Căn ông hoàng bảy như thế nào

Tứ phủ Quan Hoàng còn gọi là Thập vị quan Hoàng bởi Tứ phủ Quan Hoàng gồm có mười vị Quan Hoàng. Thập vị Quan Hoàng là các hoàng tử được quy về làm con Đức Vua cha Bát Hải Động Đình, đều hầu vua cha ở đền Đồng Bằng.

Đặc điểm tính cách của những người có căn ông Hoàng Bảy

Những người có căn ông Hoàng Bảy thường có những đặc điểm rất rõ ràng:

  • Thanh lịch và hào hoa
  • Người mang dòng máu Vương giả bảy hồn thường bay bổng, văn học hiển nhiên
  • Người có Hoàng Quyền sẽ sớm được khai sáng về ý thức, có tiết hạnh, lễ phép, biết thông cảm, ghét kẻ hung bạo, có lòng tin cao, yêu người nghèo, ghét kẻ xu nịnh. có nghĩa….
  • Người gốc căn ông Hoàng Bảy ghét nghe những tiếng nói thô tục.
  • Người có căn ông Hoàng Bảy lúc mở mắt ra thì mặt mũi vui tươi, đẹp như ánh trăng. Lúc gia đình nổi nóng, họ nổi nóng.
  • Rất nhân ái, hy sinh thân mình để cứu người, bảo vệ công lý.
  • Trong tháng 7 âm lịch, nếu ko am tường tâm linh về lễ hội linh thiêng thì nhiều chuyện sẽ xảy tới với bạn.

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Thánh ông Hoàng Cả

  • Tên húy của Ngài: Đoàn Thượng
  • Sắc phong tước hiệu: Đông hải Đại vương.
  • Đền thờ chính: Ở Lý Nhân, Nam Hà nhưng đã bị phá, nay được thờ phối hương với đền thờ bà Vũ Nương và ở đền Trung suối Mỡ (Bắc Giang)
  • Thân thế: Là con của vua cha Bát Hải Động Đình, là cả trong Tứ phủ Ông Hoàng, giáng sinh trước tiên. Sau đó, lên cõi thượng thiên coi giữ sổ sách.

Ông Hoàng Cả (thường gọi tắt là Ông Cả) hay còn gọi là Ông Hoàng Quận: là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Trong Tứ Phủ Ông Hoàng, ông là anh cả, giáng sinh ra đầu. Sau này ông lên cõi Thượng Thiên, coi giữ sổ sách.Thiên Tào. Có lúc ông rong chơi khắp chốn lúc chơi Thiếu Lĩnh, lúc chơi Non Bồng. Ông Hoàng Cả dạo khắp các nơi Bồng Lai, Tiên Cảnh, lúc trên thượng giới ông cuỡi con Xích Long, lúc dạo chơi trên mặt nước Ông Hoàng cưỡi lốt tam đầu cửu vĩ. Có lúc ông cũng ngự lên cõi tục gian phù trợ cho người làm ăn giao thương hoặc kẻ học hành khoa cử. Tuy nhiên Ông Hoàng Cả ko giáng trần.

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Ông Hoàng Cả rất ít lúc ngự đồng, lúc ngự về ông thường mặc áo đỏ (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét đỏ. Ông Hoàng Cả ngự về thường chỉ tấu hương, khai quang (cũng có người hầu ông về múa hèo, nhưng khá hiếm vì ko mấy người hầu về Ông Cả.

Xem thêm: Chùa Ngọc Hoàng Mấy Giờ Đóng Cửa & Cách Cầu Con Ra Sao?

Thánh ông Hoàng Đôi

  • Tên húy của Ngài: Nguyễn Hoàng Triệu.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng thần.
  • Đền thờ chính: Thanh Hóa (đền ông Hoàng Triệu), ở Hà Nội (đền Hoàng ở Chèm).
  • Thân thế: (Thường gọi tắt là Ông Đôi) hay còn gọi là Ông Triệu Tường: là đàn ông Đức Vua Cha. Ông theo lệnh, giáng sinh lên cõi tục gian, làm đàn ông thứ hai nhà họ Nguyễn, sau đó ông trở thành danh tướng, có công giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc”, ông là người đã đem quân truy đuổi họ Mạc tới tận đất Cao Bằng, rồi ông được vua Lê phong công, ủy quyền kéo binh đóng ở đất Tống Sơn, Triệu Tường, Thanh Hóa.

Ông Đôi cũng khá ít lúc ngự đồng, nếu có ngự về, ông mặc áo như Ông Hoàng Cả (nhưng màu xanh), chỉ có ở Hà Nội là hay thỉnh ông về nhưng lại thỉnh ông như một vị Quan Lớn (gọi là Ông Lớn Triệu Tường), ngự sau giá Quan Điều Thất, ông về tấu hương, khai quang rồi múa cờ lệnh (cờ lệnh đại, vuông, ngũ sắc).

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Đền thờ Ông Hoàng Đôi được lập ở nơi nhưng xưa kia ông đã kéo binh về đóng ở đó gọi là Đền Triệu Tường (hay còn gọi là Đền Quan Triệu) ở đất Tống Sơn, núi Triệu Tường, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngoài ra ở Hà Nội cũng có một ngôi đền gọi là Đền Quan Triệu (hay tên thường gọi là Đền Hoàng).

Thánh ông Hoàng Bơ

  • Tên húy của Ngài: Tống Khắc Bính, là thái tử con vua Nam Tống
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ chính: Đền thờ Ngài ở Thanh Hóa gần đền cô Tám. Đền thờ chính của Ngài là ở trên núi nhìn ra biển ở cửa Cờn, ngày nay người ta chuyển thành thờ ông Hoàng Chín, Đền Hưng long và đang được hưng công tại Thái Bình.
  • Thân thế: Ngài hầu Mẫu ở đền Cờn, mẫu Hàn Sơn Thanh Hóa, làm việc thoải cung, là 1 trong 4 vị Khâm sai thay quyền vua Mẫu bốn phủ đi bắt lính nhận đồng.

Ngài ngự áo xanh theo sắc phong bốn phủ, chít khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt tay ghệt chân, thắt đai vàng thành hoa trước ngực, múa hèo. Sau lúc làm lễ khai quang, Ngài đi hèo ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ, ban phát lộc tài. Đầu năm tháng Giêng, người ta hầu Ngài ngự áo đỏ khăn đỏ chứ ko như hiện giờ, mặc áo trắng. Có người lý luận rằng áo Ngài thì Ngài mặc nhưng trong tâm linh Việt Nam cho màu trằng là màu buồn nên đầu xuân kiêng mặc áo trắng.Tương tự mới là hóa thân bất tử giữa trần và âm. Đó là phong cách chứ ko phải là sự thuần tuý.

Ngài hạ sinh vào thời Nam Bắc Tống phân tranh. Sau lúc nhà Nam Tống bị nhà Bắc Tống đánh bại, Ngài dong thuyền ra biển Đông và thác hóa. Thân y trôi vào cửa Cờn được ông Hoàng Chin lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên chôn cất. Sau này Ngài phù Lý, Trần anh kinh hiển hách được nhân dân gọi là ông Hoàng Bơ Thoải. Đền thờ Ngài hiện nay đã bị những kẻ vô học chuyển thành đền ông Hoàng Chín. Ngưỡng mong những nhà nghiên cứu cũng như những người có chức có quyền và chức đồng đạo sớm trả lại đền thờ của Ngài theo đúng nghĩa.

Xem thêm:   Tránh Ngán Ngày Tết Với Cách Làm Dưa Góp Dưa Chuột Giòn Ngon, Ăn Bao Phê

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Theo tài liệu khác về thân thế Quan Hoàng Bơ:

Cổ nhân có câu : “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”, tức là người sống nhân hậu thì trời đất sẽ ủng hộ giúp sức. Từ thủa xưa, mỗi lúc quốc gia nguy biến, nhân dân cực cực đều xuất hiện những vị người hùng cứu dân hộ quốc. Theo tâm linh người Việt, đó là sự diệu kỳ do thiên địa hóa hình, thần tiên giáng thế. Ông Hoàng Bơ Thủy Cung – một vị Thần quản cai cõi miền sông nước đã hóa thân thành Minh Đức Đại Vương hiển tích tại đền Hưng Long, làng Kênh Xuyên, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Thần tích kể rằng: Làng Kênh Xuyên thủa xưa có hai vợ chồng lão ông Trần Thái Công và lão bà Đặng Thị hiền lành nhân hậu đã luống tuổi nhưng chưa có con nối dõi bèn phát nguyện ra trông coi đèn hương đền thờ Thánh Mẫu Đệ Tam Thủy Tinh. Dầu dãi trải mấy thu ko tiếc công lao, lại làm phước đắp đường, sửa đê, bố thí người nghèo khổ. Công đức cảm động tới Thánh Mẫu, một đêm thái bà nằm mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly tay ôm một đứa nhỏ trai kháu khỉnh, ngự trên rồng vàng bay lên từ mặt nước nói rằng :

Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Xích Lân Long Nữ Công Chúa thấy vợ chồng ngươi siêng năng làm phước, chăm sóc đèn hương, nên cho Hoàng tử Long cung đầu thai làm con để lo báo hiếu, sau này sẽ cứu giúp dân lành nhiều phen.

Giấc mộng tỉnh, thái bà thấy trong lòng khác thường nhưng mang thai, tới kỳ khai hoa mãn nguyệt bỗng thấy mây ngũ sắc vây quanh, hương thơm sực nức, từ trên trời hào quang sáng chói như trăm hồng nghìn tía. Đúng ngọ ngày hạ chí mười ba tháng sáu (ngày hội đền Đức Thánh Mẫu) thái bà sinh hạ một cậu nhỏ trai tuấn tú tuấn tú, dung mạo khác thường bèn đặt tên là Trần Minh Đức, tám tháng biết nói, chín tháng biết đi, năm tuổi đã đọc thông sách vở. Lớn lên chỉ mộ về đạo Phật thiền gia dù cho Thái ông, Thái bà có hối thúc cũng ko màng chuyện hôn nhân phu phụ. Năm hăm hai tuổi Minh Đức lập một thảo am để hàng ngày nghiên cứu Phật Pháp thuyền gia. Sau lúc Thái ông, Thái bà về tiên, thì Minh Đức cũng đi đâu ko rõ. Ngôi đền và thảo am để nhang lạnh khói tàn, bỗng một đêm dân làng người nào người nào cũng đều mơ thấy có một vị hoàng tử tuấn tú tuấn tú đầu đội kim khôi, mình mặc áo trắng lưng giắt kiếm bạc, cưỡi trên đôi bạch xà hiện lên trên mặt biển nói rằng:

Ta là hoàng tử long cung, giáng sinh vào để tác phúc cho Thái ông, Thái bà nay hết hạn ta về thủy cung. Dân làng thời phải nên thờ phụng Thánh Mẫu Thủy Tinh cho nghiêm cẩn như xưa lúc có nạn ắt ta tới cứu. Về sau sẽ âm phù cho đất đai rộng mãi.

Sáng dậy người nào cũng thuật lại cho nhau giấc mơ y hệt, bèn kính cẩn sợ hãi nhưng cho rằng ngôi đền rất linh thiêng nên lập thêm long ngai bài vị Minh Đức Hoàng Bơ Thoải đại vương phụng thờ, hương hỏa ngày đêm ko dứt.

Xem thêm: Tới Chùa Trấn Quốc Cầu Gì – Chùa Trấn Quốc Mở Của Lúc Mấy Giờ

Tới năm Giáp Ngọ ngày mười ba tháng tám có bão lớn con đê Ngự Hàm bỗng dưng vỡ toác, nước ngập mênh mông, người chết vật trôi nhiều vô số kể. Việc đắp đê hàn long ko thể thực hiện, dân làng bèn nhớ giấc mơ xưa lập đàn cầu đảo, bỗng đâu từ ngoài biển có một ông Bạch mãng xà bơi vào, rắn bơi tới đâu hàn long tới đó, lúc hàn long xong thì cũng ko thấy rắn trắng đâu nữa. Dân làng đều biết là Minh Đức hoàng tử cứu giúp bèn về đền lễ tạ.Và Chánh tổng Tân Hưng lúc đó là cụ Bá Thuần cho xây một ngôi đền ngay chỗ vỡ đê thờ Minh Đức hoàng tử. Chỗ đấy ngày nay là thôn Hưng Long Bắc, xã Đông Long, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Vì làng Kênh Xuyên được âm phù lên mở rộng mãi ra biển tới nay đã tách thành 4 làng. Kênh Xuyên, Hưng Thịnh, Hải Long và Hưng Long. Đồng thời tâu lên triều đình về sự linh ứng của ngài. Và được triều đình ban phong mỹ hiệu cấp ruộng tế điền để phụng thờ.

Đức thánh hoàng còn được triều Nguyễn sắc phong mỹ tự “Đông Hải, Thủy Tinh, Bạch Long, Linh Phù, Hiển Ứng, Tịnh Tuệ, Bác Huệ, Minh Đức Đại Vương thượng đẳng thần ” Từ đó tới nay dân thôn phụng thờ và lễ bái đều linh nghiệm, là nơi ngư gia cầu đảo trước mỗi mùa cá và mỗi lần ra khơi. Hàng năm vào mười ba tháng sáu là ngày tiệc đản sinh của Thánh Hoàng dân làng đều tổ chức tế lễ rước kiệu từ đền về chùa lễ Phật và bái yết thánh Mẫu Đệ Tam và hầu bóng, nhiều lần có cá Heo về chầu.

Thánh ông Hoàng Tư

  • Tên húy của Ngài: Nguyễn Hữu Cầu.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần, Thủy Cung hoàng tử.
  • Đền thờ chính: Đồ Sơn. Nhân dân thường gọi là miếu Thủy thần.

Thánh ông Hoàng Năm

  • Tên húy của ngài: Hoàng Công Chất.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ chính: Điện Biên

Thánh ông Hoàng Sáu

  • Tên húy Ngài là: Chưa rõ
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ Ngài: Phố Lu

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Thánh ông Hoàng Bảy

  • Tên húy của Ngài: Nguyễn Hoàng Bảy.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ Ngài: Bảo Hà, Lào Cai.

Thân thế: Đền Bảo Hà nằm ở xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai giáp ranh tỉnh Yên Bái, còn được gọi là đền ông Hoàng Bảy. Đền xây dựng dưới chân đồi Cấm, có quang cảnh tự nhiên “trên bến dưới thuyền” xinh xắn. Phía tả ngạn là dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy. Còn bên hữu ngạn là một hồ rộng, tạo cho nhà đền cảnh đẹp trữ tình. Ngôi đền Bảo Hà được xây dựng vào cuối đời Lê (niên hiệu Cảnh Hưng), thờ danh tướng Hoàng Bảy họ Nguyễn, có công bảo vệ và xây dựng tổ quốc ở cửa cửa ải Lào Cai. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Bảo Hà có một vị trí quan trọng phòng thủ biên giới, là cửa trạm của phòng tuyến sông Hồng phía Tây Bắc.

Xem thêm:   công thức nấu bếp genshin impact – HƯỚNG DẪN LẤY 16 CÔNG THỨC NẤU ĂN MỚI INAZUMA| VỊ TRÍ 5 LÔI THẦN ĐỒNG CUỐI CÙNG

Từ đời nhà Trần đã đặt hai cửa trấn cửa ải là cổng thành Bảo Thắng và Bảo Hà, trong đó Bảo Hà là hậu cứ của Bảo Thắng. Tại đây có đài hoả hiệu, trạm liên lạc thông tin cho các châu huyện phía dưới. Giữa niên hiệu Cảnh Hưng, Bảo Hà là trung tâm Châu Văn Bàn. Trong thời kỳ này, bọn giặc phương Bắc thường hay quấy rối, xã Khấu Bàn, châu Văn Bàn đã phải xây dựng các thành luỹ chống giặc.

Tới cuối đời nhà Lê (1740-1786), các châu Thuỷ Vĩ, Văn Bàn và nhiều nơi khác thuộc phủ Quy Hoá luôn bị giặc cướp phương Bắc tràn sang quấy rối. Trước tình hình giặc giã biên giới quấy đảo, triều đình cử viên tướng thứ bảy họ Nguyễn lên trấn thủ Quy Hoá. Danh tướng họ Nguyễn đưa đội quân tiến dọc sông Thao đánh đuổi bọn giặc cỏ, giải phóng Khảu Bàn và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Tại đây danh tướng đã tổ chức các thổ ty, tù trưởng luyện tập binh sỹ… Sau đó thống lĩnh quân thủy và quân bộ tiến đánh giặc ở Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hoá (Yên Bái, Lào Cai ngày nay).

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Sau đó, quân giặc phương Bắc do tên tướng Tả Tủ Vàng Pẹt đưa quân sang xâm lược cương vực, danh tướng Hoàng Bảy lại dẫn quân lên tham chiến. Song, do trận chiến ko cân sức, ông đã quả cảm hy sinh. Giặc vứt xác ông xuống sông Hồng, và trôi tới Bảo Hà. Nhân dân trong vùng do ông Lư Văn Cù đứng ra tổ chức vớt xác ông lên chôn cất và lập miếu thờ. Để ghi nhớ công lao của ông, các vua triều Nguyễn như Minh Mệnh, Thiệu Trị đã tặng ông danh hiệu “Trấn an hiển liệt” và đền thờ ông cũng được các vua triều Nguyễn cấp sắc phong là “Thần Vệ Quốc”. Còn đồng bào các dân tộc Kinh, Tày, Dao… thì tôn thờ ông là vị nhân thần. Ông đi vào cõi tâm linh các dân tộc và hiện thân trong các lễ hội xuống đồng vào ngày Thìn tháng giêng.

Sự tích: Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành đàn ông thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào triều Lê Cảnh Hưng, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử ông, dọc theo sông Hồng, lên đánh đuổi quân giặc và trấn thủ vùng biên cửa ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp. Sau này trong một trận đấu tranh ko cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành tội mọi rợ, nhưng ông vẫn một lòng trung kiên, quyết ko đầu hàng, cuối cùng, ko làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi tới phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì ngừng lại.

Còn một điều kì lạ nữa là lúc ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, tới Bảo Hà thì ngừng lại, trời bỗng quang quẻ, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội. Sau này lúc hiển linh ông được giao quyền cho trấn thủ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, ông luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Ông Hoàng Bảy Bảo Hà”.

Ông Bảy là Ông Hoàng hay ngự về tương đồng, cũng bởi vì trong hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, ông rất hay chấm lính bắt đồng (có quan niệm cho rằng, những người nào nhưng sát căn Ông Bảy thì thường thích uống trà tàu…). Lúc ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng. Tới giá Ông Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó.

Thánh ông Hoàng Tám

  • Tên húy Ngài: Nùng Chí Cao
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Đại Vương.
  • Đền thờ Ngài: Cao Bằng (đền Kỳ Sầm).

Thánh ông Hoàng Chín

  • Tên húy của Ngài: Chưa rõ
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ của Ngài: Ở phía đảo ngoài biển Cờn.

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Ngài là con đức Vua Cha, là Quan Hoàng có tính yểu điệu nhất. Về đồng mặc áo dài đen, chân đi guốc, tay cầm ô, mặc kiểu địa chủ thời cổ Việt Nam. Ông về đồng giáng bút, ngâm thơ, uống rượu bằng bát. Gốc tích của ông ít được lưu truyền, tuy nhiên ông có giáng trần, với tài văn học, thơ phú kinh luân đặc tài. Ồng đăng khoa triều đình lúc tuổi vừa đôi tám. Và Ông cũng là một tướng tài được giao trọng trách thống lĩnh cửa Cờn Môn. Chính vì thế nhân dân còn gọi là Ông Hoàng Chín là Ông Cờn Môn. Sau ông còn là vị quan thanh liêm, cứu dân, giúp nước và luôn trợ người hữu duyên. Ông Chín Cờn cũng ít lúc ngự về đồng. Cũng như ông Hoàng Tám Bát Quốc, thường những đồng cựu và sát căn duyên mới bắc ghế hầu ông

Thánh ông Hoàng Mười

  • Tên húy Ngài: Nguyễn Xí,
  • Sắc phong:
  • Đền thờ chính: Hà Tĩnh, Nghệ an

Thân thế: Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông lúc hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh

Xem thêm:   ” Đau Đáu Là Gì – Nghä©A CủA đAu đáU

Theo truyền thuyết, ông Hoàng Mười là con thứ mười của Đức Vua cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông lúc hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam.

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông lúc hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm tới nguyên thần tam triều Lê gia, phong tới chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, đàn ông Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có nhẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được ủy quyền trấn thủ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo tới đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, tới đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong lúc mội người đang tiếc thương cử hành tang lễ, thì trời quang quẻ, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như ko, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tỉnh như người đang nằm ngủ, lúc vào tới bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông.

Xem thêm: Văn Khấn Cúng Xe Mùng 2 Và 16 Hàng Tháng, Bài Cúng Cô Hồn Mùng 2 & 16 Và Rằm Tháng 7 Âm Lịch

Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này lúc hiển ứng, ông được ủy quyền trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân tôn vinh ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) ko chỉ vì ông là đàn ông thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) nhưng còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), ko những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, nhưng ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn học, ko chỉ nơi trần thế nhưng các bạn tiên trên Thiên Giới người nào cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Căn ông hoàng bảy như thế nào

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu ủy quyền đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào nhưng sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn học). Lúc ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có lúc ông múa cờ xông pha chinh chiến, có lúc lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi tản bộ vịnh phú ngâm thơ, có lúc ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Lúc ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt nhưng êm tai.

Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức tới chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải tới tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.

Danh sách từ khóa người dùng tìm kiếm:

căn ông hoàng bảy
căn ông hoàng bảy có lộc gì
người có căn ông hoàng bảy
căn ông bảy
căn ông hoàng bảy bóng cô chín
có căn ông hoàng bảy
căn hoàng bảy
căn ông hoàng 7
đâu hiểu người có căn ông hoàng bảy
sát căn ông hoàng bảy

Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn

Bạn thấy bài viết Giải Mã Về Những Người Có Căn Ông Hoàng Bảy Chuẩn Nhất? Hiểu Về Tứ Phủ Ông Hoàng Để Khấn Ko Bị Phạm có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Giải Mã Về Những Người Có Căn Ông Hoàng Bảy Chuẩn Nhất? Hiểu Về Tứ Phủ Ông Hoàng Để Khấn Ko Bị Phạm bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo