Chính sách về khoa học và công nghệ

Hội nghị nhằm tăng cường sự gắn kết giữa các tổ chức dẫn đầu về nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, trao đổi, chia sẻ và đề xuất những giải pháp góp phần phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ tổ quốc.

Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2021-2030) đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Trong đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là một nội dung quan trọng trong các đột phá chiến lược và được xác định là động lực chính để tăng trưởng kinh tế.

Do đó, Hội nghị sẽ thảo luận, góp ý cho việc hoàn thiện pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; các chính sách nhằm phát triển thị trường khoa học, công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Hội nghị cũng là nơi chia sẻ, bàn bạc về việc thử nghiệm các chính sách có tính đột phá cùng thống nhất trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành; là nơi tập hợp nguồn lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để hình thành và giải quyết các bài toán lớn cho đất nước.

Tại Hội nghị các nhà khoa học đã có kiến nghị để phát triển khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực. PGS, TS Nguyễn Xuân Trung, Viện trưởng Viện nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội cho biết, để phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với khoa học xã hội và nhân văn. Nhiều vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về sự phát triển của đất nước cần tiếp tục được làm sáng tỏ, cần có những câu trả lời thoả đáng từ những người làm công tác khoa học xã hội nói chung, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói riêng.

Trong thời gian tới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tiếp tục tập trung nghiên cứu, giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn kết chặt chẽ khoa học xã hội với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ trong quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho khoa học xã hội.

Đại diện Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam khẳng định, để đổi mới sáng tạo thành công thì người lãnh đạo, quản lý cũng phải là người có tư duy đổi mới sáng tạo, sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Chính vì vậy, cần tạo điều kiện, động lực cho các nhà khoa học, công nghệ nghiên cứu, đổi mới. Kết quả của nhiệm vụ luôn phải gắn với sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa, nâng cao giá trị của công nghệ. Đổi mới sáng tạo có tính liên ngành do đó cần thành lập Hội đồng đổi mới sáng tạo quốc gia. Nhà nước cần giao quyền sở hữu trí tuệ của các kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì nghiên cứu. Cần xây dựng Quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ các spin-off tại các viện nghiên cứu và trường đại học lớn. Đặc biệt, cần thử nghiệm mô hình thương mại hóa công nghệ đặc thù (sandbox) với một cơ chế đặc biệt tại các trường đại học, viện nghiên cứu lớn.

Chính sách về khoa học và công nghệ
Lễ ký kết Chương trình phối hợp công tác trong giai đoạn tới nhằm gắn kết giữa các cơ quan. 

Trưởng ban Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh Lâm Quang Vinh thẳng thắn chỉ ra những tồn tại hạn chế trong hoạt động khoa học và công nghệ. Đó là xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật chưa theo kịp với tốc độ phát triển của các sản phẩm mới, công nghệ mới. Thương mại hóa sáng chế khó khăn dẫn đến nhà khoa học thiếu động lực đăng ký sáng chế. Chưa có các mô hình tổ chức khoa học, công nghệ mới để áp dụng các cơ chế và chính sách đặc biệt. Cần triển khai thí điểm mô hình hợp tác doanh nghiệp-nhà khoa học-Nhà nước, từ đó hình thành vườn ươm, doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong trường đại học, chú trọng nhiều đến sản phẩm tài sản sở hữu trí tuệ theo mô hình hợp tác doanh nghiệp.

Để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ hình thành từ kết quả nghiên cứu trong trường đại học, theo đại diện của Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, cần lấy đổi mới mô hình quản trị làm “nền tảng”, nhân sự-hợp tác-tài chính là “trụ cột” và các định hướng đột phá là “mũi nhọn”. Đầu tư tập trung các lĩnh vực có tiềm lực và thế mạnh. Tiếp tục đầu tư các nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm xuất sắc nghiên cứu liên ngành làm chủ công nghệ nền. Định hướng phát triển liên kết đại học-doanh nghiệp theo kinh nghiệm quốc tế…

Đại diện Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất hợp tác phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để cùng giải quyết các vấn đề bất cập, nổi cộm, quan trọng của ngành, đất nước, cũng như các vấn đề quốc tế, khu vực có mối quan tâm chung, đó là, cùng thực hiện một nhiệm vụ lớn tạo sản phẩm quốc gia, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung về tiềm lực khoa học, công nghệ; nhân lực khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực, hệ thống phòng thí nghiệm trong các lĩnh vực, các sản phẩm công nghệ tiềm năng; thí điểm các cơ chế chính sách về phát triển hợp tác giữa khối nghiên cứu và doanh nghiệp, thí điểm thu hút nhân tài đổi mới sáng tạo, thí điểm về khoán chi khoa học, công nghệ đến sản phẩm cuối cùng….

Cũng tại diễn đàn, nhiều ý kiến cho rằng, cần gắn chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo với giáo dục đào tạo; tạo môi trường bình đẳng cạnh tranh về nghiên cứu khoa học, công nghệ công lập và tư nhân; nên có chiến lược đào tạo nhân lực khoa học giai đoạn 10 năm theo hướng cá thể hóa….

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt khẳng định, với trách nhiệm là đơn vị quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh tiếp thu các vấn đề đã được trao đổi và chia sẻ tại Hội nghị, cụ thể hóa bằng những hành động thiết thực, từng bước góp phần khẳng định vai trò động lực quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ đất nước.

Tại Hội nghị, các cơ quan tham dự đã ký kết Chương trình phối hợp công tác trong giai đoạn tới nhằm gắn kết giữa các cơ quan, tiến tới có những hoạt động phát huy sức mạnh, tiềm lực chung.

HÀ LINH

Khoa học công nghệ là gì? Các hoạt động của khoa học công nghệ? Phân tích về hoạt động khoa học công nghệ hiện nay? Vai trò của khoa học công nghệ trong cuộc sống hiện nay? Chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ?

Trong gia đoạn hiện nay, chúng ta cần phải nhận thức rằng, khoa học công nghệ là một trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế thị trường và trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không những thế, khoa học công nghệ còn là kết quả, minh chứng hiện thân của một đất nước phát triển, của một đất nước công nghệ hiện đại. Chính bởi vai trò to lớn mà khoa học công nghệ mang lại nên Nhà nước cần có những chủ trương, ban hành nhiều chính sách phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước để phát triển khoa học công nghệ và để xây dựng cũng như phát triển đội ngũ trí thức cả về số lượng và chất lượng. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu về chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ.

Chính sách về khoa học và công nghệ

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

1. Khoa học công nghệ là gì?

Khoa học công nghệ là một trong những cách gọi tắt của cụm từ “khoa học và công nghệ”, trong đó ta có thể hiểu:

– Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.

– Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Ngoài ra, theo Luật Khoa học công nghệ Việt Nam năm 2013 cũng đưa ra định nghĩa về hoạt động khoa học và công nghệ có nội dung như sau:

“Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.”

Hay ta có thể hiểu đơn giản thì khoa học công nghệ chính là toàn bộ các hoạt động đảm bảo có hệ thống và sáng tạo hỗ trợ phát triển các kho tàng kiến thức chung của nhân loại. Trong đó có thể là kiến thức về con người, về đời sống – xã hội, tự nhiên…. từ đó giúp hình thành nên các ứng dụng mới hiện đại và phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

2. Các hoạt động của khoa học công nghệ:

Ngày nay, hoạt động khoa học và công nghệ được hiểu là một hoạt động mang tính chất chuyên biệt nhằm mục đích tìm kiếm, phát hiện, lí giải về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy cũng như các hoạt động ứng dụng các tri thức vào phục vụ sản xuất và đời sống của con người.

Xem thêm: Trồng trọt là gì? Chính sách của Nhà nước đối với trồng trọt?

Hay ta có thể hiểu cơ bản như sau, hoạt động khoa học và công nghệ là một hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.

Theo Điều 3 Luật Khoa học công nghệ 2013 quy định về những hoạt động thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:

– Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.

– Hoạt động phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.

– Hoạt động triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm công nghệ mới ở dạng mẫu.

– Hoạt động sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống.

– Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

3. Phân tích về hoạt động khoa học công nghệ hiện nay:

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 của Luật Khoa học và Công nghệ quy định nội dung sau đây:

Xem thêm: Chính sách mở rộng là gì? Chính sách mở rộng trong thực tế?

“Hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.”

Theo quy định của pháp luật về hoạt động khoa học công nghệ ta có thể hiểu hoạt động khoa học công nghệ như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu khoa học:

Nghiên cứu khoa học là việc các chủ thể khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật các hiện tượng, sự vật, các quy luật tự nhiên thông qua đó đưa ra các giải pháp ứng dụng các sáng kiến vào đời sống xã hội thực tiễn.

Phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm hai phương pháp cơ bản đó là:

– Thứ nhất: nghiên cứu cơ bản: Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.

– Thứ hai: nghiên cứu ứng dụng: Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ lợi ích của con người và xã hội.

Thứ hai, phát triển công nghệ:

Xem thêm: Khoa học công nghệ là gì? Vai trò của khoa học và công nghệ trong cuộc sống?

Phát triển công nghệ là việc sáng tạo và hoàn thiện những công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ thường được phát triển theo hai hình thức phổ biến đó là triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm. Trong đó:

– Thứ nhất: Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm công nghệ mới ở dạng mẫu.

– Thứ hai: Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống.

Thứ ba, dịch vụ khoa học và công nghệ:

Dịch vụ khoa học công nghệ là hoạt động đưa nghiên cứu khoa học công nghệ vào thực tiễn, các hoạt động chuyển giao công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng trí thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn.

4. Vai trò của khoa học công nghệ trong cuộc sống hiện nay:

Ngày nay, khoa học công nghệ đang giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người và có những tác động to lớn đối với xã hội và nền kinh tế nước ta. Ta có thể nêu ra một số vai trò cụ thể sau đây:

– Khoa học công nghệ giúp con người tạo ra các công cụ sản xuất, phương pháp sản xuất mới, từ đó nâng cao năng suất lao động của con người, mở rộng sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta.

– Khoa học công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Xem thêm: Mẫu giấy đề nghị chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ mới nhất

– Khoa học công nghệ làm tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường.

– Khoa học công nghệ là công cụ mạnh có vai trò cốt yếu trong việc phát triển con người.

– khoa học và công nghệ là phương tiện  quan trọng để con người khám phá, chinh phục và cải tạo giới tự nhiên.

Khi con người biết vận dụng khoa học và công nghệ để khắc phục những hạn chế của mình nhằm mục đích khám phá, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Việc vận dụng khoa học sẽ giúp con người phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện tượng, sự vật, quá trình từ đó dự báo về sự vận động, phát triển của chúng để định hướng cho hoạt động của mình trong tương lai.

– Ngoài ra, ta nhận thấy một vai trò vô cùng quan trọng khác đó là: Khoa học và công nghệ là biện pháp căn bản để nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất

Việc phát minh ra công cụ sản xuất từ thô sơ đến máy móc và cao hơn nữa là các dây chuyền sản xuất tự động đã tạo ra những bước nhảy vọt về năng suất lao động. Nhờ vào các ứng dụng khoa học và công nghệ trong tổ chức lao động sản xuất đã giải phóng sức lao động của con người, tạo ra sự đổi mới căn bản của lực lượng sản xuất, đưa người lao động lên vị trí làm chủ quá trình sản xuất xã hội và giúp con người ngày càng phát triển.

5. Chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ:

Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây nhằm bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu:

1. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ; áp dụng đồng bộ cơ chế, biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhằm phát huy vai trò then chốt và động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân;

2. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tạo tiền đề hình thành và phát triển kinh tế tri thức;

3. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và hiện đại, nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ mới nhằm đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của sản phẩm;

4. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, chú trọng lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm quốc gia; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực khoa học và công nghệ;

5. Tạo điều kiện phát triển thị trường khoa học và công nghệ;

6. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ;

7. Khuyến khích, tạo điều kiện để hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và hoạt động khoa học và công nghệ;

8. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; nâng cao vị thế quốc gia về khoa học và công nghệ trong khu vực và thế giới.