Ngành xây dựng đã trải qua một năm 2021 đầy khó khăn do những ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19. Với sự bền bỉ vượt khó của các doanh nghiệp, dự báo lĩnh vực này sẽ phục hồi và tăng tốc trong năm nay. Show
Trong 6 tháng đầu năm, nhờ kinh nghiệm có được từ năm 2020 và sự thích ứng tốt của các doanh nghiệp, tăng trưởng của ngành đạt 5,59%, cao hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2020 là 4,54%. Tuy nhiên, dưới tác động kéo dài và sự bùng phát mạnh của đợt dịch thứ tư, nhiều địa phương trong đó có Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh buộc phải thực hiện giãn cách xã hội. Phần lớn các dự án nằm trong các tỉnh thành bị giãn cách đều phải ngừng thi công. Các dự án nằm ngoài khu vực giãn cách cũng bị đình trệ do đứt gãy nguồn cung vật tư và nhân lực. Tổn thất kinh tế có thể nhìn thấy rõ nhất đó là: chi phí duy trì bộ máy, chi phí phòng chống dịch, chi phí huy động nguồn lực sau các đợt giãn cách... 37,9% số doanh nghiệp tham gia khảo sát của Vietnam Report cho biết trên 20% số dự án/hợp đồng của họ bị chậm tiến độ hoặc ảnh hưởng chi phí do dịch COVID-19. Bên cạnh diễn biến phức tạp của dịch, biến động giá nguyên vật liệu đã trở thành “cơn ác mộng” đối với các nhà thầu xây dựng. Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu dùng trong xây dựng tăng 6,4% so với cùng kỳ do nhu cầu vật liệu xây dựng tăng cao trong khi chuỗi cung ứng chưa hết gián đoạn từ năm 2020. Hai loại vật liệu xây dựng quan trọng nhất là thép và xi măng lần lượt tăng giá khoảng 40% và 8,4%. Do chi phí vật liệu xây dựng chiếm khoảng 65 - 70% giá dự toán xây dựng công trình, việc tăng giá vật liệu xây dựng ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu tư xây dựng, hiệu quả của nhiều dự án, bào mòn biên lợi nhuận của doanh nghiệp. Một số chuyên gia trong ngành nhận định “bão giá” đã quét sạch những lợi nhuận có thể hy hữu còn lại, đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào thua lỗ. Tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận năm 2021 so với năm 2020 của doanh nghiệp xây dựng – vật liệu xây dựng
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng của toàn ngành trong năm 2021 chỉ đạt 0,63% - đây là mức rất thấp so với tăng trưởng trung bình 7,2% trong 10 năm trở lại đây. Khảo sát của Vietnam Report cho thấy 53,3% số doanh nghiệp trong ngành vẫn ghi nhận sự tăng trưởng về doanh thu mặc dù mức tăng trưởng chủ yếu dưới 25%. Khảo sát cũng chỉ ra rằng biến động doanh thu của phần lớn doanh nghiệp nằm trong khoảng tăng/giảm 25% trong khi biên độ thay đổi của lợi nhuận lớn hơn, nằm trong khoảng tăng/giảm 50%. Đây là kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh toàn ngành phải vật lộn với khó khăn. Theo nhận định từ phần lớn các chuyên gia tham gia phỏng vấn của Vietnam Report, đóng góp quan trọng nhất và có tính quyết định vào kết quả kinh doanh tích cực đó chính là việc chuyển hướng từ “chống dịch như chống giặc” sang “sống chung an toàn và thích nghi với đại dịch” của Chính phủ. 72,4% số doanh nghiệp cho rằng xu hướng này sẽ là yếu tố hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng năm 2022. Uy tín thương hiệu đồng hành cùng doanh nghiệp trong bối cảnh nhiều biến độngTheo kết quả khảo sát của Vietnam Report, uy tín doanh nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất giúp 96,6% số doanh nghiệp trong ngành bền bỉ vượt qua những khó khăn liên tiếp trong suốt cả năm vừa qua. Các doanh nghiệp cho biết, để xây dựng một thương hiệu uy tín cần mất rất nhiều thời gian, đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng do thời gian thi công thường kéo dài từ 2-3 năm, chưa kể vòng đời sản phẩm/dự án (thiết kế, sản xuất vật liệu, xây dựng, sử dụng, phá dỡ) có thể kéo dài tới vài chục năm. Để có thể xây dựng được thương hiệu mạnh, doanh nghiệp cần phát triển đồng thời 7 khía cạnh sau: Sản phẩm, Đổi mới, Môi trường làm việc, Trách nhiệm xã hội, Năng lực quản trị, Khả năng lãnh đạo và Kết quả kinh doanh, chứ không phải chỉ 1 hoặc 2 khía cạnh. Đánh giá uy tín của doanh nghiệp ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng cần quan tâm đến tất cả các bên liên quan như chủ đầu tư, khách hàng, đối tác, đối thủ cạnh tranh, nhà phân phối, nhân viên trong chính doanh nghiệp đó… Các chuyên gia thực hiện khảo sát của Vietnam Report chỉ ra rằng, truyền thông có vai trò quan trọng trong việc kết nối trực tiếp giữa các bên liên quan trong chuỗi giá trị ngành, từ đó nhận diện thương hiệu uy tín tốt hơn khi đưa ra quyết định đầu tư hoặc mua sắm. Kết quả phân tích truyền thông cho thấy, mặc dù hoạt động kinh doanh có phần trầm lắng do ảnh hưởng của những đợt bùng phát dịch nhưng hoạt động truyền thông của doanh nghiệp trong ngành vẫn rất tích cực, phần lớn nhà thầu đều có tần suất xuất hiện trên truyền thông nhiều hơn năm trước. Đáng chú ý, khoảng cách giữa 3 nhà thầu thu hút truyền thông nhiều nhất là Coteccons, Hòa Bình và Vinaconex đã thu hẹp đáng kể, đặc biệt là khoảng cách giữa Coteccons và Hòa Bình. Bên cạnh đó, Ricons, Fecon là những nhà thầu có hoạt động truyền thông hiệu quả hơn khi xét về mức độ "an toàn" thông tin (tỷ lệ chênh lệch tin tích cực và tiêu cực trong tổng số thông tin được mã hóa của doanh nghiệp). Những nhà thầu nổi bật trên truyền thông
Theo nhận định của Vietnam Report, doanh nghiệp được đánh giá là “hiệu quả” về mặt đa dạng hình ảnh trên truyền thông khi có độ bao phủ thông tin đạt 10/24 nhóm chủ đề và “hiệu quả vượt trội” nếu đạt 15/24 nhóm chủ đề. Kết quả phân tích truyền thông cho thấy, 43,3% số doanh nghiệp trong ngành đạt mức “hiệu quả” này, cải thiện đáng kể so với mức 34,7% trong giai đoạn trước. Hơn thế nữa, có đến 15,0% số doanh nghiệp đạt “hiệu quả vượt trội”, gấp 2,3 lần giai đoạn trước, trong đó có nhiều doanh nghiệp nhảy vọt từ mức “chưa hiệu quả” sang “hiệu quả vượt trội.” Những doanh nghiệp có trên 15 nhóm chủ đề bao phủ trên truyền thông
Tuy nhiên, phân tích truyền thông của Vietnam Report còn cho thấy, trong 2 năm chịu tác động của đại dịch COVID-19, dường như các doanh nghiệp trong ngành tỏ ra khá lúng túng trong công tác nghiên cứu thị hiếu, hành vi người tiêu dùng cũng như các hoạt động trách nhiệm xã hội. Tỷ lệ doanh nghiệp đạt hiệu quả đối với chủ đề Khách hàng, sản phẩm có phần chững lại ở mức 6,6%. Thậm chí đối với chủ đề Xã hội, trách nhiệm xã hội, tỷ lệ doanh nghiệp đạt hiệu quả còn giảm nhẹ 0,8% từ mức 5,5% trong giai đoạn trước. Nguyên nhân có thể do các doanh nghiệp dồn phần lớn nguồn lực cho công tác chống dịch, đảm bảo sản xuất kinh doanh. Vietnam Report khuyến nghị các doanh nghiệp cần cân đối tỷ trọng giữa các nhóm tin bài để đảm bảo hình ảnh của mình trong mắt nhà đầu tư, khách hàng cũng như cộng đồng luôn được cập nhật thường xuyên. Điểm sáng từ hành trình số hóaĐẩy mạnh chuyển đổi số cũng được coi là điểm tích cực lớn nhất trong bức tranh kinh tế khó khăn giai đoạn vừa qua bởi ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng xưa nay vốn chậm chạp trong công tác đầu tư và áp dụng công nghệ. Theo khảo sát của Vietnam Report thực hiện tháng 2/2022, gần 2/3 số doanh nghiệp đã nắm bắt công nghệ để duy trì hoạt động kinh doanh trong những thời điểm bị gián đoạn, từ đó gặt hái được nhiều lợi ích và giải quyết một số vấn đề chính của ngành: tính an toàn, năng suất và tình trạng thiếu lao động. Trong đó, hệ thống hoạch định nguồn nhân lực doanh nghiệp (ERP); Nền tảng công nghệ di động; Điện toán đám mây; và Dữ liệu lớn là 4 công nghệ có mức độ ứng dụng cao nhất. Mức độ ứng dụng một số công nghệ tại các doanh nghiệp xây dựng – vật liệu xây dựng
Nhu cầu ứng dụng công nghệ ngày càng trở nên mạnh mẽ khi phần lớn các doanh nghiệp trong ngành đang đầu tư cho công nghệ ở mức vừa phải hoặc cao. Ba công nghệ được đánh giá có tiềm năng mang lại hiệu quả đầu tư lớn nhất bao gồm: Phân tích dữ liệu nâng cao (65,5%), Mô hình thông tin xây dựng (BIM) (55,2%) và Nền tảng di động (31,0%). Một điểm tích cực khác đến từ tiến trình số hóa đó là cộng đồng doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến việc xây dựng hệ sinh thái ngành có tính kết nối. Cốt lõi của hệ sinh thái ngành kết nối là phân tích dữ liệu nâng cao và ứng dụng các công nghệ tiên tiến. Những ứng dụng này có thể đặt tài sản, con người, quy trình, công việc… vào một nền tảng, làm cho mọi thứ hoạt động thông minh hơn, giảm “thời gian chết”, tối ưu hóa hiệu suất và hiệu quả sử dụng tài sản, đồng thời hiển thị tốt hơn trong vận hành. Khi đó, việc phát triển, phân tích dữ liệu cũng như khả năng cung cấp dữ liệu chi tiết về người dùng đóng vai trò rất quan trọng. Nhờ vậy, hệ sinh thái ngành kết nối sẽ giúp doanh nghiệp chuyển đổi cách tiếp cận giải quyết vấn đề từ phản ứng sang dự đoán. Bên cạnh đó, một khía cạnh tích cực khác của hệ sinh thái ngành kết nối đó là kiểm soát tốt hơn lượng khí thải thông qua việc giám sát động và liên tục, không chỉ trong quá trình thiết kế, xây dựng mà còn trong giai đoạn vận hành. Khả năng phục hồi, chìa khóa để biến “nguy” thành “cơ”Ngày 11/3, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xem xét các tiêu chí cần thiết để tuyên bố kết thúc tình trạng khẩn cấp toàn cầu về COVID-19, đánh dấu cột mốc quan trọng sau hơn 2 năm kể từ khi đại dịch bùng phát. Trước đó, hồi đầu tháng 1/2022, WHO cũng lạc quan cho rằng đại dịch COVID-19 có thể kết thúc trong năm nay nếu tỷ lệ tiêm chủng vaccine toàn cầu tăng và các nước cùng hợp tác để kiềm chế dịch bệnh lây lan. Cuộc khủng hoảng chưa từng có về kinh tế - xã hội trên diện rộng đang dần đi đến hồi kết. Đây cũng là thời điểm để chúng ta nhìn lại và chỉ ra những điểm yếu hoặc sai sót trong cách nhận biết, xử lý vấn đề, từ đó đề ra các biện pháp kiểm soát hoặc quy định mới để ngăn chặn những sự kiện tương tự xảy ra trong tương lai. Trong số các ngành kinh tế, các doanh nghiệp ngành Xây dựng – Vật liệu xây dựng nói riêng và hệ sinh thái ngành Bất động sản – Xây dựng – Vật liệu xây dựng nói chung tỏ ra khá chủ động trước những ảnh hưởng từ đại dịch nhờ kinh nghiệm quản trị khủng khoảng có được từ cách đây hơn mười năm. Khảo sát của Vietnam Report chỉ ra rằng, 86,7% số doanh nghiệp trong ngành đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, phản ứng ngay lập tức, thích nghi tốt và chịu ít tác động; 6,7% số doanh nghiệp không có sự chuẩn bị nhưng đã phản ứng nhanh chóng và dứt khoát để phục hồi. Dẫu vậy, vẫn có khoảng 3,3% số doanh nghiệp phản ứng chậm và kỳ vọng sẽ phục hồi trong tương lai và 3,3% số doanh nghiệp chưa phục hồi hoàn toàn. Câu hỏi đặt ra là, mặc dù có sự chủ động nhưng tại sao tăng trưởng vẫn ở mức thấp? Điều này cho thấy một kế hoạch quản trị khủng hoảng có lẽ là chưa đủ. Các doanh nghiệp đang hứng chịu những tác động tiêu cực do việc bỏ qua đầu tư vào chiến lược phục hồi kinh doanh. Khả năng phục hồi kinh doanh được hiểu là khả năng mà một doanh nghiệp có thể nhanh chóng thích ứng với sự gián đoạn, đồng thời duy trì hoạt động kinh doanh liên tục và bảo vệ nhân sự, tài sản cũng như giá trị thương hiệu nói chung. Như vậy, khả năng phục hồi đề cập đến việc quản lý khủng hoảng và tính liên tục trong kinh doanh, ứng phó với tất cả các loại rủi ro mà một doanh nghiệp có thể phải đối mặt. Ngoài ra, khả năng phục hồi kinh doanh còn đề cập đến khả năng doanh nghiệp thích ứng với môi trường kinh doanh mới sau khủng hoảng. Từ những bài học xương máu rút ra trong 2 năm ứng phó với đại dịch vừa qua, các doanh nghiệp Xây dựng – Vật liệu xây dựng tham gia khảo sát của Vietnam Report nhận định tầm quan trọng của việc xây dựng khả năng phục hồi khi triển khai các dự án và phân bổ nguồn vốn của họ đạt 4,3 điểm trên thang điểm 5 – tức là mức rất quan trọng. Khảo sát cũng cho thấy, 100% số doanh nghiệp đã và đang cam kết hành động quyết liệt để cải thiện khả năng phục hồi của doanh nghiệp trước các sự kiện gián đoạn trong tương lai, trong đó 33,3% số doanh nghiệp đã hoàn thành với những giải pháp thiết thực; 43,3% số doanh nghiệp đang trong quá trình triển khai và 23,4% số doanh nghiệp đang lập kế hoạch. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đại dịch COVID-19 hoàn toàn không nằm ngoài dự đoán. Vì vậy, các chuyên gia khuyến nghị, doanh nghiệp nào đầu tư tốt cho khả năng phục hồi kinh doanh thì doanh nghiệp đó không những có thể vượt qua khó khăn từ những rủi ro và gián đoạn mà còn có thể phục hồi nhanh hơn và bứt phá tăng trưởng trong giai đoạn tiếp theo. Từ kết quả từ khảo sát trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin vững chắc vào triển vọng phục hồi và tăng tốc của toàn ngành trong năm 2022./. |