Giáo viên trường Mầm non Sơn Ca 14, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh dạy trẻ nhận biết đồ vật. (Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN) Tại hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Nghị định số 105/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non, do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức mới đây, một trong những vấn đề được nhiều địa phương chia sẻ là thực trạng thiếu giáo viên mầm non. Cùng với đó, việc thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với giáo viên mầm non, nhất là đội ngũ giáo viên ở vùng sâu, vùng xa và các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập còn gặp một số khó khăn, bất cập. Khó khăn từ chính sách Ông Nguyễn Bá Minh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non (Bộ Giáo dục và Đào tạo), chia sẻ vấn đề khó khăn nhất của giáo dục mầm non hiện nay vẫn là giáo viên. Chế độ chính sách chưa tạo được sức hút để những người đam mê với giáo dục mầm non, có năng khiếu và lòng yêu trẻ lựa chọn theo nghề. Không chỉ vậy, trong 2 năm dịch COVID-19 vừa qua, các cơ sở mầm non ngoài công lập phải đóng cửa, không có kinh phí chi trả lương nên nhiều giáo viên mầm non phải nghỉ, tìm công việc khác. Vì vậy, khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát, mặc dù các cơ sở mầm non hoạt động trở lại đã tạm bố trí đủ giáo viên để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nhưng định mức giáo viên trên lớp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, áp lực công việc với các giáo viên mầm non khá lớn. [Khó khăn trong thực hiện chính sách hỗ trợ trẻ em, giáo viên mầm non] Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Nội vụ đề xuất Chính phủ bổ sung 20.300 biên chế giáo viên mầm non cho 14 tỉnh, thành phố có tăng dân số cơ học và 5 tỉnh Tây Nguyên; bổ sung biên chế giáo viên mầm non giai đoạn 2022-2026 (38.925 biên chế). Bên cạnh đó, tham mưu Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 và chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên tại cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Về chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non dạy lớp ghép, tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số, tính đến hết năm học 2021-2022, toàn quốc có 28.837 giáo viên được hưởng chính sách, với tổng kinh phí đã thực hiện gần 561 tỷ đồng. Về chính sách đối với giáo viên mầm non làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục ở địa bàn có khu công nghiệp, theo quy định tại Nghị định 105/2020/NĐ-CP của Chính phủ, Hội đồng Nhân dân tỉnh ban hành mức hỗ trợ tối thiểu đối với giáo viên mầm non làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục ở địa bàn có khu công nghiệp có chăm sóc từ 30% trở lên trẻ là con công nhân, mức hỗ trợ tối thiểu là 800.000 đồng/người/tháng. Đến nay, đã có 40 tỉnh, thành phố ban hành Nghị quyết, trong đó 38 tỉnh, thành phố có mức hỗ trợ bằng mức quy định, 2 thành phố có mức hỗ trợ cao hơn là: Hà Nội (1,2 triệu đồng/người/tháng) và Hải Phòng (1 triệu đồng/người/tháng). Như vậy, vẫn còn hơn 20 tỉnh chưa ban hành Nghị quyết quy định mức hỗ trợ này. Theo thống kê của 40 tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách, có 4.666 giáo viên mầm non đủ điều kiện được nhận hỗ trợ. Số kinh phí đã thực hiện hỗ trợ là hơn 1,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ý kiến từ đại diện các Sở Giáo dục và Đào tạo cho thấy việc thực hiện chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non tại các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập ở địa bàn khu công nghiệp gặp một số khó khăn do giáo viên thường xuyên thay đổi, không ổn định, khó khăn trong việc tổng hợp số liệu cho việc thu thập hồ sơ đề nghị hưởng chính sách. Giáo viên mầm non có bằng Trung cấp sư phạm dạy tại nhóm trẻ, lớp mẫu giáo có trên 30% con công nhân tại một số địa phương chưa được hưởng chính sách của tỉnh do địa phương áp dụng quy định tại Luật Giáo dục năm 2019, giáo viên mầm non phải đạt chuẩn trình độ đào tạo Cao đẳng sư phạm. Bên cạnh đó, mức hỗ trợ chính sách đối với giáo dục mầm non vẫn còn thấp; thu nhập của giáo dục mầm non, đặc biệt là giáo viên ngoài biên chế, nhân viên nuôi dưỡng hiện nay còn thấp so với mặt bằng chung của xã hội, chưa tương xứng với cường độ lao động cao, tính chất công việc yêu cầu cao về tinh thần trách nhiệm và chuyên môn, nghiệp vụ. Nhiều địa phương không đủ nguồn lực để bảo đảm đầy đủ chế độ, chính sách đối với giáo viên mầm non, nhất là giáo viên mầm non ngoài biên chế và đội ngũ nhân viên nuôi dưỡng. Cần cơ chế đặc thù Bà Dương Bích Nguyệt, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai, cho biết hiện nay, Lào Cai thiếu giáo viên mầm non so với định mức quy định, toàn tỉnh định mức giáo viên/nhóm, lớp mới đạt 1,84. Bình quân mỗi giáo viên mầm non làm việc 9-10 giờ/ngày từ sáng đến chiều, bao gồm cả thời gian nghỉ trưa (khoảng 2 giờ/ngày), kinh phí chi trả dạy thêm giờ rất khó khăn. Cô giáo Lê Thanh Hiền Hương, Phó Hiệu trưởng Trường mầm non Sơn Ca, huyện Cát Hải, Hải Phòng, cùng các cháu học sinh trong buổi học tại trường. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)Việc sắp xếp, tuyển dụng giáo viên mầm non đối với vùng khó khăn hoặc hợp đồng lao động đối với khu vực thành phố, thị xã, thị trấn còn khó, do chỉ tiêu giao biên chế viên chức trong toàn ngành của tỉnh hàng năm chưa đáp ứng được số giáo viên thiếu và thiếu nguồn tuyển giáo viên đạt chuẩn trình độ chuyên môn theo Luật Giáo dục 2019. Theo bà Dương Bích Nguyệt, Nghị định số 105/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non, trong đó có chính sách đối với giáo viên mầm non dạy lớp ghép, tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số nhưng chỉ hỗ trợ cho giáo viên dạy điểm trường lẻ, ở thôn bản đặc biệt khó khăn, còn giáo viên dạy lớp ghép ở trường chính không được hưởng chế độ này. Đối chứng với cấp Tiểu học, chế độ được áp dụng đối với tất cả giáo viên dạy lớp ghép. Như vậy, có thể thấy, cơ chế chính sách chưa đảm bảo công bằng đối với các cấp học. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai cũng đề nghị nghiên cứu, ban hành chính sách hỗ trợ hoặc trợ cấp theo giai đoạn đối với đội ngũ nhà giáo đang bị ảnh hưởng trực tiếp của Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 4/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. Bởi thu nhập từ lương của nhà giáo khi đơn vị công tác ra khỏi vùng đặc biệt khó khăn bị giảm trung bình 5 triệu đồng/người/tháng do thôi hưởng chế độ phụ cấp, trợ cấp theo quy định của vùng đặc biệt khó khăn. Hay như tại Đà Nẵng, theo đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng, giáo viên giảng dạy tại các cơ sở giáo dục mầm non trên địa bàn huyện Hòa Vang không được hưởng hỗ trợ do huyện Hòa Vang không có khu công nghiệp. Tuy nhiên, huyện này lại đón nhận dạy dỗ đa số trẻ là con công nhân làm việc tại các khu công nghiệp của quận Liên Chiểu và Cẩm Lệ. Đây là một bất cập và cũng là thiệt thòi đối với giáo viên mầm non tại các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục trên địa bàn huyện Hòa Vang. Vì vậy, Đà Nẵng đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu Chính phủ điều chỉnh Điều 10 của Nghị định 105/2020/NĐ-CP về đối đượng đối với giáo viên mầm non làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non thuộc loại hình dân lập, tư thục: mở rộng địa bàn có khu công nghiệp thuộc cấp tỉnh, thành phố. Ông Nguyễn Văn Phong, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Dương, cũng nêu khó khăn khi triển khai chính sách đối với giáo viên mầm non đang làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non tư thục. Điều kiện để giáo viên được hưởng chế độ hỗ trợ là trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ tại nhóm trẻ, lớp mẫu giáo có từ 30% trẻ em là con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp. Trên thực tế, đa phần số trẻ là con công nhân, người lao động nhưng thường có cả lao động tự do nên xác nhận thường chưa đủ tỷ lệ 30%. Do vậy, nhiều giáo viên rất vất vả nhưng không được hưởng chính sách. Theo đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Dương, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến chế độ làm việc, chính sách tiền lương cho đội ngũ giáo viên mầm non nhằm thu hút, khuyến khích học sinh theo học Sư phạm mầm non và thu hút nguồn nhân lực vào làm việc tại các cơ sở giáo dục mầm non. Trước những khó khăn về nhân lực, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ngô Thị Minh chia sẻ để hạn chế việc giáo viên mầm non xin thôi việc và chuyển công tác ra khỏi ngành giáo dục, rất cần chính sách đãi ngộ hợp lý. Hai năm vừa qua, đối tượng chịu ảnh hưởng lớn nhất là giáo viên mầm non ngoài công lập. Khi một bộ phận giáo viên mầm non nghỉ việc, đi làm nơi khác với mức lương cao hơn thì việc thu hút họ quay trở lại không đơn giản. Chính vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn đang tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục mầm non để tham mưu và quy định theo thẩm quyền bổ sung những vấn đề mới, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục mầm non. Đồng thời, tháo gỡ khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách./.
Phát triển giáo dục mầm non trong tình hình mớiNgày phát hành: 18/08/2022 Lượt xem 4179
Lứa tuổi mầm non là tuổi vàng của sự phát triển, việc chăm sóc giáo dục đầu đời
1. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam. Giáo dục mầm non nhằm phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp 1. Chính vì vậy, giáo dục mầm non cho trẻ em giai đoạn 0 đến 6 tuổi giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ trong tương lai và được coi là “Giai đoạn vàng”, “Thời kỳ vàng” đối với phát triển của con người để giáo dục và tạo nền móng cho sự phát triển của trẻ trong tương lai. Trẻ được tiếp cận với giáo dục mầm non càng sớm, càng thúc đẩy quá trình học tập và phát triển của trẻ ở các học tiếp theo. Nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục mầm non đối với phát triển kinh tế-xã hội, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước và triển khai thực hiện chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, ngày 28/12/2010 Bộ Chính trị khóa VIII ban hành Chỉ thị số 61-CT/TW về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 61-CT/TW, năm 2010 cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, công tác phổ cập giáo dục tiểu học thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, giáo dục mầm non chất lượng còn thấp và chưa được đầu tư thỏa đáng. Quán triệt quan điểm phổ cập giáo dục là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhằm tạo nền tảng dân trí vững chắc để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thực hiện thành công một trong ba khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, với mục tiêu nâng cao trình độ dân trí một cách toàn diện, mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phấn đấu cả nước hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, tạo điều kiện phát triển giáo dục mầm non, ngày 09/02/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 239/QĐ-TTg phê duyệt đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi giai đoạn 2010-2015 xác định rõ quan điểm phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong giáo dục mầm non nhằm chuẩn bị tốt cho trẻ em vào lớp 1 đối với tất cả các vùng miền trong cả nước; việc chăm lo để mọi trẻ em 5 tuổi được đến trường, lớp mầm non là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa với trách nhiệm hơn của Nhà nước, của xã hội và gia đình để phát triển giáo dục mầm non; đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục mầm non theo nguyên tắc bảo đảm đồng bộ, phù hợp tiên tiến, gắn với đổi mối giáo dục phổ thông, góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục; bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày, đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp 1. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong những năm quan thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI và Quyết định số 239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, giáo dục mầm non đã có nhiều bước phát triển vượt, tạo niềm tin trong nhân dân, phụ huỵnh yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế. Mạng lưới trường, lớp mầm non được củng cố, mở rộng và phân bố đến hầu hết các địa bàn dân cư xã, phường, thôn, bản đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đưa trẻ đến trường, trong đó bao gồm cả các nhóm trẻ có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em dân tộc thiểu số. Các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm bố trí nguồn lực, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị theo hướng kiên cố, chuẩn hóa; thực hiện khá tốt công tác quản lý, sử dụng, tuyển dụng đội ngũ giáo viên góp phần bổ sung giáo viên mầm non, cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Toàn quốc hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2017[1]. Đến nay, năm học 2020-2021 cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, 713/713 (100%) đơn vị cấp huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi, 99,3% số đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; năm học 2021-2022, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 713/713 đơn vị cấp huyện (100%) duy trì phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 99,94% đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi. Hằng năm việc huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi vào học mẫu giáo đều tăng[2]. Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ 2 buổi/ngày từng bước được nâng dần về số lượng và chất lượng, trẻ được chuẩn bị tốt các điều kiện sẵn sàng vào học lớp 1. Tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi của cả nước đạt 99,78%, , tỷ lệ trẻ em được học 2 buổi/ngày đạt 99,9% và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non là 99,7%[3] Các địa phương thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, lấy trẻ em là trung tâm của quá trình giáo dục, bảo đảm an toàn và phòng chống bạo hành trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non, đặc biệt là các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, đồng thời quan tâm phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non để từng bước nâng cao năng lực cho đội ngũ[4]. Bên cạnh đó, trong thời gian trẻ không thể đến trường do dịch Covid-19, ngành giáo dục đã chỉ đạo xây dựng cẩm nang hướng dẫn phụ huynh về nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non ở nhà. Tuy nhiên, cho đến nay, việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục mầm non ở nước ta vẫn còn những hạn chế, một số mặt chưa được như mong đợi. Tỷ lệ huy động trẻ mầm non các độ tuổi được học mẫu giáo có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng, miền[5]. Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 3 đến 4 tuổi cả nước thấp (mới đạt 90,4%); tỷ lệ trẻ em độ tuổi nhà trẻ được tiếp cận giáo dục mầm non còn thấp (đạt 28%) đã ảnh hưởng đến sự bền vững kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi[6]. Mặc dù, cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, nhưng vẫn còn 07 xã chưa đạt chuẩn[7]. Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ có nơi chưa bảo đảm theo yêu cầu, hoạt động giáo dục thể chất ít được chú ý, trẻ em 5 tuổi các vùng khó khăn chưa được chuẩn bị tốt các điều kiện (tiếng Việt, kỹ năng, thể lực, tâm lý…) sẵn sàng vào học lớp 1. Mạng lưới trường, lớp mầm non ở một số địa phương còn bất cập, nhất là vùng núi cao, vùng kinh tế - xã hội khó khăn thiếu nhiều trường, lớp, thiếu công trình vệ sinh và trang thiết bị[8]. Ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất chưa giành đủ quỹ đất để xây dựng trường, lớp mầm non. Tỷ lệ giáo viên/lớp ở nhiều địa phương tỷ lệ còn thấp. Tình trạng thiếu giáo viên mầm non ở nhiều địa phương vẫn chưa được khắc phục[9]. Đặc biệt, tỷ lệ giáo viên/lớp ở vùng núi cao, ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung rất thấp. Năng lực, kỹ năng tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, phát triển chương trình giáo dục mầm non của giáo viên chưa tương thích với trình độ đào tạo. Một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên mầm non chậm đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ để đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Chế độ lương và các thu nhập khác của giáo viên mầm non chưa tương xứng với công sức và áp lực nghề nghiệp, thời gian làm việc trên lớp thường kéo dài từ 09 đến 10 giờ/ngày. Ở một số địa phương vùng cao, cô giáo kiêm luôn việc đưa đón trẻ, nấu ăn và tắm cho trẻ. Giáo viên cắm bản tại các điểm trường còn thiếu nhà công vụ. Công tác quản lý giáo dục mầm non khu vực ngoài công lập còn hạn chế, nhất là đối với lớp, nhóm trẻ độc lập tư thục ở gần khu công nghiệp, khu chế xuất. Vấn đề bạo hành trẻ cá biệt vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, cơ sở giáo dục mầm non gây tâm lý lo lắng cho phụ huynh và bức xúc trong dư luận xã hội. Do dịch Covid-19 bùng phát nhiều lần đã tác động nghiêm trọng đến giáo dục mầm non, trong đó trẻ nhà trẻ, mẫu giáo là những đối tượng chịu thiệt thòi, phần lớn thời gian trẻ không được đến trường, không có điều kiện giao tiếp, vận động, sinh hoạt theo yêu cầu phát triển của độ tuổi, chưa đủ điều kiện về thể chất để được tiêm phòng vắc xin đã ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non và việc chuẩn bị cho trẻ em 5 tuổi sẵn sàng vào lớp 1. Một số trẻ em thuộc hộ nghèo, trẻ dân tộc thiểu số (không được ăn trưa tại trường), trẻ khuyết tật học hòa nhập, trẻ em là con công nhân mất việc làm…có nguy cơ chậm phát triển. Cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập trong thời gian dài không có doanh thu, đời sống giáo viên hết sức khó khăn, nhiều giáo viên mầm non sau một thời gian nghỉ dịch đã bỏ nghề, chuyển sang các công việc khác. Nhiều trường mầm non ngoài công lập giải thể, đóng cửa trường, đối mặt với nguy cơ vỡ nợ về tài chính[10]. Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng giáo dục chưa đạt của các cấp học tiếp theo. 2. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ chăm lo phát triển giáo dục mầm non “Tăng cường giáo dục, kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em. Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi. Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em. Giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 18,5%, dưới 1 tuổi xuống còn 12,5%. Thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm xuống 20%” ; đồng thời, trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, hợp tác với những diễn biến khó lường, yêu cầu đặt ra là cần tập trung nâng cao chất lượng, trọng tâm hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để thực hiện sứ mạng kỳ vọng của giáo dục, hoàn thành nhiệm vụ đặt nền móng phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu, động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước, điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát triển giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo là vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của xã hội, là nhu cầu, nguyện vọng của mỗi gia đình, cộng đồng và địa phương trong thời gian tới. Giáo dục mầm non thời gian tới cần có bước phát triển mới, chuyển biến lớn, đáp ứng yêu cầu mới phù hợp với xu thế phát triển giáo dục mầm non của thế giới, giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, mở rộng khả năng tiếp cận, cải thiện chất lượng chăm sóc, giáo dục cho trẻ em mẫu giáo, hình thành nhân cách, kỹ năng sống, thể chất và trí tuệ cần thiết phù hợp với lứa tuổi và chuẩn bị tốt nhất cho trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền, đặc biệt là trẻ em vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo sẵn sàng vào tiểu học, góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục, liên thông với giáo dục phổ thông. 2.1. Nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục mầm non. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức, cho các cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng về phát triển giáo dục mầm trong tình hình mới. Đa dạng, linh hoạt, lồng ghép bằng nhiều hình thức thiết thực, phù hợp với từng đối tượng, huy động sự tham gia, phối hợp của hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các bậc cha mẹ và toàn xã hội vào công tác phát triển giáo dục mầm non. 2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định hoạt động và quản lý chất lượng giáo dục mầm non. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển giáo dục mầm non cho phù hợp với thực tiễn. Có cơ chế chính sách phát triển giáo dục mầm non ở các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất và vùng đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách chuyển đổi một số cơ sở giáo dục mầm non công lập thành ngoài công lập ở những nơi có điều kiện thực hiện tốt xã hội hóa. 2.3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển mạng lưới trường, lớp mầm non theo hướng kiên cố hóa, chuẩn hóa đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo, nhu cầu gửi trẻ trong độ tuổi nhà trẻ ở mọi vùng miền được đến lớp và chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày. Củng cố kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, từng bước triển khai thực hiện phổ cập giáo dục trẻ em mẫu giáo từ 3 - 4 tuổi, ưu tiên trẻ em người dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo, trẻ em khuyết tật, trẻ em yếu thế. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm ngân sách chi thường xuyên cho hoạt động chăm sóc, giáo dục mầm non; ưu tiên ngân sách để thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 3-4 tuổi và ngân sách để duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Quan tâm bảo đảm ngân sách chi thường xuyên và bố trí đội ngũ để tổ chức các loại hình trường, lớp mầm non phù hợp, tạo cơ hội cho trẻ em mẫu giáo được đến trường đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng miền núi, biên giới, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục và đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non, khuyến khích, tạo điều kiện để các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đầu tư phát triển trường, lớp mầm non ngoài công lập theo tinh thần Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/06/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2025, coi đây là giải pháp quan trọng trong công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 3-4 tuổi. Nâng cao hiệu quả, tính thiết thực đối với công tác phát triển giáo dục mầm non gắn với việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước; Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. 2.4. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục mầm non phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và hội nhập quốc tế góp phần nâng cao chất lượng công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tăng cường dạy học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số cho trẻ em trên cơ sở tiếng mẹ đẻ nhằm gìn giữ và phát huy giá trị ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc thiểu số. Đổi mới hoạt động chuyên môn, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ và đánh giá sự phát triển của trẻ theo hướng coi trọng chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phát triển toàn diện theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của trẻ em, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1, bảo đảm liên thông, gắn kết với giáo dục phổ thông. Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình, cộng đồng trong việc phổ biến kiến thức, kỹ năng cơ bản chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. Ðẩy mạnh hợp tác quốc tế, ứng dụng môi trường số, công nghệ số thúc đẩy đổi mới sáng tạo, học tập, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục mầm non. 2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Thực hiện hiệu quả việc sắp xếp, đổi mới căn bản mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên gắn với quy hoạch nhân lực giáo dục địa phương, vùng, miền theo hướng hình thành các đại học sư phạm trung tâm, đào tạo nhân lực chất lượng cao; hình thành các trường sư phạm vệ tinh. Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường sư phạm. Đổi mới chương trình, đa dạng các phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục mầm non và phát triển giáo dục mầm non. Phát triển năng lực nghề nghiệp, thực hành nghề nghiệp chú trọng rèn luyện đạo đức, nhân cách nghề nghiệp, lòng yêu ngành, yêu nghề cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non. Thực hiện tốt việc liên kết giữa trường sư phạm với địa phương trong xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trong đó có giáo viên mầm non bảo đảm đủ số lượng, cân đối về cơ cấu, khắc phục triệt để tình trạng thừa, thiếu giáo viên và phù hợp với thực tiễn địa phương, vùng, miền. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non nhằm cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non người dân tộc thiểu số, giáo viên mầm non khu vực dân lập, tư thục được hưởng đầy đủ chế độ cho giáo viên mầm non theo quy định hiện hành; quan tâm phát triển đội ngũ giáo viên mầm non người dân tộc thiểu số có trình độ về sư phạm, kiến thức chuyên môn phù hợp từng vùng, từng dân tộc, địa bàn khó khăn; chú trọng bồi dưỡng dạy tiếng dân tộc cho giáo viên mầm non công tác tại các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, giúp giáo viên yên tâm công tác và cống hiến. Khuyến khích giáo viên mầm non phát huy tính độc lập, sáng tạo, tự nghiên cứu, tự học tập suốt đời nâng cao năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 3. Để thực hiện thành công các đột phá chiến lược xác định trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; tạo bước chuyển mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, việc nghiên cứu đề xuất Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Chỉ thị mới về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phổ cập, phân luồng trong giáo dục, xóa mù chữ đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” thay thế Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 “về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn” tạo tiền đề vững chắc cho phát triển giáo dục mầm non trong tình hình mới, tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, từng bước triển khai phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 3-4 tuổi, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục mầm non cho trẻ em được đến trường chăm sóc, giáo dục, phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành nhân cách sẵn sàng vào học lớp 1. TS. Lê Thị Mai Hoa- Phó Vụ trưởng, Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề, Ban Tuyên giáo Trung ương
[1] Theo Nghị định số 20/2014/NĐ-CP, ngày 24/3/2014 của Chính phủ, đối tượng PCGD mầm non cho trẻ em 5 tuổi là trẻ em 5 tuổi chưa hoàn thành chương trình GDMN. Quy định tiêu chuẩn công nhận đạt chuẩn PCGD giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi như sau: 1. Đối với cá nhân: Hoàn thành chương trình GDMN; 2. Đối với xã, phường, thị trấn (gọi chung là xã): a) Tỷ lệ trẻ em 5 tuổi đến lớp đạt ít nhất 95%; đối với xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 90%; b) Tỷ lệ trẻ em 5 tuổi hoàn thành chương trình GDMN đạt ít nhất 85%; đối với xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 80%; 3. Đối với huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là huyện): Có ít nhất 90% số xã được công nhận đạt chuẩn PCGD mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 4. Đối với tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh): Có 100% số huyện được công nhận đạt chuẩn PCGD mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
[2] Năm 2011 cả nước có 12.827 trường mầm non và huy động 3.771.483 trẻ; năm 2020 có 15.480 trường mầm non, 16.013 cơ sở độc lập (nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non độc lập) và huy động 5.306.501 trẻ. Theo mục tiêu đề ra trong Chỉ thị số 10-CT/TW đến năm 2015 huy động 80% trẻ từ 3 đến 5 tuổi vào học mẫu giáo. Kết quả thực hiện đạt 92,4%.
[3] Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi theo vùng kinh tế xã hội: Đồng bằng sông Hồng đạt 99,94%; Trung du và miền núi phía Bắc đạt 99,80%; Bắc Trung bộ đạt 99,82%; Tây Nguyên đạt 99,80%; Đông Nam bộ đạt 99,60%; Đồng bằng Sông Cửu long đạt 99,63%. - Tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi được học 2 buổi/ngày theo vùng kinh tế xã hội: Đồng bằng sông Hồng đạt 99,9%; Trung du và miền núi phía Bắc đạt 99,9%; Bắc Trung bộ đạt 100%; Tây Nguyên đạt 99,4% (thấp nhất trong cả nước); Đông Nam bộ đạt 99,9%; Đồng bằng Sông Cửu long đạt 99,8%. - Tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành chương trình GDMN theo vùng kinh tế xã hội: Đồng bằng sông Hồng đạt 99,87%; Trung du và miền núi phía Bắc đạt 99,96%; Bắc Trung bộ đạt 99,76%; Tây Nguyên đạt 99,95%; Đông Nam bộ đạt 99,62%; Đồng bằng Sông Cửu long đạt 99,17% (thấp nhất trong cả nước).
[4] Theo Luật Giáo dục 2005, tỷ lệ đạt chuẩn đào tạo của GV nhà trẻ: 99,9%, giáo viên mẫu giáo: 99,8%, hiệu trưởng nhà trẻ: 91% và mẫu giáo: 86%. Theo Luật Giáo dục 2019, tỷ lệ đạt chuẩn này còn thấp: giáo viên nhà trẻ: 55%, giáo viên mẫu giáo:70% và cán bộ quản lý nhà trẻ: 89%, cán bộ quản lý mẫu giáo: 79%.
[5] Một số vùng tỷ lệ huy động trẻ mầm non còn thấp so với bình quân toàn quốc: Đồng bằng sông Cửu Long: 81,2%; Tây Nguyên: 87,3%; Bắc Trung Bộ: 89%.
[6] Năm học 2020-2021, cả nước mới có 27/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo đến trường đạt 95% trở lên; còn 27 tỉnh, thành phố có tỷ lệ huy động trẻ độ tuổi mẫu giáo 3 tuổi dưới 80%; 12 tỉnh/thành phố có tỷ lệ huy động trẻ độ tuổi mẫu giáo 4 tuổi dưới 80%.
[7] Tỉnh Nghệ An có 06 xã chưa đạt chuẩn: Cửa Nam (thành phố Vinh), Diễn Đoài (huyện Diễn Châu), Quỳnh Yên, Quỳnh Ngọc, An Hòa (huyện Quỳnh Lưu), xã Trù Sơn (huyện Đô Lương); Tỉnh Sóc Trăng có 01 Phường (Phường 8, thành phố Sóc Trăng) chưa đạt chuẩn (tính đến năm học 2020-2021).
[8] Có 78,2% trẻ nhà trẻ và 7,5% trẻ mẫu giáo chưa được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non, tập trung tại các tỉnh khó khăn và các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tỷ lệ phòng học kiên cố thấp mới đạt 80%.
[9] Hiện nay, toàn ngành thiếu 61.741 giáo viên, tỷ lệ giáo viên biên chế mới đạt 90%, trong đó còn thiếu 45.242 biên chế giáo viên mầm non, trong khi vẫn phải thực hiện chủ trương giảm 10% biên chế.
[10] Theo báo cáo của địa phương, từ tháng 5/2021 đến nay có trên 28.500 cơ sở giáo dục mầm non phải tạm dừng hoạt động để phòng chống dịch, trong đó hơn 20.000 cơ sở đã phải dừng hoạt động từ 3- 6 tháng (khoảng 7.900 trường và hơn 12.000 cơ sở giáo dục mầm non độc lập). Có trên 100.000 cán bộ giáo viên, nhân viên trong cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập không có thu nhập từ 3 tháng trở lên, trong số đó, hầu hết không có thu nhập trong hơn 6 tháng qua; 101.845 cán bộ giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập không đủ điều kiện hưởng hỗ trợ do chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. |