Bắt sán dây như thế nào

Select language

Tây Thái Bình Dương

Việt Nam

Bắt sán dây như thế nào

  • Trang chủ
  • Các chủ đề y tế
  • Công việc của chúng tôi
  • Tin tức
  • Các trường hợp khẩn cấp
  • Về chúng tôi

  • Trang chủ/
  • Tin tức/
  • Tin bài nổi bật

Bắt sán dây như thế nào
Sán dây lợn Taenia solium

Bệnh ấu trùng sán lợn ký sinh ở hệ thần kinh trung ương (neurocysticercosis) lại khá thường gặp ở Mỹ hơn trong thời gian qua, nhất là trên những đối tượng dân di cư từ những vùng bệnh lưu hành, đặc biệt từ Mexico sang. Theo số liệu báo cáo, thời điểm đó có khoảng 1.000 ca hàng năm (trên cả trẻ em và người lớn).Sau đó, nhờ chương trình phòng chống bệnh tật cũng như kinh nghiệm về bệnh này tốt hơn, nên số ca có giảm đi đôi ít và một nghiên cứu tổng hợp trong thời gian từ 1980 - 2004 cho biết ở Mỹ có 1.494 ca.

Tại Việt Nam

Bệnh sán dây/ấu trùng sán dây lợn phân bố ở nhiều nơi liên quan đến tập quán ăn uống thịt lợn hoặc thịt trâu bò chưa nấu chín. Trên vùng đồng bằng, tỷ lệ nhiễm sán dây từ 0,5 - 2%; trong khi đó, ở trung du và miền núi tỷ lệ nhiễm sán dây 2 - 6%.

Hiện nay, theo báo cáo từ các nhà khoa học đã phát hiện có ít nhất 51 tỉnh, thành có ca bệnh sán dây/ấu trùng sán lợn, tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Sơn La, Yên Bái, Bắc Cạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang, Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Đăk Lăk, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang.

Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh sán dây là hậu quả của sự có mặt của những con sán dây (sán dây bò hoặc lợn) ký sinh trong ruột, khi đó gọi là bệnh sán dây trưởng thành.

Bệnh ấu trùng sán lợn là hậu quả của sự có mặt những ấu trùng sán lợn (Cysticercus cellulosae) vào cơ thể người (chủ yếu trong cơ, trong não, trong mắt…), có bệnh nhân mang đến 300 nang dưới da. Thông thường phân bố như sau: vùng lưng ngực: 36,6%; tay: 28,8%; đầu, mặt cổ: 18,2%, chân: 17,4%… đa số bệnh nhân có ấu trùng ở cơ (98%) kèm theo có ấu trùng trong não.

Bắt sán dây như thế nào
Bò gạo

Việt Nam có khá nhiều loại sán dây ký sinh và gây bệnh trên nhiều vật chủ khác nhau, nhưng chủ yếu 3 loại sán dây gây bệnh cho người là sán dây bò (Taenia saginata) và 2 loài sán dây lợn (Taenia solium và Taenia asiatica).

Riêng Taenia asiatica mới được đề cập nhiều trong 5 năm trở lại đây. T.asiatica là một loài sán dây được phát hiện ở Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc, miền tây Thái Lan và Malaysia - những nơi mà người dân có thói quen ăn các tạng của heo bệnh chưa được nấu chín.

Chu kỳ phát triển

Nhiễm bệnh do tiêu hóa trứng được đẻ ra trong phân của người nhiễm sán dây. Heo và con người bị nhiễm do ăn phải trứng hoặc các đốt sán (gravid proglottids). Người bị nhiễm hoặc là do ăn các thực phẩm nhiễm phân có chứa trứng sán hoặc là tự nhiễm (autoinfection). Trong các trường hợp sau, người bị nhiễm với con sán dây lợn trưởng thành có thể nhiễm đốt hoặc nhiễm trứng chứa trong phân, hoặc các đốt sán do quá trình nôn nhiễm trở lại. Một khi trứng được nuốt vào, phần oncospheres bám dính vào thành ruột, xâm nhập vào thành ruột và di chuyển đến cơ vân cũng như một số cơ quan, phủ tạng khác như não, gan, mô khác tại đó chúng có thể phát triển thành sán trưởng thành.

Trên người, các nang sán có thể gây ra các di chứng nghiêm trọng nếu chúng định vị trong não, dẫn đến bệnh ấu trùng sán dây lợn tại não (neurocysticercosis).Chu kỳ phát triển hoàn thành, hậu quả là người nhiễm sán dây.

Khi con người tiêu hóa các thịt heo nấu chưa chín có chứa cysticerci, các nang sán xâm nhập và rồi dính vào ruột non nhờ bộ phận đầu scolex của chúng. Sán dây trưởng thành phát triển (dài từ 2 - 7m và sinh ra trung bình khoảng 1.000 đốt, mỗi đốt có xấp xỉ 50.000 trứng) và ký sinh trong ruột non trong nhiều năm. Nhìn chung, có thể tóm lược sự phát sinh và phát triển của sán dây như sau:

Sán dây trưởng thành sống ký sinh trong ruột người, có chiều dài từ 4 - 12m, gồm từ 1.200 - 2.000 đốt (sán dây bò) hoặc chiều dài từ 2 - 4m và từ 700 - 1.000 đốt (sán dây lợn). Điểm đặc biệt là sán lưỡng tính và sinh sản bằng cách rụng đốt; trâu bò, lợn ăn phải trứng và đốt sán phát tán trong môi trường hoặc ăn phân người có sán; trứng vào dạ dạy và ruột của trâu, bò, lợn rồi nở ra thành ấu trùng chui qua thành ống tiêu hóa vào máu và tới các cơ vân tạo kén ở đó (nhân dân hay gọi là bò gạo hoặc lợn gạo).

Người ăn phải thịt của bò gạo hoặc lợn gạo chưa nấu chín, ấu trùng sán vào ruột sẽ nở ra con sán trưởng thành; lúc mới nở sán dây chỉ có đầu và một đoạn cổ nhỏ. Nếu sán dây bò: đầu có 4 giác bám, không có vòng móc; nếu là sán dây lợn: đầu có 4 giác bám, có 2 vòng móc. Sán phát triển lên bằng cách nẩy chồi, sinh đốt mới từ cổ, sán dài dần dần ra từ đầu ruột non đến cuối ruột già.

Người ăn phải trứng sán dây lợn sẽ bị bệnh người gạo, còn gọi là bệnh ấu trùng sán dây lợn (ATSL), có địa phương người dân gọi là sán cơ hoặc sán não; sau khi ăn phải trứng sán dây lợn, trứng vào dạ dày và ruột rồi nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành ống tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh tại các cơ vân, não, mắt…

Những người bị bệnh do ăn phải trứng sán dây lợn từ môi trường ngoài thường có ít nang (ngoại trừ trường hợp ăn phải cả đốt sán); những người có con sán dây lợn trong ruột, khi đốt già rụng, theo phản ứng nhu động ruột mà đốt sán có thể trào ngược lên dạ dày và lúc này như là ăn phải trứng sán dây lợn với số lượng rất lớn nên số nang ở người cũng rất nhiều, có người đếm không thể (trường hợp như thế gọi là tự nhiễm).

Tác hại và biến chứng của bệnh sán dây

Sán dây trưởng thành chiếm thức ăn, dẫn đến kém hấp thu và rối loạn tiêu hóa và ngay cả nhiễm độc thần kinh (đối với ATSL) hoặc thường gây ra những biến chứng, nhất là gây tác hại đến hệ thần kinh trung ương; chẳng hạn, liệt các dây thần kinh, nói ngọng, giảm thị lực, gây động kinh; cuối cùng bệnh sán dây và ATSL gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.

Bắt sán dây như thế nào
Bệnh ấu trùng sán dây lợn tại não

Về tỷ lệ tử vong và tỷ lệ bệnh tật do bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn gây ra: nói chung bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn là lành tính và các tổn thương có thể tự khỏi trong vòng 2 - 3 tháng; song cũng có trường hợp tỷ lệ tử vong cao hay thấp tùy thuộc diễn biến bệnh đơn giản hay phức tạp, nhất là những ca ATSL tại thần kinh trung ương.

Đối với những trẻ em mắc bệnh thường do phơi nhiễm với nang sán (cyst) và có rất ít biến chứng, tiên lượng bệnh tốt (thường gặp ở Mỹ và một số vùng không phải bệnh lưu hành).

BS. Trương Hữu Khanh – Trưởng khoa nhiễm – thần kinh BV. Nhi Đồng 1
Có nên xét nghiệm máu tìm xem có nhiễm giun sán không?
- Đa số khi giun sán vào cơ thể người sau một thời gian cơ thể người tự thải ra nhưng xét nghiệm vẫn dương tính dù rất lâu, cho nên dù xét nghiệm dương tính nhưng trong người không có, không còn giun sán nào cả
- Xét nghiệm giun sán rất dễ nhầm vì nhiễm giun sán này đã hết lâu rồi nhưng lại xét ra giun sán khác. Nhiễm giun sán người nhưng xét nghiệm ra giun sán chó mèo sán lợn.
- Chỉ bệnh nhân có dấu hiệu ký sinh trùng xuất hiện ở da (nổi sần, nổi cục trên da), dấu hiệu ở não như co giật, hôn mê, yếu liệt chi... và bác sĩ điều trị nghi ngờ do ký sinh trùng “chạy nhầm đường” mới cho chỉ định xét nghiệm.
- Trẻ nhỏ hay người lớn không có triệu chứng gì không nên xét nghiệm tránh làm tình hình phức tạp hơn.
- Cuối cùng, uống xổ giun cho mình, cho thú cưng đồng thời ăn sạch uống sạch, nấu chín và thường xuyên rửa tay là điều cần thiết nhất.

Các trường hợp neurocysticercose phức tạp ở trẻ em trong các vùng lưu hành bệnh là thường nhiễm tái đi tái lại với trứng sán vì biến chứng gia tăng áp lực nội sọ và khó kiểm soát cơn co giật, động kinh, nên các trẻ này có tiên lượng kém hơn. Một số biến chứng có thể tăng lên do không khống chế được cơn co giật, động kinh, não úng thủy, phù gai thị, nhức đầu, nôn mửa.

Chẩn đoán lâm sàng

Bệnh sán dây trưởng thành thường không biểu hiện triêu chứng rõ rệt, một số trường hợp có biểu hiện lâm sàng: Đau bụng, rối loạn tiêu hóa hoặc có triệu chứng thần kinh (suy nhược); dấu hiệu chính là thấy đốt sán ra theo phân hoặc tự bò ra ngoài hậu môn (thường nhìn thấy trong quần lót khi thay ra vào cuối ngày làm việc); xuất hiện đốt sán theo phân (những đoạn nhỏ, dẹt, trắng ngà như sơ mít, đầu sán bằng phẳng) và một số trường hợp có trứng sán trong phân được phát hiện.

Bệnh ấu trùng sán lợn: triệu chứng bệnh tùy thuộc vị trí ký sinh và đóng kén của ấu trùng mà bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng khác nhau: Tại não cũng tùy thuộc vị trí mà triệu chứng biểu hiện chức năng cũng khác nhau: động kinh, liệt, nói ngọng, rối loạn ý thức và có những cơn nhức đầu dữ dội; khi ấu trùng cư trú ở mắt gây các triệu chứng chèn ép sau nhãn cầu, tăng nhãn áp, giảm thị lực, song thị,…

Ấu trùng cư trú ở cơ vân: xuất hiện các nang dưới da với kích thước 0,5 - 2cm, di động dễ dàng, không ngứa, thường ở cơ bắp tay, chân hoặc cơ liên sườn, cơ lưng, ngực; các nang này có thể gây ra triệu chứng máy, giật cơ; nếu một số nang đơn lẻ cần chú ý phân biệt với hạch.

Khi một số trường hợp bệnh chưa rõ ràng, chúng ta nên chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khác nhiễm vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm,…nhất là trong các bệnh nhân mắc ATSL ở hệ thần kinh:

Phòng tránh

Với sán dây trưởng thành: Không ăn thịt lợn, gan lợn hoặc thịt trâu bò chưa nấu chín như nem, thính, nem chua, tré, thịt lợn tái, gan tái, thịt trâu, bò tái; kết hợp với các ngành chức năng kiểm tra chặt chẽ các lò mổ lợn, trâu bò và loại bỏ các con vật mang ấu trùng sán; quản lý phân tốt: luôn sử dụng hố xí hợp vệ sinh, không để lợn thả rông ăn phân người; tốt nhất không nuôi lợn thả rông.

Đối với bệnh ấu trùng sán lợn (Cysticercus cellulosae): Không ăn rau sống, không uống nước lã; quản lý phân tốt, nhất là phân của những người nhiễm ấu trùng sán dây lợn T.solium; phát hiện và điều trị sớm những người mắc bệnh sán dây và xử lý những con sán được tẩy ra, đặc biệt sán dây lợn để ngăn ngừa mắc bệnh ấu trùng sán lợn theo cơ chế tự nhiễm.

-Theo Cục Y tế Dự phòng – Bộ Y tế, tại Việt Nam, bệnh xuất hiện ở tất cả các vùng miền, các tỉnh thành. Theo số liệu được báo cáo của các cơ sở điều trị đến nay, có ít nhất 55 tỉnh, thành có trường hợp bệnh sán dây, ấu trùng sán lợn. Bệnh ấu trùng sán lợn do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm có nhiễm trứng sán dây lợn hoặc ấu trùng sán lợn (như thịt lợn gạo) chưa được nấu chín kỹ. Thông thường, ấu trùng sán lợn sẽ chết khi được đun nấu chín trong vòng 5 phút hoặc đun sôi trong vòng 2 phút.
-Để biết xem có phải mắc bệnh sán dây, ấu trùng sán lợn hay không cần dựa vào các biểu hiện triệu chứng bệnh như: đi ngoài ra đốt sán, rối loạn tiêu hóa, đau bụng kéo dài…; và các xét nghiệm đặc hiệu. Bệnh ấu trùng sán lợn có thể điều trị khỏi. Người bệnh cần được chẩn đoán sớm và điều trị để tránh bệnh lây lan ra cộng đồng.
-Thời gian qua, nhiều cháu nhỏ ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh được gia đình đưa đến Viện Sốt rét Ký sinh trùng Côn trùng Trung ương và BV. Bệnh Nhiệt đới Trung ương để khám xác định bệnh ấu trùng sán lợn. Các bác sĩ đã và đang tích cực khám chẩn đoán phát hiện các triệu chứng, đánh giá các nguyên nhân, các yếu tố dịch tễ, tiền sử sử dụng các loại thức ăn bị ô nhiễm, làm xét nghiệm và tiến hành các phân tích để có chẩn đoán.
-Việc chẩn đoán hiện tại có đang mắc bệnh ấu trùng sán lợn hay không cần dựa vào nhiều yếu tố vì xét nghiệm ELISA kháng thể dương tính có thể do đã bị nhiễm bệnh trước đó. Vì vậy, việc chẩn đoán chính xác nguồn lây truyền, đường lây cần có các điều tra, đánh giá dịch tễ cẩn thận, rõ ràng, chính xác đảm bảo khách quan dựa trên các bằng chứng khoa học.
-Để chủ động phòng bệnh sán dây và ấu trùng sán lợn, Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế, khuyến cáo người dân:
- Thực hiện ăn chín, uống chín, ăn các thức ăn đã được nấu chín kỹ, chế biến hợp vệ sinh.
- Không sử dụng thịt lợn ốm để chế biến thực phẩm. Không ăn thịt lợn tái, chưa nấu chín, nem chua sống, (nguy cơ nhiễm sán dây trưởng thành), rau sống không đảm bảo vệ sinh (nguy cơ mắc bệnh ấu trùng sán lợn).
- Quản lý phân tươi, nhất là ở những vùng có người nhiễm sán dây lợn trưởng thành. Sử dụng hố xí hợp vệ sinh.Không nuôi lợn thả rông.
- Người có sán trưởng thành trong ruột phải được điều trị, không phóng uế bừa bãi.
THIÊN CHƯƠNG