Bà tổ của nghề chèo là ai

Người nổi tiếng> Diễn viên chèo> Phạm Thị Trân

Diễn viên chèo Phạm Thị Trân là ai? Phạm Thị Trân hiệu là Huyền Nữ, bà được xem là bà tổ của bộ môn chèo và cũng chính là vị tổ nghề của sân khấu Việt Nam. Bà sống dưới thời nhà Đinh, là người phụ nữ đầu tiên được phong làm quan trong thời đại phong kiến. Bà được xem là người phụ nữ hyền thoại của dân tộc Việt Nam và được thế giới xếp vào danh sách “Những hình tượng phụ nữ nổi tiếng nhất của nhân loại từ thời tiền sử đến nay”.Phạm Thị Trân sở hữu giọng hát hay và là người phụ nữ có nhan sắc nên sớm nổi tiếng. Vào thời nhà Đinh, bà là người có sức ảnh hưởng lớn đến công chúng nên đã góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân sĩ thời này. Và đây cũng chính là thời điểm nghệ thuật chèo ra đời. Thời đó, bộ môn chèo trở nên phát triển sôi nổi ở các vùng quê phía bắc. Với việc sáng tạo ra phép đánh trống hào hùng khi biểu diễn, bà đã tạo nên sức hút cho bộ môn nghệ thuật này.

Năm 976, Phạm Thị Trân qua đời, người dân đã thờ kinh bà và tôn bà thành "bà tổ hát chèo". Hàng năm vào ngày 12/08 âm lịch, người dân Việt Nam đều tổ chức "Lễ giỗ bà tổ hát chèo" nhằm tưởng nhớ công lao của bà đối với bộ môn nghệ thuật này.

Diễn viên chèo Phạm Thị Trân bắt đầu tham gia các đoàn múa hát và làm trờ từ khi còn bé. Theo nhận xét, bà là người phụ nữ có tài sắc, thông minh nên rất được các quan khách mến mộ. Khi lớn lên, Phạm Thị Trân là một cô thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, tiếng hát của bà ngày một điêu luyện hơn và nhanh chóng nổi tiếng khắp vùng.

Các mối quan hệ thân thiết

Bạn trai/ chồng/ người yêu Diễn viên chèo Phạm Thị Trân là ai?
Thông tin này hiện đang được cập nhật!

Diễn viên chèo Phạm Thị Trân cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu? Chiều cao: đang cập nhậtCân nặng: đang cập nhật

Số đo 3 vòng: đang cập nhật

Diễn viên chèo Phạm Thị Trân sinh năm bao nhiêu, bao nhiêu tuổi?Phạm Thị Trân sinh ngày ?-?-926, mất năm 976, hưởng thọ 50 tuổi.

Diễn viên chèo Phạm Thị Trân sinh ở đâu, con giáp/ cung hoàng đạo gì?


Phạm Thị Trân sinh ra tại Tỉnh Hưng Yên, nước Việt Nam. Bà sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Ninh Bình, nước Việt Nam. Bà sinh thuộc cung (chưa rõ), cầm tinh con (giáp) chó (Bính Tuất 926). Phạm Thị Trân xếp hạng nổi tiếng thứ 85347 trên thế giới và thứ 15 trong danh sách Diễn viên chèo nổi tiếng.

Người nổi tiếng theo ngày sinh:
12345678910111213141516171819202122232425262728293031 / 123456789101112 196219631964196519661967196819691970197119721973197419751976197719781979198019811982198319841985198619871988198919901991199219931994199519961997199819992000200120022003200420052006200720082009201020112012201320142015201620172018

Thông tin/ profile đầy đủ và mới nhất của Phạm Thị Trân được nguoinoitieng.tv cập nhật liên tục. Các thông tin về Diễn viên chèo Phạm Thị Trân có thể chưa đủ hoặc chưa chính xác và chỉ mang tính tham khảo, nếu bạn thấy thông tin là chưa chính xác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email: .

THỨ BẢY, 20/10/2018 07:39:49

Bà tổ của nghề chèo là ai

Đền Vân Thị ở Ninh Bình - nơi thờ bà Phạm Thị Trân. Ảnh: Cổng TTĐTDL Ninh Bình

Múa hát như muốn hát bàn đào/Hát giục mây bay, giục gió ào/Tiếng hát kinh hồn quân bạc ác/Lời than làm nhỏ lệ đồng bào. Đó là những câu thơ truyền trong dân gian, ca ngợi người phụ nữ đặt nền móng cho nghệ thuật chèo nước nhà - bà Phạm Thị Trân (926-976). Được Đinh Tiên Hoàng triệu kiến về kinh đô Hoa Lư, bà không chỉ dạy đánh trống, mà còn dạy múa hát, được nhà vua phong Ưu bà (người phụ nữ lớn tuổi đáng kính làm nghề hát xướng). Lời ca của bà mang tinh thần thượng võ, yêu nước: “Chinh tòng chinh, chinh tòng chinh/Bất diệt thù hề, bất nguyện sinh”. Nghĩa là, đi chiến đấu, đi chiến đấu, không diệt được thù không thèm sống. Cách rước trống chèo của bà Phạm Thị Trân có sức cổ vũ lớn đối với tinh thần chiến đấu của quân sĩ:“Nam chinh sát Bắc tướng, diệt Bắc tướng. Nam thiên sinh vương, Nam thiên sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng đế”. Dịch nghĩa, quân Nam giết tướng Bắc, diệt tướng Bắc, trời Nam sinh vương, trời Nam sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng đế.

Bài trống trận khích lệ binh sĩ

Theo nhiều tài liệu lịch sử, bà Phạm Thị Trân hiệu là Huyền Nữ (người phụ nữ huyền diệu). Bà được suy tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo và ngành sân khấu Việt Nam. Theo sách Đả Cố lục, bà Phạm Thị Trân quê ở Hồng Châu, thuộc hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên ngày nay. Thời ấy, cả vùng quê rộng lớn Hải Dương, Hưng Yên phát triển hát chèo. Sau này, nhiều nghệ nhân hát chèo ưu tú, tài ba trưởng thành từ nơi đây, truyền thụ cho thế hệ sau nền nghệ thuật dân tộc độc đáo. Sách Đả cố lục cũng chép rằng cách rước trống chèo nhà Đinh của bà Phạm Thị Trân có khả năng cổ vũ rất lớn tinh thần chiến đấu của quân sĩ.

Bà tổ của nghề chèo là ai

Tranh minh họa cảnh bà Phạm Thị Trân dạy nhạc cho quân lính. Nguồn: Báo Bình Phước

Quân đội nhà Đinh bấy giờ toàn nông dân, chưa quen quy củ. Cùng với quá trình luyện tập, các bài trống trận đã góp phần giúp quân sĩ răm rắp tiến thoái theo lệnh, dần trở thành chuyên nghiệp hơn. Cùng chủ trương của vua Đinh Tiên Hoàng, bà Phạm Thị Trân đã sáng tạo ra cách đánh trống trận rất hào hùng, mạnh mẽ, vừa dùng biểu diễn, vừa dùng trong chiến trận, đến nay vẫn còn lưu truyền. Dù không trực tiếp cầm quân ra trận, bằng những bài trống độc đáo của mình, bà góp phần giúp quân đội nhà Đinh ngày càng lớn mạnh.

Khởi xướng nghệ thuật hát chèo

Bấy giờ, nước ta vừa thoát khỏi ách đô hộ của phương Bắc chưa lâu. Giáo phường dân gian bắt đầu phát triển, tập hợp những người làm nghề hát xướng. Các giáo phường thường giữ vai trò chủ chốt trong  đám tế thần và hội làng. Bà Phạm Thị Trân là một trong những đào nương lừng danh, hát hay, múa giỏi lại đánh trống rất tài, danh tiếng lan truyền khắp nơi. Giáo phường của bà thường được các danh gia vọng tộc khắp vùng mời đến biểu diễn. Biết tin, vua Đinh Tiên Hoàng triệu kiến bà về kinh đô Hoa Lư, giao nhiệm vụ dạy cũng nữ, binh lính múa hát, đánh trống, gẩy đàn, diễn các tích trò, lúc đó gọi là hát trò nhời hay hát chèo. Việc này được Trạng lường Lương Thế Vinh chép trong sách Hý phường phả lục. Theo đó, vào khoảng niên hiệu Thái Bình (970-979), biết tin vua Đinh Tiên Hoàng ban chiếu lệnh tìm người giỏi ca múa vào phục vụ trong cung, viên quan trấn giữ Hồng Châu đã tiến cử Phạm Thị Trân với triều đình. Sau khi vào kinh đô, kỹ năng múa hát của bà ngày càng thêm nổi bật, tiếng đồn rộng lan khắp cả một vùng, được dân gian ca ngợi. Với công lao to lớn với nghệ thuật nước nhà trong buổi sơ khai, sau khi mất, bà được nhân dân suy tôn là bà tổ hát chèo. Những người hoạt động trong ngành sân khấu, chèo nước ta và các chiếu chèo, làng chèo cổ, thường tổ chức “Lễ giỗ bà tổ của nghề hát chèo” vào ngày 12.8 âm lịch hàng năm. Đền thờ chính bà tổ ngành chèo Phạm Thị Trân hiện nay là Vân Thị, nằm cùng khuôn viên với Nhà hát chèo Ninh Bình và Nhà văn hóa Ninh Bình.

Ngoài ra, đình làng Hoàng Quan và một số di tích ở các xã Đông Phương, Đông Phong, Đông Cường trên địa bàn huyện Đông Hưng, Thái Bình, cũng thờ đào nương Phạm Thị Trân - bà tổ của nghệ thuật hát chèo ở Việt Nam.

NGUYỄN THANH ĐIỆP (Zing)

  • TAG
  • PHẠM THỊ TRÂN
  • NGHỆ THUẬT
  • HÁT CHÈO
  • ĐINH TIÊN HOÀNG
  • BÀ TỔ NGÀNH CHÈO
  • HỒNG CHÂU

Bà Phạm Thị Trân hiệu Huyền Nữ, là một nữ nghệ sĩ thời nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam. Bà Phạm Thị Trân nổi tiếng là người xinh đẹp, tài sắc với giọng ca được vua Đinh yêu mến. Bà là được tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo đồng thời cũng là vị tổ nghề đầu tiên của ngành sân khấu Việt Nam.

[links()]

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình.

Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ X. Kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình chính là đất tổ của sân khấu chèo. Và người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ X.

Bà Phạm Thị Trân sinh năm 926, mất năm 976 hiệu là Huyền Nữ. Bà là một nữ nghệ sĩ thời nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam. Bà là được tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo đồng thời cũng là vị tổ nghề đầu tiên của ngành sân khấu Việt Nam.

Trong sách “Đả cố lục” chỉ ghi Phạm Thị Trân sinh ở Hồng Châu, vùng đất này thuộc các huyện Cẩm Giàng, Bình Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc, Ninh Giang, Thanh Miện (tỉnh Hải Dương) và Yên Mỹ, Văn Lâm (tỉnh Hưng Yên) ngày nay.

Bà tổ của nghề chèo là ai
Một trích đoạn trong "Thị Mầu lên chùa"

Sự nghiệp của bà được phát triển kể từ khi viên quan đất này tiến cử bà vào kinh đô Hoa Lư để tham gia múa hát, truyền dạy cho cung nữ và binh lính triều đình.

Theo sử sách, Phạm Thị Trân sống vào thời Đinh Tiên Hoàng. Là người phụ nữ nhan sắc, lại có tài múa hát, bà luôn giữ vai trò chủ chốt trong các nhóm, các đoàn đi múa hát và làm trò thời đó. Lời ca tiếng hát của bà được dân gian ca ngợi thành thơ: “Múa hát như muốn hát bàn đào/ Hát giục mây bay, giục gió ào/ Tiếng hát kinh hồn quân bạc ác/ Lời than làm nhỏ lệ đồng bào”.

Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho mời bà về kinh đô Hoa Lư và phong cho bà chức Ưu Bà, chịu trách nhiệm dạy quân lính múa hát, đánh trống, gẩy đàn, diễn các tích trò, lúc đó gọi là hát trò nhời hay gọi là hát chèo.

Lời ca của bà mang tinh thần thượng võ yêu nước: “Chinh tòng chinh, chinh tòng chinh/ Bất diệt thù hề, bất nguyện sinh” – “Đi chiến đấu, đi chiến đấu, không diệt được thù không thèm sống”. Cách rước trống chèo nhà Đinh của bà Phạm Thị Trân có sức cổ vũ lớn đối với tinh thần chiến đấu của quân sĩ:

“Nam chinh sát Bắc tướng, diệt Bắc tướng. Nam thiên sinh vương, Nam thiên sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng đế” - “Quân Nam giết tướng Bắc, diệt tướng Bắc, trời Nam sinh vương, trời Nam sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng đế”.

Từ việc dạy cung nữ, binh lính sử dụng các loại nhạc cụ, ca hát, nhảy múa với nội dung, sắc thái mang tinh thần thượng võ và yêu nước, dần dần bà Phạm Thị Trân đưa bộ môn nghệ thuật đó lên sân khấu, diễn tả từng tích sinh hoạt gần gũi với đời sống xã hội nông nghiệp, được không chỉ quân lính mà đông đảo người dân cũng rất yêu thích. Nghệ thuật hát chèo manh nha từ thời đó.

Bà tổ của nghề chèo là ai
Hát Chèo - một loại hình sân khấu của hội hè.

Từ sự phát khởi ban đầu của bà Phạm Thị Trân, qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ XIV.

Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.

Vào thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Nho. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm.

Tới thế kỷ XVIII, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này.

Đến thế kỷ XIX, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ XX, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh.

Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt.

Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác.

Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm, được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng.

Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính.

Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất “trữ tình”, thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng.

Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề. Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò... “Hề” là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo.

Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã.

Có thể nói, chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng và có thể được biểu diễn ngẫu hứng.

Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Cho đến nay, hát chèo vẫn là một trong những loại hình nghệ thuật chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa người dân Việt Nam.

Cũng chính bởi vậy, người dân vẫn luôn ghi nhớ công lao sáng tạo ra chèo của bà Phạm Thị Trân. Khi bà mất, nhân dân đã tôn bà là Bà tổ hát chèo. Trong các nhà thờ, chùa của các làng bài vị thờ bà thường đặt chính giữa.

Hàng năm cứ đến ngày 12/8 âm lịch, ngành sân khấu Việt Nam lại tổ chức giỗ Bà tổ của nghề hát chèo. Vào đầu xuân, nhân dân châu thổ sông Hồng lại tổ chức hội làng, trong đó hát chèo giữ một vai trò quan trọng, là linh hồn không thể thiếu của ngày hội.

Từ những lễ hội này, về sau nhiều nghệ nhân ưu tú nghề hát chèo đã được phát hiện. Và họ đã góp phần truyền thụ cho những thế hệ con cháu nền nghệ thuật dân tộc độc đáo đã đi vào đời sống người dân Việt Nam.