã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thànhnhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Bạn đang xem: Vì sao giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất


Vì sao giai cấp công nhân la giai cấp tiên phong cách mạng

1. Vai trò của liên minh công - nông - trí trong cách mạng Việt Nam

Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước ở chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng cách mạng. Người xác định, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân (GCCN) mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh xác định GCCN là giai cấp tiến bộ nhất, cách mạng nhất, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức. Người khẳng định rõ: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”(1).

Vì sao công nhân là giai cấp cách mạng?Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích một cách toàn diện:“kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật, (...)là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo”(2). Người cũng nêu rõ GCCNđược trang bịchủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng cách mạng. “Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai saucông nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tăng thêm”(3).

Giai cấp công nhân cóvị trítrung tâm trong xã hội bởi là giai cấpđại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất,là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thông qua Đảng của mình lãnh đạo cách mạng và toàn xã hội. Song để hoàn thành được sứ mệnh đó, giai cấp công nhân cần lôi cuốn, tập hợp cácgiai cấp, tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc đứng lên làm cách mạng.

Giai cấp nông dân Việt Namlà lực lượngđông đảo nhất trong xã hội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”. Người chỉ rõ:Giai cấp nông dân, trong đóbần nông vàtrung nônglà đội quân chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới.Ở nông thôn, bần nônglà lớp người đông nhất và nghèo khổ nhất. Họ bị địa chủ phong kiến bóc lột tàn tệ. Bần nông hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng và rất mong muốn thực hiện chính sách dân cày có ruộng. Vì vậy,họ là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân.Trung nônglà lớp người mình cày ruộng của mình, cũng không phải làm thuê cho ai. Họ cũng bị địa chủ, bọn cho vay nặng lãi và bọn đế quốc áp bức bóc lột. Thực hiện chính sách “dân cày có ruộng” thì họ cũng có lợi. Cho nên họ cũng hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc chắn của giai cấp công nhân.

Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp nông dân là quân chủ lực của cách mạng, vì họ là lớp người đông nhất trong nhân dân. Hồ Chí Minh xác định:“Trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”(4).Nông dân Việt Nam có tinh thần cách mạng. Tuy vậy, họ không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng vì họ không gắn liền với một phương thức sản xuất mới và không có hệ tư tưởng độc lập. Họ cũng không có khả năng tự xây dựng một chế độ xã hội mới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì hoàn cảnh kinh tế lạc hậu, mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ, và lãnh đạo họ, thì họ là một lực lượng rất to lớn vững chắc. Thế là công nông liên minh”(5).

Kế thừa tư tưởng truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh sớm đánh giá cao vai trò của trí thức. Từ buổi đầu hoạt động cách mạng, Người xác định trí thức là tầng lớp hàng đầu trong xã hội Việt Nam và ủng hộ những hoạt động yêu nước của họ: Tố cáo những âm mưu, tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, học sinh; Quan tâm thức tỉnh tinh thần dân tộc, lòng yêu nước ở trí thức; Vạch trần âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc, phong kiến đối với tầng lớp trí thức nước ta.

Phân tích sâu sắc đặc điểm, tính chất tầng lớp trí thức nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trí thức nước ta cũng như trí thức tại các nước thuộc địa, bán thuộc địa hay các dân tộc bị áp bức, khác với trí thức các nước tư bản đế quốc. Ở các nước tư bản,trí thức đa số là ở trong giai cấp tư sản mà ra rồi lại trở lại phục vụ cho tư sản. Ở nước ta thì khác, dù là trí thức một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản nhưng cũng đều bị đế quốc áp bức. Vì vậy,trí thức Việt Nam có tinh thầndân tộc và cách mạng, có học thức nên xem được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách mạng Pháp, nên dễ hấp thụ được tinh thần cách mạng.Lúc đã hiểu biết, trí thức ta dễ theo cách mạng.

Hồ Chí Minh xác định trí thức là một bộ phận trong lực lượng cách mạng và là đồng minh ngày càng quan trọng của giai cấp công nhân trong tiến trình đi lên CNXH.

2. Đảng Cộng sản xây dựng và lãnh đạo khối liên minh công - nông - trí

Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng là đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Người chỉ rõ,Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành phần chủ chốt trong Đảng là các phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong các phong trào yêu nước và cách mạng. Đảng talà Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân(6). Đảng là bộ đội tiền tiến của nhân dân lao động (công nhân, nông dân và lao động trí óc)(7).

Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân như nhiều đảng mác xít ở các nước tư bản phát triển, mà còn là đội tiên phong của nhân dân lao động trong đó nòng cốt là công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vạch ra sách lược cơ bản của Đảng là phải lôi cuốn được giai cấp vô sản, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đi theo cách mạng, hình thành nên khối liên minh công- nông- trí, nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân. Sách lược vắn tắt của Đảngchỉ rõ: (1) Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; (2) Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến; (3) Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; (4) Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp(8).

Như vậy, ngay từ khi thành lập Đảng,Hồ Chí Minh đã vạch ra nhiệm vụ vận động công nhân, nông dân, trí thức đoàn kết lại đứng lên làm cách mạng. Với các chính sách:Công nông trí thức hoá; Trí thức công nông hoá(anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng biết làm lao động, hợp thành một khối với công nông, nâng cao trình độ công nông về văn hóa, lý luận),Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là tổ chức xây dựng và lãnh đạo khối liên minh công - nông - trí.

3. Liên minh công - nông - trí là nền tảng của chính quyền dân chủ nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc

Tại Đại hội IIcủa Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam nêu rõ: Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân,nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính đối với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc. Nội dung chính quyền đó là nhân dân dân chủ chuyên chính. “Chính quyền đó dựa vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí óc làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”(9). Đó chính là tổng kết lý luận rút ra từ thực tế. Sau khi giành được chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm xây dựng bộ máy nhà nước hợp hiến của dân, do dân,vì dân, trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công -nông -trí.

Ở cương vị đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gần gũi, tin tưởng, quý trọng trí thức.Người khẳng định rõ:“Dưới chế độ dân chủ mới, những người lao động trí óc, cũng như lao động chân tay, đều có dịp phát huy và phát triển tài năng của mình nhằm mục đích phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy được đồng bào kính trọng, được Chính phủ và Đoàn thể nêu cao”(10). “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn nhiều”(11).Trên cơ sở đó, Người thực hiện nhiều biện pháp biến tư tưởng đó thành chính sách cụ thể, thành hiện thực trong cách mạng. Trong thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng việc tìm kiếm, phát hiện người có tài, có đức, mạnh dạn sử dụng những trí thức do chế độ cũ đào tạo nhưng có tinh thần dân tộc và lòng yêu nước. Có nhiều trí thức tự nguyện đi theo cách mạng trở thành những nhà cách mạng chuyên nghiệp, giữ trọng trách trong bộ máy Đảng, Chính phủ, như các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Văn Hiến, Tố Hữu, v.v.

Năm 1947, Chính phủ được cải tổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời một số nhân sĩ, trí thức giữ một số ghế trong Chính phủ: Luật sư Phan Anh, Giáo sư Tạ Quang Bửu. Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông Phan Kế Toại (cựu Tổng đốc Triều Nguyễn, Khâm sai đại thần trong chính phủ Trần Trọng Kim) giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Phó Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (1948); Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1955- 1961)).

Như vậy, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thực sự được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - trí. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đóng vai trò nòng cốt của khối đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

4. Liên minh - công - nông - trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ,khi nước ta bước vào xây dựng chế độ XHCNđã có những chuyển biến quan trọng về vị thế của các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.Công nhân là người chủ tập thể của các xí nghiệp, là giai cấp lãnh đạo nước nhà.Nông dân không còn là nô lệ của địa chủ, không còn phải mơ ước có một “miếng đất cắm dùi” như thời xưa. Nông dân là người chủ tập thể của hợp tác xãvàlà người bạn trung thành nhất của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng CNXH.Trí thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công - nông và cùng công-nông ra sức xây dựng xã hội mới.

Người khẳng định,CNXHlà một xã hội có nền kinh tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá,khoa học-kỹ thuật tiên tiến. Chính sự gắn bó khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp trong một nền kinh tế thống nhất với sự phát triển của văn hoá, khoa học-kỹ thuật là tiền đề khách quan tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình phát triển.

Xem thêm: Hướng Dẫn Thủ Tục Hoàn Thuế Thu Nhập Cá Nhân Năm 2020, Hướng Dẫn Thủ Tục Hoàn Thuế Thu Nhập Cá Nhân

Nền kinh tế XHCNchính là cơ sở vững chắc của liên minh giai cấp công nhân vànông dân.Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế.Nông nghiệpphải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy móc.Công nghiệpphải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần dần máy cấy, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên, “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công-nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”(12). Người nhấn mạnh,liên minh là phải giúp đỡ nhau thực sự, chứ không phải chỉ liên minh cửa miệng.

Trong xây dựng CNXH, giai cấp công nhân không chỉ cần liên minh với nông dân, mà còn phải liên minh với đội ngũ trí thức, vì sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá và khoa học - kỹ thuật. “Cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức(chúng ta quen gọi là lao động trí óc). Thí dụ: cần có thầy thuốc để săn sóc sức khoẻ cho nhân dân; cần có thầy giáo để dạy văn hoá và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư để xây dựng kinh tế, v.v.. Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”(13).

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khách quan của mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa trí thức với toàn thể nhân dân lao động. Dưới chế độ XHCN,khoa học là tài sản chung của toàn dân. Bởi vậy, đội ngũ trí thức phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của đội ngũ trí thức.Đội ngũ trí thức “phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài,góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”(14).

Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội - giai cấp của CNXH. Xu hướng hợp tác giữa các giai cấp và tầng lớp đó dựa trên những cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp công nhân mà của cả nông dân, trí thứcvà do đòi hỏi của sự nghiệp phát triển công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại và sự phát triển văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến.

Trong khối liên minh,Hồ Chí Minh xác định:giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, thông qua chính đảng của mình đề ra đường lối cách mạng, chủ trương nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên CNXH. Bằng hành động và các chính sách thực tiễn, Đảng của giai cấp công nhân giác ngộ, thu hút giai cấp mình và mọi tầng lớp lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình trong toàn bộ tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCNcủa dân, do dân, vì dân.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớptrong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớptrong cách mạng vàxã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thànhnhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công - nông - trí được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong các chặng đường cách mạng. Trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định rõ: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(15).

PGS.TS Nguyễn Thế Thắng - Học viện Chính trị Khu vực I

-----------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.441.

(2), (3), (5), (7) Sđd, t.8, tr.256, 257, 258, 274.

(4) Sđd, t.12, tr.416.

(6) Sđd, t.7, tr.50.

(8) Sđd, t.3, tr.3.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.12, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.437.

(10) Sđd, t.6, tr.542.

(11) Sđd, t.5, tr.235.

(12) Sđd, t.13, tr.376.

(13) Sđd, t.10, tr.376.

(14) Sđd, t.14, tr.97-98.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớptrong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớptrong cách mạng vàxã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thànhnhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Bạn đang xem: Vì sao giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất


Vì sao giai cấp công nhân la giai cấp tiên phong cách mạng

1. Vai trò của liên minh công - nông - trí trong cách mạng Việt Nam

Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước ở chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng cách mạng. Người xác định, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân (GCCN) mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh xác định GCCN là giai cấp tiến bộ nhất, cách mạng nhất, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức. Người khẳng định rõ: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”(1).

Vì sao công nhân là giai cấp cách mạng?Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích một cách toàn diện:“kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật, (...)là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo”(2). Người cũng nêu rõ GCCNđược trang bịchủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng cách mạng. “Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai saucông nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tăng thêm”(3).

Giai cấp công nhân cóvị trítrung tâm trong xã hội bởi là giai cấpđại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất,là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thông qua Đảng của mình lãnh đạo cách mạng và toàn xã hội. Song để hoàn thành được sứ mệnh đó, giai cấp công nhân cần lôi cuốn, tập hợp cácgiai cấp, tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc đứng lên làm cách mạng.

Giai cấp nông dân Việt Namlà lực lượngđông đảo nhất trong xã hội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”. Người chỉ rõ:Giai cấp nông dân, trong đóbần nông vàtrung nônglà đội quân chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới.Ở nông thôn, bần nônglà lớp người đông nhất và nghèo khổ nhất. Họ bị địa chủ phong kiến bóc lột tàn tệ. Bần nông hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng và rất mong muốn thực hiện chính sách dân cày có ruộng. Vì vậy,họ là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân.Trung nônglà lớp người mình cày ruộng của mình, cũng không phải làm thuê cho ai. Họ cũng bị địa chủ, bọn cho vay nặng lãi và bọn đế quốc áp bức bóc lột. Thực hiện chính sách “dân cày có ruộng” thì họ cũng có lợi. Cho nên họ cũng hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc chắn của giai cấp công nhân.

Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp nông dân là quân chủ lực của cách mạng, vì họ là lớp người đông nhất trong nhân dân. Hồ Chí Minh xác định:“Trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”(4).Nông dân Việt Nam có tinh thần cách mạng. Tuy vậy, họ không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng vì họ không gắn liền với một phương thức sản xuất mới và không có hệ tư tưởng độc lập. Họ cũng không có khả năng tự xây dựng một chế độ xã hội mới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì hoàn cảnh kinh tế lạc hậu, mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ, và lãnh đạo họ, thì họ là một lực lượng rất to lớn vững chắc. Thế là công nông liên minh”(5).

Kế thừa tư tưởng truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh sớm đánh giá cao vai trò của trí thức. Từ buổi đầu hoạt động cách mạng, Người xác định trí thức là tầng lớp hàng đầu trong xã hội Việt Nam và ủng hộ những hoạt động yêu nước của họ: Tố cáo những âm mưu, tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, học sinh; Quan tâm thức tỉnh tinh thần dân tộc, lòng yêu nước ở trí thức; Vạch trần âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc, phong kiến đối với tầng lớp trí thức nước ta.

Phân tích sâu sắc đặc điểm, tính chất tầng lớp trí thức nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trí thức nước ta cũng như trí thức tại các nước thuộc địa, bán thuộc địa hay các dân tộc bị áp bức, khác với trí thức các nước tư bản đế quốc. Ở các nước tư bản,trí thức đa số là ở trong giai cấp tư sản mà ra rồi lại trở lại phục vụ cho tư sản. Ở nước ta thì khác, dù là trí thức một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản nhưng cũng đều bị đế quốc áp bức. Vì vậy,trí thức Việt Nam có tinh thầndân tộc và cách mạng, có học thức nên xem được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách mạng Pháp, nên dễ hấp thụ được tinh thần cách mạng.Lúc đã hiểu biết, trí thức ta dễ theo cách mạng.

Hồ Chí Minh xác định trí thức là một bộ phận trong lực lượng cách mạng và là đồng minh ngày càng quan trọng của giai cấp công nhân trong tiến trình đi lên CNXH.

2. Đảng Cộng sản xây dựng và lãnh đạo khối liên minh công - nông - trí

Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng là đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Người chỉ rõ,Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành phần chủ chốt trong Đảng là các phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong các phong trào yêu nước và cách mạng. Đảng talà Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân(6). Đảng là bộ đội tiền tiến của nhân dân lao động (công nhân, nông dân và lao động trí óc)(7).

Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân như nhiều đảng mác xít ở các nước tư bản phát triển, mà còn là đội tiên phong của nhân dân lao động trong đó nòng cốt là công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Ngay khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vạch ra sách lược cơ bản của Đảng là phải lôi cuốn được giai cấp vô sản, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đi theo cách mạng, hình thành nên khối liên minh công- nông- trí, nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân. Sách lược vắn tắt của Đảngchỉ rõ: (1) Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; (2) Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến; (3) Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; (4) Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp(8).

Như vậy, ngay từ khi thành lập Đảng,Hồ Chí Minh đã vạch ra nhiệm vụ vận động công nhân, nông dân, trí thức đoàn kết lại đứng lên làm cách mạng. Với các chính sách:Công nông trí thức hoá; Trí thức công nông hoá(anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng biết làm lao động, hợp thành một khối với công nông, nâng cao trình độ công nông về văn hóa, lý luận),Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là tổ chức xây dựng và lãnh đạo khối liên minh công - nông - trí.

3. Liên minh công - nông - trí là nền tảng của chính quyền dân chủ nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc

Tại Đại hội IIcủa Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam nêu rõ: Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân,nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính đối với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc. Nội dung chính quyền đó là nhân dân dân chủ chuyên chính. “Chính quyền đó dựa vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí óc làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”(9). Đó chính là tổng kết lý luận rút ra từ thực tế. Sau khi giành được chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm xây dựng bộ máy nhà nước hợp hiến của dân, do dân,vì dân, trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công -nông -trí.

Ở cương vị đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gần gũi, tin tưởng, quý trọng trí thức.Người khẳng định rõ:“Dưới chế độ dân chủ mới, những người lao động trí óc, cũng như lao động chân tay, đều có dịp phát huy và phát triển tài năng của mình nhằm mục đích phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy được đồng bào kính trọng, được Chính phủ và Đoàn thể nêu cao”(10). “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn nhiều”(11).Trên cơ sở đó, Người thực hiện nhiều biện pháp biến tư tưởng đó thành chính sách cụ thể, thành hiện thực trong cách mạng. Trong thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng việc tìm kiếm, phát hiện người có tài, có đức, mạnh dạn sử dụng những trí thức do chế độ cũ đào tạo nhưng có tinh thần dân tộc và lòng yêu nước. Có nhiều trí thức tự nguyện đi theo cách mạng trở thành những nhà cách mạng chuyên nghiệp, giữ trọng trách trong bộ máy Đảng, Chính phủ, như các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Văn Hiến, Tố Hữu, v.v.

Năm 1947, Chính phủ được cải tổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời một số nhân sĩ, trí thức giữ một số ghế trong Chính phủ: Luật sư Phan Anh, Giáo sư Tạ Quang Bửu. Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông Phan Kế Toại (cựu Tổng đốc Triều Nguyễn, Khâm sai đại thần trong chính phủ Trần Trọng Kim) giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Phó Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (1948); Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1955- 1961)).

Như vậy, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thực sự được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - trí. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đóng vai trò nòng cốt của khối đại đoàn đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

4. Liên minh - công - nông - trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ,khi nước ta bước vào xây dựng chế độ XHCNđã có những chuyển biến quan trọng về vị thế của các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.Công nhân là người chủ tập thể của các xí nghiệp, là giai cấp lãnh đạo nước nhà.Nông dân không còn là nô lệ của địa chủ, không còn phải mơ ước có một “miếng đất cắm dùi” như thời xưa. Nông dân là người chủ tập thể của hợp tác xãvàlà người bạn trung thành nhất của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng CNXH.Trí thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công - nông và cùng công-nông ra sức xây dựng xã hội mới.

Người khẳng định,CNXHlà một xã hội có nền kinh tế công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá,khoa học-kỹ thuật tiên tiến. Chính sự gắn bó khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp trong một nền kinh tế thống nhất với sự phát triển của văn hoá, khoa học-kỹ thuật là tiền đề khách quan tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình phát triển.

Xem thêm: Hướng Dẫn Thủ Tục Hoàn Thuế Thu Nhập Cá Nhân Năm 2020, Hướng Dẫn Thủ Tục Hoàn Thuế Thu Nhập Cá Nhân

Nền kinh tế XHCNchính là cơ sở vững chắc của liên minh giai cấp công nhân vànông dân.Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế.Nông nghiệpphải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy móc.Công nghiệpphải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần dần máy cấy, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên, “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công-nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”(12). Người nhấn mạnh,liên minh là phải giúp đỡ nhau thực sự, chứ không phải chỉ liên minh cửa miệng.

Trong xây dựng CNXH, giai cấp công nhân không chỉ cần liên minh với nông dân, mà còn phải liên minh với đội ngũ trí thức, vì sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá và khoa học - kỹ thuật. “Cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức(chúng ta quen gọi là lao động trí óc). Thí dụ: cần có thầy thuốc để săn sóc sức khoẻ cho nhân dân; cần có thầy giáo để dạy văn hoá và đào tạo cán bộ; cần có kỹ sư để xây dựng kinh tế, v.v.. Vì lẽ đó, trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”(13).

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khách quan của mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa trí thức với toàn thể nhân dân lao động. Dưới chế độ XHCN,khoa học là tài sản chung của toàn dân. Bởi vậy, đội ngũ trí thức phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ. Có như vậy nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của đội ngũ trí thức.Đội ngũ trí thức “phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài,góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”(14).

Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội - giai cấp của CNXH. Xu hướng hợp tác giữa các giai cấp và tầng lớp đó dựa trên những cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của riêng giai cấp công nhân mà của cả nông dân, trí thứcvà do đòi hỏi của sự nghiệp phát triển công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại và sự phát triển văn hóa, khoa học, công nghệ tiên tiến.

Trong khối liên minh,Hồ Chí Minh xác định:giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, thông qua chính đảng của mình đề ra đường lối cách mạng, chủ trương nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên CNXH. Bằng hành động và các chính sách thực tiễn, Đảng của giai cấp công nhân giác ngộ, thu hút giai cấp mình và mọi tầng lớp lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình trong toàn bộ tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCNcủa dân, do dân, vì dân.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớptrong một chỉnh thể thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớptrong cách mạng vàxã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thànhnhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công - nông - trí được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong các chặng đường cách mạng. Trong tình hình mới, Đảng ta khẳng định rõ: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(15).

PGS.TS Nguyễn Thế Thắng - Học viện Chính trị Khu vực I

-----------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.441.

(2), (3), (5), (7) Sđd, t.8, tr.256, 257, 258, 274.

(4) Sđd, t.12, tr.416.

(6) Sđd, t.7, tr.50.

(8) Sđd, t.3, tr.3.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.12, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.437.

(10) Sđd, t.6, tr.542.

(11) Sđd, t.5, tr.235.

(12) Sđd, t.13, tr.376.

(13) Sđd, t.10, tr.376.

(14) Sđd, t.14, tr.97-98.

Giai cấp công nhân Việt Nam - lực lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam

Thứ Hai, 27/04/2020 08:30:00

(BKTO) - Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam, luôn đứng ở trung tâm các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định, giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế.

  • Mục lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Quan niệm
  • 3 Sứ mệnh lịch sử
    • 3.1 Quan điểm
    • 3.2 Khái niệm
    • 3.3 Nội dung
    • 3.4 Điều kiện quy định
      • 3.4.1 Về khách quan
      • 3.4.2 Về chủ quan
  • 4 Chủ nghĩa quốc tế
    • 4.1 Khái niệm
    • 4.2 Nội dung
    • 4.3 Cơ sở hình thành
    • 4.4 Chủ thể thực hiện
    • 4.5 Hình thức
  • 5 Chú thích

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và ý nghĩa thời đại

Thứ sáu - 23/07/2021 14:36 218.658 0
(TG) - Cách đây 173 năm, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đánh dấu bước phát triển trong lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác. Một trong những quan điểm nổi bật của tác phẩm là C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách thuyết phục sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là “vũ khí lý luận” sắc bén để giai cấp công nhân có thể bước lên vũ đài chính trị và khẳng định vai trò to lớn của mình trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Cho đến nay, quan điểm này vẫn có ý nghĩa to lớn, nhất là cung cấp cơ sở lý luận vững chắc để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Vì sao giai cấp công nhân la giai cấp tiên phong cách mạng
C.Mác và Ph.Ăngghen (Ảnh minh họa)

1.Ngày 24/2/1848,“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”(gọi tắt làTuyên ngôn) - một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử quan trọng do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của Liên đoàn những người cộng sản (một tổ chức công nhân quốc tế) lần đầu tiên được xuất bản tại Luân Đôn (Anh). Trong phần mở đầu, khi nói về bối cảnh ra đời củaTuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ nỗi sợ hãi và sự căm thù của các thế lực trong thế giới tư bản chủ nghĩa (TBCN) đối với phong trào cộng sản đang hình thành và ngày một phát triển sâu rộng bằng một lời khẳng định rất cô đọng: Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu.“Bóng ma” ấy đã khiến cho các thế lực trong thế giới tư bản phải “liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử”. Chính vì vậy, “hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”(1).

Trong bối cảnh đó, để giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới và các chính đảng nhận thức rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử và mục đích cao cả trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản (CNTB), đồng thời thiết lập địa vị thống trị của mình và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác họa nên một bức tranh sinh động về quá trình hình thành và phát triển của CNTB, bóc trần những mâu thuẫn nội tại, vốn có của nó, chỉ rõ mức độ đối kháng giai cấp ngày càng sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Không chỉ vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen còn khẳng định: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; ở bất cứ nơi nào mà giai cấp tư sản thiết lập được quyền thống trị chính trị của mình, nó đều “đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên”, làm tiêu tan “tất cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ, với cả tràng những quan niệm và tư tưởng vốn được tôn sùng từ nghìn xưa đi kèm những quan hệ ấy”. Nó “làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới”, những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc “trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” và “lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh”. Hơn nữa, giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”(2).

Đánh giá cao những thành tựu và đóng góp ấy của CNTB và giai cấp tư sản, song với cái nhìn biện chứng khách quan về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, trongTuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định rằng, giờ đây, giống như những gì đã xảy ra với các phương thức sản xuất trước kia, quan hệ sản xuất TBCN đã không còn phù hợp với lực lượng sản xuất hùng mạnh do nó tạo ra nữa, nó bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất này. TrongTuyên ngôn, khi chứng minh sự tất yếu phải diệt vong của CNTB và khẳng định “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, điều đó sẽ không tự động diễn ra. Vai trò kẻ đào huyệt chôn chế độ tư bản đã trở nên lỗi thời đó sẽ phải do một giai cấp nhất định thực hiện - giai cấp vô sản, giai cấp do chính xã hội tư bản sản sinh ra: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, nhữngngười vô sản”(3). Theo các ông, không một giai cấp thống trị đã lỗi thời nào lại tự nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử và do vậy, việc lật đổ giai cấp tư sản với tư cách một giai cấp thống trị đã hết vai trò lịch sử chỉ có thể thành công bởi một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt - cuộc cách mạng vô sản do chính giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng của nó thực hiện.

Một trong những điểm nhấn quan trong củaTuyên ngônlà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành luận chứng cho sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Theo các ông, trong thời đại ngày nay, với tư cách là “sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”, giai cấp vô sản không chỉ trở thành “giai cấp đang nắm tương lai trong tay”, mà còn là “giai cấp thực sự cách mạng” nhất và chính nền sản xuất TBCN đã đưa họ lên địa vị đó, lên vũ đài lịch sử với tư cách lực lượng cách mạng hùng hậu và không điều hòa với toàn bộ chế độ lao động làm thuê. Sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản phải do chính giai cấp vô sản thực hiện. Song, giai cấp vô sản tiến hành cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB không chỉ vì sự nghiệp giải phóng mình, mà còn thực hiện một sứ mệnh cao cả nữa, mang đậm tính nhân văn cộng sản chủ nghĩa là giải phóng toàn thể nhân loại cần lao vĩnh viễn thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột.

Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB, giai cấp vô sản cần phải có phương pháp cách mạng đúng đắn và thực thi những giải pháp tình thế một cách hợp lý, đúng đắn, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”(4). Với quyền thống trị chính trị của mình, giai cấp vô sản, theo các ông, cần phải từng bước giành lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả các công cụ sản xuất chủ yếu vào tay nhà nước vô sản để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Không chỉ thế, các ông còn cho rằng, thông qua con đường đấu tranh cách mạng, việc giai cấp vô sản “tự tổ chức thành giai cấp”, “trở thành giai cấp thống trị” và thiết lập chính quyền vô sản - một chính quyền dân chủ do chính ngay bản chất của nó, thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân và dựa vào sự ủng hộ của nhân dân - phải được coi là vấn đề đầu tiên, then chốt và mang ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ giai cấp tư sản và CNTB, xây dựng thành công chế độ xã hội mới.

Ngay khi C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra tư tưởng này đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của các học giả tư sản và giai cấp tư sản. Họ cho rằng những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là “không tưởng”, “xuất phát từ sự tư biện chủ quan”(5). Tuy nhiên, lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã cho thấy, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử củaTuyên ngônthực sự là “vũ khí lý luận” sắc bén để giai cấp vô sản từng bước bước lên vũ đài chính trị và khẳng định sứ mệnh lịch sử của mình.

2.Mặc dù đã ra đời cách đây 173 năm nhưngTuyên ngônvẫn thể hiện ý nghĩa thời đại rất sâu sắc, đặc biệt trong việc đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái, thù địch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.

Thời gian qua, có ba xu hướng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Thứ nhất, gần đây, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ (KHCN) hiện đại, các học giả của thuyết kỹ trị cho rằng, sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot thông minh”, “trí tuệ nhân tạo” khiến người máy đang dần thay thế con người. Điều đó khiến người lao động vốn từ chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề quá trình sản xuất ấy, trở thành nhân tố đóng vai trò thứ yếu. Biểu hiện của sự thay đổi này là thay về cần đến nhiều nhân công để lao động, sản xuất thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp chỉ cần ít nhân công. Thay vì trả lương cho nhân công, các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, công nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị cho rằng đã đến lúc cần xem xét lại quan điểm của C.Mác về vai trò, vị trí trung tâm, có ý nghĩa quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật chất. Theo quan điểm của C.Mác, người lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không ai khác chính là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản nên mục đích sâu xa của quan điểm này là nhằm phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân.

Thứ hai, có một số luận điệu cho rằng, giai cấp công nhân đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập, thời kỳ của các cuộc cách mạng KHCN, vai trò đó phải thuộc về đội ngũ trí thức, những nhà khoa học. Chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới có thể làm chủ được xã hội, đưa đất nước phát triển hiện đại, văn minh.

Thứ ba,có quan điểm cho rằng, trong xã hội tư bản hiện đại, đời sống của giai cấp công nhân không còn cơ cực như trước. Ở nhiều công ty, người công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu nên họ không còn là giai cấp vô sản nữa. Vì thế, mẫu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản cũng không còn mang tính chất đối kháng như trước đây. Vì thế, giai cấp công nhân cũng không còn cần đến sứ mệnh lịch sử của mình là “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” như C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng khẳng định trongTuyên ngôn.

Có thể nhận thấy, cả ba xu hướng trên đều căn cứ vào sự phát triển của xã hội hiện đại mà thời của C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có được để phủ nhận tính đúng đắn trong quan điểm về vai trò quyết định của người lao động trong hoạt động sản xuất vật chất cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể phủ nhận được ngày nay những thành tựu củaKHCNhiện đại với sự ra đời của người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp, mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất,KHCNtrước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển củaKHCN, đồng thời quyết định việc sử dụngKHCNvào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại củaKHCNhiện đại, người lao động hay nói cụ thể hơn là giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò quyết định hoạt động sản xuất vật chất.

Ngoài ra, ngày nay, mặc dù tầng lớp trí thức đang gia tăng nhanh chóng về số lượng, ngay cả bản thân giai cấp công nhân cũng diễn ra xu hướng trí thức hóa ngày càng mạnh mẽ nhưng điều đó không có nghĩa là tầng lớp trí thức thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. C.Mác, Ph.Ăngghen và cả V.I.Lênin sau này cũng nhận thấy vai trò to lớn của tầng lớptrí thức trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân nhưng do phương thức lao động quy định và vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội, tầng lớp trí thức không có hệ tư tưởng nên không thể giữ vai trò lãnh đạo xã hội. V.I.Lênin cho rằng: “So với giai cấp công nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều kiện cơ bản của đời sống và công tác của họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”(6).

Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu của cách mạng vô sản, phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản, bảo vệ những quan điểm, lập trường tư sản, phản ánh những lợi ích của giai cấp tư sản. Cùng với thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, tầng lớp trí thức ngày càng nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tìm thấy lợi ích của mình trong cuộc đấu tranh chung đó. Vì thế, ngày càng nhiều trí thức đi theo giai cấp công nhân, ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.Tuy nhiên,trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà là một tầng lớp (đội ngũ) trung gian trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực lao động trí óc (sản xuất tinh thần là chủ yếu), trí thức không có hệ tư tưởng độc lập mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp mà họ phục vụ. Đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi”(7).

Hơn nữa, trong lòng xã hội tư bản, đời sống của người lao động tuy có được cải thiện, nhưng số người bị “hất” ra hè phố, số người nghèo khổ vẫn ngày càng tăng. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia hay nội chiến do các nước đế quốc phát động là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ(8). Đó là một bằng chứng không gì thuyết phục hơn để khẳng định CNTB sẽ không bao giờ thay đổi bản chất của họ nên giai cấp công nhân cũng sẽ vẫn còn sứ mệnh lịch sử to lớn trong việc đấu tranh giải phóng giai cấp mình và tiến tới giải phóng toàn xã hội.

Trong những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng gia tăng về số lượng, trưởng thành về trình độ, ý thức, kỹ năng... Giai cấp công nhân nước ta lãnh đạo xã hội qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, tay nghề của công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn khi thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Do đó, để giai cấp công nhân nước ta tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, đúng như Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định, cần phải“phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(9).

Cho đến nay, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân qua“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Nó không chỉ là vũ khí lý luận sắc bén cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng giai cấp mình và toàn xã hội, mà hiện nay, nó còn là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhìn lại những quan điểm của các nhà kinh điển để chúng ta càng thêm vững tin vào con đường đã chọn, vững tin vào giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin - cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

TS. Lê Thị Chiên
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn tin: tuyengiao.vn