Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu

Gần mười năm tôi mới có dịp gặp lại người chú họ. Trông chú già đi nhiều, so với tuổi năm mươi. Chú đến thăm chúng tôi với một lý do đơn giản, muốn tìm một khoảng không gian lạ để lòng thanh thản trước khi quyết định ly dị!

Tôi hết sức ngạc nhiên, vì từ lâu vẫn ngỡ rằng ông bà rất hạnh phúc. Cuộc hôn nhân được kết hợp bằng nhiều năm yêu thương của chú Tống và thím Vân – kết quả là đứa con trai đã trưởng thành, đang phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ hai năm qua. Chú cư ngụ trong thành phố Salt Lake City – Utah yên ổn, hiền hoà, trong một căn nhà thật đẹp. Cuộc sống khá giả, thành đạt của chú khiến tôi hằng nghĩ, chú thím là cặp đôi lý tưởng với một mái ấm gia đình, nồng nàn hạnh phúc. Thế mà hôm nay chú tìm đến tôi để bày tỏ một nỗi niềm cay đắng. Chuyện gì đã xảy ra? Tại ai? Nghĩ đến đây tôi bỗng bật cười, vì nhớ một câu hát thuở nhỏ chúng tôi thường chọc ghẹo nhau: “Không phải tại anh, cũng không phải tại em, tại trời ngăn cách nên chúng mình xa nhau!!” Tại ông chú hào hoa của tôi hay bà thím xinh đẹp?

Buổi chiều, hai chú cháu ngồi ngoài hiên nhà, cơn gió nhẹ của mùa Thu làm tôi nhớ một thời thanh xuân với chú Tống trên đảo Galang, Nam Dương. Tôi nhỏ hơn chú bảy tuổi, nhưng từ ngày vượt biên chung, chúng tôi thân thiết với nhau như hai người bạn. Hồi đó, chú và Thím Vân quen nhau, rồi yêu nhau, tôi là người trung gian để thông tin, liên lạc, đưa thư giùm chú. Do đó, cuộc tình của hai người tôi biết rất rõ.

– Chú thím không cãi vã nghiêm trọng, nhưng đời sống gia đình có thể nói đã là một vở kịch buồn, không đạo diễn suốt mười năm nay.

– Thế nào là vở kịch buồn? Có buồn bằng “Lá Sầu Riêng” của Kim Cương không chú?

Nụ cười nở ra thoáng chút ngậm ngùi, chú Tống uống cạn lon bia rồi vỗ vai tôi cười khì một tiếng:

– Chú mầy vẫn cái tật chọc ghẹo, tò mò. Chuyện như thế này… Sau khi sinh thằng Tuấn, chú muốn thím ở nhà chăm sóc con. Ðể đủ sức lo cho gia đình, chú phải đi làm thêm một “job” nữa suốt ba năm. Thời gian nầy, vợ chồng rất ít có dịp gần gũi, trò chuyện thân mật với nhau. Không biết có phải đây là nguyên do chính đã đưa đến sự lạnh lùng của thím hay không, mà kể từ đó, càng ngày, thím càng tìm đủ mọi cách để từ khước “chuyện vợ chồng”, với lý do muốn ngủ với con để tiện việc chăm sóc nó. Lúc đầu, chú cũng nghĩ rằng tại thím mệt mỏi vì con nhỏ, nhưng sau đó, thím luôn cự tuyệt, hoặc đôi khi đáp ứng một cách rất miễn cưỡng.

– Chú có nghĩ rằng tình yêu vợ chồng có vấn đề gì không? Hay sức khoẻ của thím?

– Chú có nói chuyện về sức khoẻ, nhưng thím khẳng định là không có vấn đề gì cả. Chú vẫn tin vậy, vả lại, trông thím vẫn khoẻ mạnh. Tất cả công việc hàng ngày của thím, việc chăm sóc chồng con, nhà cửa vẫn chu toàn, không chỗ nào đáng trách.

– Còn “chuyện vợ chồng”, chú có ngồi lại nói chuyện với thím cho ra lẽ không?

– Là đàn ông và đã có vợ, chắc chú mầy cũng biết… làm sao mà nói được chuyện tế nhị như thế. Hơn nữa, “chuyện vợ chồng”  là một  biểu lộ tình yêu tự nhiên, là một dâng hiến tự nguyện, nói ra, giống như mình ép người ta. Chú tự ái không muốn nói, thím thì coi như không. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh. Có một lần, cách đây khá lâu, chú bị một cú sốc nặng khi thím cự tuyệt bằng câu nói miệt thị “con người anh chỉ biết chuyện ấy thôi à?”. Hai vợ chồng đã cãi nhau kịch liệt và cũng từ đó chú không hề đụng chạm đến thím nữa. Sống với nhau như hai người bạn, phòng ai nấy ngủ. Trước mặt con và mọi người vẫn bình thường, nhưng trong lòng hai người như có một bức tường ngăn cách. Chú không muốn ngoại tình, nhưng luôn luôn khao khát, một khao khát rất bình thường là được chiều chuộng, thương yêu. Vì thế, chú đã sinh tật uống rượu và hút thuốc trở lại. Cuối tuần, chỉ biết đi câu cá vì đó là niềm vui duy nhất mà chú có thể tìm được. Cách đây ba năm, hãng chú tuyển dụng một nữ nhân viên, vì tiếng Anh của cô không giỏi nên chú được giao trách nhiệm “training” cho cô. Cô rất trẻ, nhỏ hơn chú đến mười hai tuổi. Ban đầu, mọi sự đều bình thường, nhưng dần dần, cô ấy có cảm tình với chú. Ðổi lại, sự thân mật, dịu dàng của cô ấy đã làm cho chú vui và cảm thấy yêu đời hơn. Từ chỗ tiếp xúc qua việc làm, đến thân mật như bằng hữu và dẫn đến tình yêu lãng mạn… kết quả chú đã ngoại tình thật sự ở tuổi bốn mươi tám. Trước đây, chưa bao giờ chú nghĩ mình có thể phạm sai lầm như thế. Bởi vì, dù đối xử với chú lạnh lùng, nhưng thím vẫn là một người mẹ hiền, một người vợ đảm đang. Chú vẫn bị ray rứt lương tâm, nhưng không thể từ chối lời mời gọi trước một tình cảm mới mẻ, nồng nàn. Mối tình say đắm của chú và cô gái đã kéo dài trong lén lút suốt hai năm mà thím không hề biết hay không thèm biết, chú cũng không hiểu. Hiện tại, chú đang đứng trước sự chọn lựa khó khăn. Một bên là người vợ đã gắn bó hai mươi bốn năm với những hờ hững, lạnh nhạt. Một bên là người tình tuyệt vời với niềm hạnh phúc ngọt ngào. Chú mầy nói đi, nếu phải chọn thì chọn cách nào? Một cuộc sống theo ước muốn của mình để suốt đời mang tiếng là kẻ bạc tình hay chết dần mòn trong mái gia đình khô khan, lạnh lẽo, mãi mãi thiếu vắng nụ cười.

Nghe đến đây, tôi lại phải uống thêm một chai bia và hút thêm một điếu thuốc lá, vì thật sự, không biết phải khuyên chú thế nào!


Bạn thân mến. Người viết cũng đồng tâm trạng với anh bạn kể câu chuyện trên đây. Làm sao có thể đưa ra một lời khuyên cho hợp tình, hợp lý. Mỗi việc xảy ra đều có lý do. Chúng ta không phải là ông Tống và cũng không sống cuộc đời cuả bà Vân, thì làm sao phán quyết, ai đúng, ai sai? Người chồng đáng thương hay người vợ đáng trách? Tình huống đã đến hồi không thể quay lui, chỉ có người trong cuộc mới tự trả giá đúng với những gì mình đã chọn.

Còn bạn và tôi, qua câu chuyện nầy, hy vọng sẽ cảm nhận được rằng, hạnh phúc trong hôn nhân, không phải tự nó sẽ triển nở sau ngày cưới mà phải được chăm chút hằng ngày, tìm hiểu những thay đổi của người bạn đời trong các nhu cầu tâm, sinh lý để kịp thời bù đắp, bổ khuyết những thiếu sót. Các mâu thuẫn tuy nhỏ, nhưng sẽ lớn dần, trở thành hố sâu ngăn cách nghĩa vợ, tình chồng. Làm thế nào để hiểu nhau nếu không chịu nói và lắng nghe. Nhất là trong vấn đề tế nhị -“chuyện vợ chồng”- thật không dễ chút nào? Nhưng chắc chắn sẽ dễ hơn những khó khăn đang chờ đón bạn, khi tình nghĩa vợ chồng không còn nữa.


Đặng Hiếu Sinh

 

Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Mưa nửa đêm nghe tiếng sầu vạn cổ

Vọng vào tim bao thương nhớ ngậm ngùi

Như tiếng khóc của cuộc đời dang dở

Đang âm thầm trên miền đất xa xôi!

 

Từng giọt mưa là lệ đời viễn xứ

Nhỏ vào tim thao thức giữa đêm trường

Thật  chua xót trọn cuộc đời lữ thứ

Sương khói mịt mờ khuất dấu quê hương!

 

Mưa nửa đêm, sao mưa hoài mưa mãi

Cho lòng ai thê thiết nhớ về xưa

Miền ấu thơ nay lòng nhau khắc khoải

Tiếc làm sao khi mộng ước không vừa!

 

Từng giọt mưa là tiếng hờn vong quốc

Chẳng về nguồn tan loảng dưới hiên sau

Qua năm tháng từng ngày luôn tất bật:

Cõi vô thường chìm nổi biết bao lâu!

 

Mưa nửa đêm buốt đau hồn lưu xứ

Ngẫm cuộc đời chỉ mộng ảo phù hư

Trên trần gian người chỉ là lữ khách

Đâu có gì bền mãi đến thiên thu !


9-12-2022

Hàn Thiên Lương

 

Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Gia đình tôi đông anh em. Tôi yêu thương nhất là người em thứ tám. Tôi thương chú Tám hơn vì chú có tấm lòng ngay thẳng, hiền lành, chịu khó nhưng số phận lại hẩm hiu.

     

Chú lấy vợ, được đứa con trai thì gia đình gãy đổ. Lỗi một phần ở chú. Ở thời buổi này có người đàn bà nào chịu chung sống trọn đời với một người đàn ông chỉ có tấm lòng! Vật chất nữa chứ! Chú ngồi yên lặng – sự yên lặng chiếm gần hết tuổi thanh xuân của chú – nhìn Phụng, người vợ mà chú yêu thương rất mực, ra đi.

     Tôi trở về, sau bảy năm cải tạo. Với số vốn nhỏ nhoi ban đầu, tôi mua bán tre, lá, tầm vông. Rồi từ từ bán thêm vật liệu nặng như sắt, xi măng, đá, gạch, ngói, cát...Sau một cuộc chiến tranh dai dẳng, hòa bình trở lại, gia đình nào cũng cần xây dựng lại nhà cửa. Chỉ sau hai năm làm ăn buôn bán, gia đình tôi đã khá giả. Tôi mua thêm một miếng đất, dự trù cất cho chú Tám một căn nhà nhỏ, vách ván, lát gạch, cách nhà tôi không xa và đồng thời cưới vợ cho chú. Tôi thật ái ngại khi nhìn thấy chú trong cảnh gà trống nuôi con. Chú tươi cười từ chối đề nghị của tôi. Chú quyết tâm bám trụ ở Sài Gòn. Chú bước thêm bước nữa với một người đàn bà Tàu lỡ thời, dung nhan rất khiêm tốn.

     

Vợ chồng chú có một căn bán vật dụng lao động như cuốc, xẻng, dao, liềm, gầu...tọa lạc gần cầu Ba Cẳng, chợ Kim Biên. Nói là một căn cho nó oai, chứ thực ra rất nhỏ hẹp, nếu đứng giữa nhà dang tay mặc áo cũng đụng hai vách bên.

     

Có dịp lên thành phố, lần nào tôi cũng mang theo quà, ghé thăm vợ chồng chú. Tôi mừng thầm vì chú đã có đôi và cuộc sống không đến nỗi quá chật vật. Bản chất tôi rất hiếu khách, nhưng vào dịp tất niên hoặc ngày giỗ kỵ, tôi không mời ai cả dù là bạn hữu quí mến hoặc hàng xóm thân quen, chỉ có anh em chúng tôi quây quần bên nhau. Anh em cả năm xuôi ngược, mưu sinh, chỉ có dịp lễ này để gặp mặt, nói với nhau những lời thân thiết, phụ lực nhau giải quyết những điều khó khăn với tấm lòng thương yêu đùm bọc. Có sự hiện diện của người ngoài, làm sao anh em dám thổ lộ hết những vui buồn tốt xấu. Trong lúc cúng, ngồi chờ nhang tàn, hoặc khi ngồi vào bàn ăn, tôi thường kể lại cho các em nghe về những kỷ niệm gia đình mà lúc đó các chú còn nhỏ không nhớ gì. Những chuyện tôi kể thường liên quan đến công lao khó nhọc của cha mẹ tôi lo nuôi dạy đàn con. Mẹ tôi, người đàn bà tuyệt diệu, suốt đời hy sinh cho chồng con. Mẹ tôi mất năm bà mới 54 tuổi, trong lúc mấy người con trai lớn của bà đang tại ngũ, xông pha ngoài trận mạc, có lần tôi về phép thăm mẹ tôi đang nằm trên giường bệnh. Nắm tay tôi nước mắt rưng rưng, bà nói:

     - Nghe súng nổ ở đâu, má tưởng tượng mấy con đang ở đó, má lo lắng quá.

     Ôi! Biển dầu rộng, nhưng làm sao sánh được bằng tấm lòng thương con mênh mông của người Mẹ hiền.

     

Cha tôi làm thợ, siêng năng cần cù, đội mưa phơi nắng, đau không dám nghỉ. Với số lương kiếm được hầu như cố định hằng tháng, ông trao hết cho Mẹ tôi để nuôi đàn con đang sức lớn như thổi.

     Một lần cuối năm, tình cờ nghe ba tôi than:

     - Tết đến rầu quá!

     

Trong dịp gần Tết, ba tôi phải đi làm thêm cả ngày thứ bảy và chủ nhật để kiếm thêm tiền sắm sửa Tết và may cho anh em chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ mới mặc Tết.

     

Tôi hỏi han về đời sống của các em. Người nào khá phải giúp đỡ người kém may mắn. Tôi làm lực lượng tổng trừ bị. Anh em tôi cho đến giờ vẫn duy trì nếp sống tương trợ đó. Sống bám ở thành phố được hai năm, gia đình chú Tám bị chính quyền ép phải đi vùng kinh tế mới ở Ðịnh Quán, giáp ranh tỉnh Lâm Ðồng. Số chú quả là số con rệp. Tôi nhận được tin báo vào buổi trưa, trong thư chú không nói rõ địa chỉ, thành thử dù rất nóng lòng, tôi cũng không biết cách nào đi thăm để yểm trợ.

     

Ðến ngày giỗ thân phụ, anh em chúng tôi ngồi ngóng đến chuyến xe đò cuối cùng chú Tám mới về tới. Ngoài bánh, mứt, trà sắp lên bàn thờ cúng cha mẹ, chú Tám còn mang về biếu tôi một bình rượu to ngâm sáu con bìm bịp, với một lít mật ong nguyên chất.

     

Anh em ngồi quây quần nghe chú kể về cuộc sống gian nan, khó khăn trong những ngày đầu đến sinh sống ở vùng kinh tế mới. Một vài gia đình có người chết vì bệnh kiết lỵ hoặc sốt rét. Nhiều gia đình không chịu đựng nổi cuộc sống kham khổ, lén trốn về Sài Gòn. Riêng gia đình chú, với số đồ sắt bán ế trước đây còn tồn tại, chú chở theo lên bán rất được giá. Chú lại mua thêm đồ để bán như xoong, nồi, quần áo lao động, giầy bố, một số thuốc Tây thông dụng như thuốc sốt rét, đau bụng, kiết lỵ và cảm cúm. Vốn buôn bán làm ăn của chú bây giờ khá hơn hồi còn nấn ná ở Sài Gòn. Anh em đều mừng rỡ, gọi đùa chú là “người hùng vùng kinh tế mới”.

     

Sáu tháng sau, tôi lên thăm chú. Trời ngả về chiều, tôi tới Ðịnh Quán. Ðến vùng kinh tế mới Kim Biên, cách huyện trên 10 cây số về hướng Tây, phương tiện duy nhất ở đây là xe đạp ôm. Dọc đường tôi hỏi thăm người chạy xe về tin tức của chú Tám:

     - Tám Nghĩa, trước bán đồ sắt ở chợ Kim Biên lên đây hiện đang ở đâu, chú có biết không?

     - Biết, biết! Anh Tám Hổ đó mà, có quán cà phê và tạp hóa ở gần bìa rừng.

     

Tôi ngạc nhiên về cái tục danh Tám Hổ, nó có vẻ ngang tàng anh chị quá, nhất định không phải chú ấy rồi. Chú Tám hiền đến độï trước đám đông chú thường yên lặng, cười xã giao. Lúc còn đi học tiểu học, chú thường đi sớm đến chùa Viên Minh để được chia phần khất thực vào giờ độ ngọ. Các vị sư nói chú có nhiều Phật tính, nhất định chú Tám, em tôi không phải là Tám Hổ.

     

Sau gần hai tiếng đồng hồ ngồi trên xe đạp dồn xóc ê ẩm, trời sụp tối. Người lái xe quẹo vào cái quán có đèn “măng sông” sáng choang, dừng lại gọi lớn:

     - Tám Hổ ơi! Có anh ở Trà Vinh lên thăm nè.

     Chú Tám Hổ bước ra, em trai tôi đây mà! Hai anh em mừng rỡ nắm tay nhau:

     - Anh lên, em mừng và ngạc nhiên quá!

     Tôi thắc mắc:

     - Có vụ gì mà có tục danh Tám Hổ nữa đây?

     Chú cười:

     - Bí mật! Anh vào tắm cho khoẻ, em sẽ tường thuật cho anh nghe sau.

     

Căn nhà chú đúng là quán hàng xén, đầy đủ đồ gia dụng cần thiết và thực phẩm khô. Tôi chú ý trên vách, cạnh bàn thờ có treo một khẩu súng săn bóng loáng.

     

Bữa cơm, canh rau nấu với tôm khô, lạp xưởng chiên. Ðặc biệt có bia lai rai với khô cá lóc tôi mang lên. Rót tiếp bia cho tôi, đoạn chú chỉ xuống gầm bàn, nói:

     - Em có tên Tám Hổ vì nuôi nó trong nhà đó.

     

Tôi ngó xuống giựt mình, co chân lên ghế. Một con cọp vằn đen lông vàng to bằng con chó ta, đang nằm cuộn mình dưới gầm bàn. Chú cười, cụng ly với tôi rồi bắt đầu kể:

     - Lần trước về ăn đám giỗ ba, trở lên Sài Gòn bổ đồ hàng xén cho tiệm, em mua được cây súng săn giá rất rẻ của một người thua bạc cần tiền. Em rất thích đi săn. Hơn nữa ở đây nhiều chim, gà rừng, mễn, nai, cheo...Một ngày đi săn xông xáo, lớp ăn, lớp xẻ khô, gia đình em dùng cả tháng chưa hết. Một hôm đang mải mê theo dấu một con công, rất sâu trong rừng, bỗng em thấy đám cỏ tranh lay động và từ xa em nghe tiếng kêu ăng ẳng như tiếng chó con. Em liền chạy đến thì gặp... nó đây! (Chú vừa nói vừa chỉ vào con cọp đang nằm dưới gầm bàn, lâu lâu lại đưa chân trước lên vuốt mép). Hẫng một phút vì bất ngờ, em vội nhào tới ôm nó lên, bỏ cả xâu chim chiến lợi phẩm, chạy bất kể thân, vì em biết thế nào mẹ nó cũng lẩn quất không xa. Cọp mẹ mà biết em bắt con của nó thì giờ này em không còn được ngồi đây uống bia với anh. Về đến nhà, em để nó vào cái cần xé, nằm bật ngay trên ván vì mệt, muốn kiệt sức.

     - Hớp một ngụm bia, chú kể tiếp:

     - Anh không thể tưởng tượng được, trong tuần lễ đầu tiên lúc mới bắt nó về, tụi em không làm ăn buôn bán gì được cả. Người hiếu kì kéo tới coi không ngớt suốt ngày, mỗi người hỏi một vài câu, trả lời thôi cũng muốn khùng. Tuần rồi Công an huyện cho người xuống nói thừa lệnh trên bắt nó về cho Sở thú Sài Gòn nuôi để nhân dân tham quan. Em biết họ đặt điều, bắt đem đi bán cho khách ngoại quốc. Không có lệnh trên lệnh dưới nào cả. Em nói nó là vật sở hữu của em, không ai có quyền bắt cả. Sở thú Sài Gòn có mần thịt sư tử, cọp bán xương cho mấy ông ba tàu Chợ Lớn nấu cao hổ cốt thì bắt cọp nữa làm gì? Thấy em có phản ứng quyết liệt, họ thụt, nhưng bắt em ký giấy cam kết nếu nó làm gì nguy hiểm cho nhân dân, em hoàn toàn chịu trách nhiệm.

     Chú cúi xuống đưa tay xoa xoa đầu cọp và nói tiếp:

     - Em cho nó uống nước cơm pha đường thẻ, ăn cơm với thịt hoặc cá đã nấu chín. Tuyệt đối không cho ăn thịt sống. Nó mau lớn và hiền lắm. Ở đây, đa số đất khai hoang đều trồng bắp và đậu phộng, thu hoạch cũng khá. Khổ nỗi khỉ và heo rừng thường tới phá hoa màu. Mỗi buổi sáng, em phụ vợ em dọn quán và pha cà phê, cơm nước xong, em vác cuốc xẻng, đồng thời đem theo đồ ăn trưa. Em ra rẫy, nó lững thững đi theo sau. Một điều lạ, không biết vì trông thấy hay ngửi thấy mùi phân và nước tiểu của cọp nên khỉ và heo rừng không dám bén mảng tới phá nữa. Mấy công đất em trồng bắp và đậu phộng lên tốt, nguyên vẹn. Tiếng đồn lan ra khắp vùng, nhiều người tới năn nỉ nhờ em cho mướn nó đi biểu diễn để khỉ và heo rừng sợ không dám tới phá hoa màu của họ nữa. Em sẵn lòng giúp họ nhưng khổ nỗi là không có em, ai dẫn nó cũng không chịu đi. Sau vụ thu hoạch hoa màu, chủ rẫy mua đường, sữa, bột đậu nành đến cho nó bồi dưỡng. Nó là cọp cái, em đặt cho nó cái tên Gina vì trước em rất thích nữ tài tử Gina Lolobrigida.

     

Trong thời gian một tuần lễ ở lại chơi với chú, tôi đi săn với Tám Hổ hai lần và dĩ nhiên có cả Gina đi theo. Tôi vừa bắn rớt con gà rừng, Gina nhanh như chớp phóng tới ngoạm con gà mang đến cho tôi.

Ngày về, chú cho tôi một con chim trĩ, hai con két, hai lít mật ong làm quà. Chú và Gina tiễn tôi tới bến xe đạp ôm. Ði được một quãng, ngoái lại tôi thấy chú Tám cười vẫy tay và hình như Gina vẫy đuôi.

     

Ít lâu sau, có người dẫn một du khách Ðài Loan đến ngỏ ý thương luợng trả mười cây vàng để mua Gina. Tám Hổ từ chối, nhất định không bán. Chú bảo Gina là người bạn quý của gia đình và không ai lại đi bán bạn bao giờ.

     

Tám Hổ mua một máy chụp hình lấy liền hiệu Polaroid để chụp hình lưu niệm cho khách. Người dân thành phố về vùng kinh tế mới thích chụp hình đứng bên Gina để gửi tặng thân nhân như một bằng chứng đời sống nơi hoang dã. Trẻ nít thì khoái chụp hình ngồi trên lưng cọp, vuốt râu hùm...Sáng kiến chụp hình lưu niệm này đã đem lại số lợi tức đáng kể về cho gia đình Tám Hổ.

     

Một năm sau, nhân ngày giỗ Mẹ, Tám Hổ mang về nhiều quà cáp, nhưng nét mặt dường như không được vui. Tối đến, anh em quây quần trò chuyện và uống trà, Tám Hổ buồn bã kể chuyện về Gina:

     - Cách nay một tuần, con Gina đã bỏ vào rừng biệt tăm. Trước đó, Gina lộ vẻ quạu cọ, cắn xé thùng giấy, bao bố...Ban đêm nó không ngủ, đi vòng vòng, sục xạo...dường như đến thời kỳ rượng đực.

     

Một hôm tôi đang ngồi loay hoay sửa lại giàn hoa trước nhà thì nhận được bức điện tín của chú Tám gửi về với nội dung cho biết: “Gina trở về. Có bầu!”.

Tôi nhắn cho thân nhân biết tin vui, mọi người đều mừng cho Tám Hổ đồng thời thư từ liên lạc, theo dõi câu chuyện chửa đẻ của Gina, say sưa như theo dõi truyện thần thoại xứ Ba Tư ngày xưa.

     

Tết năm đó, tất cả anh em chúng tôi bao một chuyến xe lên vùng kinh tế mới Kim Biên, Ðịnh Quán thăm gia đình Tám Hổ. Cơ ngơi của chú bề thế khang trang. Căn nhà ba gian, cột tròn, đánh vẹc-ni màu hổ phách bóng loáng. Nền nhà lát gạch, có sắm máy phát điện nhỏ. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy Gina cao lớn, oai phong như một bà chúa sơn lâm chạy ra vẫy đuôi mừng, theo sau là hai chú cọp con. Tám Hổ cho biết cái cơ ngơi này được tạo dựng khang trang, phần lớn là do công lao đóng góp của ba mẹ con Gina. Hai chú cọp con, Tám Hổ đặt tên là Pelé và Maradona.

     

Tám Hổ chụp hình cho khách mệt nghỉ. Nhiều người trước đây đã chụp hình đứng chung với Gina, nay lại muốn chụp nữa để có tấm hình bồng bế Pelé và Maradona trên tay, đứng bên con Gina cao lớn, bệ vệ, oai phong.

     

Thế rồi một đêm mưa, hòa trong tiếng sấm chớp xé trời, người ta nghe như có tiếng rống của cọp đực gần phía bìa rừng. Trước đó một tuần, Tám Hổ thấy có dấu chân cọp lớn hơn dấu chân con Gina ở phía ngoài rào. Sáng hôm sau, mải lui cui pha cà phê, có khách tới xin chụp hình với mẹ con Gina. Tám Hổ ngó quanh không thấy Gina đâu, chạy sục sạo tìm kiếm, ra cửa rào thì thấy dấu chân mới của Gina, Pelé, Maradona và thêm dấu chân cọp to hơn hướng về phía rẫy và lẩn khuất phía bìa rừng. Gina dẫn hai con đi rồi! Tám Hổ nằm liệt giường, đóng cửa tiệm một tuần. 


Ðược tin, tôi viết thư an ủi chú. Ô! Sông có khúc, thì người cũng có lúc. Gina giúp đỡ chú như thế quá đủ rồi. Tuy là loài vật, Gina cũng phải lo cho hạnh phúc và đời sống riêng tư của nó nữa chứ. Môi trường thích hợp nhất với Gina là rừng xanh và bóng cây già, với đồi với suối thiên nhiên hùng vĩ, chứ đâu phải nép mình trong căn nhà ba gian của chú! Tám Hổ mở cửa tiệm buôn trở lại. Có những buổi chiều, chú ngồi yên lặng cả giờ, đôi mắt xa xăm nhìn về phía rừng, nơi Gina đã ra đi cũng như trước đây Phụng, người vợ đầu tiên mà chú rất mực yêu thương đã ra đi. Ðối với người và thú vật, tuy tình cảm lưu luyến có khác, nhưng sự ra đi nào mà chẳng để trong lòng kẻ ở lại cái cảm giác bơ vơ hụt hẫng tiếc nuối.

     

Chiều hai mươi tám tết, tôi đang đứng trên ghế, đơm mấy trái quýt ta quanh nải chuối cau và trái dưa hấu thật to trong đĩa trái cây đặt trên bàn thờ ông bà, bỏ mấy viên Aspirine vào chiếc độc bình giữ cho cành mai lâu tàn, bỗng nghe tiếng mấy đứa em cùng reo lên một lượt khi có chiếc xe đò dừng lại:

     - Tám Hổ về tới!

     Mọi người chạy ra đón Tám Hổ và phụ đem đồ vào nhà. Phương, đứa con trai lớn của tôi hỏi:

     - Túi này đựng gì mà nặng quá vậy chú Tám.

     Tám Hổ cười đáp:

     - Hai chục ký lô khô nai, nhậu mệt nghỉ!

     

Chú cho biết, mấy lúc gần đây, một tháng đôi lần, vào những tuần trăng, sáng ra mở cửa thấy một con mễn, có khi heo rừng nặng cả tạ, và mới đây là một con nai to bằng con bê còn nóng hổi nằm chết trước nhà. Có dấu chân cọp in hằn rõ nét mà Tám Hổ không bao giờ lầm lẫn, đó là dấu chân của Gina.

     

Gina đã trở về sống với rừng xanh, nhưng cứ đến tuần trăng nó lại tha mễn, nai hoặc heo rừng đến trước sân nhà làm quà cho Tám Hổ. Gina tuy là thú vật nhưng vẫn còn lưu luyến chút tình người, chứng tỏ nó không quên Tám Hổ. Còn Phụng, người vợ cũ đầu ấp tay gối ra đi biệt tăm, mặc dù hai người đã có chung với nhau một đứa con trai. Phụng và Gina, ai “người” hơn ai? Câu hỏi lẩn quẩn trong đầu đã bao lần Tám Hổ không sao tìm được câu trả lời thích đáng, mỗi chiều bên ly bia sủi bọt, mơ màng ngó về hướng bìa rừng rồi lại nhìn đứa con trai trông giống Phụng như đúc, Tám Hổ ngồi yên lặng thở dài.

     

Sau đó gia đình tôi bồng bế nhau sang Hoa Kỳ theo diện H.O, một chương trình được mệnh danh là nhân đạo.

Thân nhân, bè bạn, anh em tiễn đưa gia đình tôi ở phi trường Tân Sơn Nhất thật đông. Qua khung cửa kính, lúc máy bay vừa cất cánh, tôi chợt thấy Tám Hổ một tay vịn vai thằng Ân, tay kia đưa ngang mặt quẹt nước mắt. Hình ảnh Tám Hổ khóc, khiến tôi bồi hồi xúc động, theo tôi suốt cuộc hành trình bỏ xứ ra đi này.

     

Trăm cay nghìn đắng gặp phải khi mới đến định cư xứ người, còn gì khổ bằng khi tóc đã muối tiêu, tôi phải sắp xếp mọi thứ cho gia đình lại từ đầu. Qua thư từ liên lạc với thân nhân ở quê nhà, tôi biết Phụng đã tìm lên vùng kinh tế mới, gặp Tám Hổ để bàn về thằng Ân, đứa con trai chung của hai người. Phụng tỏ ra rất biết điều, nói năng từ tốn, không dám đòi hỏi gì. Phụng chỉ mong Tám Hổ thương thằng Ân, nghĩ đến tương lai của nó, cho thằng Ân theo Phụng sang Úc do sự bảo lãnh của gia đình Phụng. Phụng cũng xin lỗi Tám Hổ, đã từ lâu giấu Tám Hổ âm thầm lo hồ sơ xuất ngoại cho thằng Ân.

     

Sau gần một tuần suy nghĩ, tốn thật nhiều bia để trợ lực, vì tình thương thằng Ân vô bờ, Tám Hổ đồng ý cho thằng Ân sang Úc với Phụng. Tương lai nó dù sao cũng sáng sủa hơn ở vùng kinh tế mới Ðịnh Quán này, địa danh mà người đi qua chợt xác nhận vị trí bởi những hòn đá cheo leo xếp chồng lên nhau một cách hờ hững bên đường.

     

Ngày thằng Ân lên máy bay, Tám Hổ không đi tiễn, nằm nhà ngủ vùi với cơn say và nước mắt. Phụng phải nắm tay lôi thằng Ân ra phi đạo vì nó nằng nặc đòi ở lại. Ân vừa bước đi vừa mếu máo:

     - Mấy bác thấy ba con đâu không? Con thương ba con lắm! Con muốn ở lại với ba con.

     

Tôi biết Tám Hổ đứt ruột phải xa thằng Ân. Sự ra đi của nó là một tổn thất lớn nhất trong đời của Tám Hổ, còn hơn sự ra đi của Phụng mười năm trước. Cách quê hương nửa vòng trái đất, cuộc sống Mỹ đã đưa gia đình tôi vào quỹ đạo chóng mặt, riêng tôi không còn thời gian nhàn hạ nữa. Hằng tháng tôi gọi điện thoại về Việt Nam thăm hỏi gia đình, người thân. Quê hương ai xa mà không nhớ, chính điều đó mà người Việt đã đóng góp một số tiền rất lớn, lên hàng nhiều triệu trong trương mục của các hãng điện thoại viễn liên.

     

Sang Mỹ được hai năm, buổi chiều đi làm về tôi nhận được thư của Nhường – rất dầy, dán đến bốn mươi lăm ngàn đồng tem Việt Nam – đứa em trai thứ bảy được tôi ủy quyền trông nom nhà cửa. Trong thư chú chỉ nói có nửa trang về thân nhân gia đình bình yên, còn hơn mười trang nói về Tám Hổ và Gina. Ðọc thư tôi cười và nói thầm: “Chuyện Gina sang đến Mỹ rồi”.

     

Với số thịt rừng hàng tháng do Gina mang đến tặng trước sân nhà mỗi độ trăng sáng. Tám Hổ ướp nước đá và mang về bán cho các quán nhậu tận Sài Gòn, giá được tăng gấp đôi. Lấy tiền bán thịt rừng làm vốn bổ đồ về quán tạp hóa, không vốn mà Tám Hổ được bốn lời! Ðể đền ơn, nhìn trăng biết ngày Gina đến, Tám Hổ pha một thau sữa bột đậu nành đường cát trắng, đặt giữa sân chỗ Gina thường bỏ con mồi. Tám Hổ thức chờ.

     

Trăng sáng trên đỉnh đầu, Gina xuất hiện kéo lết một con nai, bước những bước nặng nề, mệt nhọc đi vào sân. Bỏ con mồi xuống, Gina gục đầu sang thau sữa uống một cách ngon lành, tiếng Gina uống sữa như nước chảy vào ống cống hẹp. Tám Hổ run run, xúc động bước ra sân và khẽ gọi:

     - Gina!

     

Gina quay lại ngoắc đuôi, bước đến cọ đầu và tai vào chân Tám Hổ một cách trìu mến, quyến luyến. Tám Hổ ngồi xuống ôm và xoa đầu, Gina liếm nhè nhẹ vào má Tám Hổ. Vài phút sau Gina bỏ đi, Tám Hổ gọi tên mấy lần, Gina bước nhanh và không ngoái đầu lại.

     

Mỗi tháng trăng sáng, Tám Hổ nôn nóng gặp Gina – không phải vì con mồi – với trạng thái tình cảm nồng nàn như trông ngóng người tình. Thế rồi một buổi chiều, trời vừa sụp tối, Tám Hổ đang cho thêm đường vào thau sữa thì thấy một xe Jeep chạy chầm chậm ngang qua quán.

     

Nửa đêm trăng sáng vằng vặc, Tám Hổ nằm ngủ trên võng, mơ màng ngoài mái hiên nhà bỗng nghe tiếng súng nổ đoàng!! đoàng!! đoàng!!...nhiều loạt đạn nổ chát chúa, cộng với tiếng rống xé trời vang lên từ phía bìa rừng. Tám Hổ choàng tỉnh chạy ra mé rào, trống ngực đập liên hồi, lo lắng, không biết có điều gì bất trắc xảy ra cho Gina.

     

Trời vừa rạng sáng, người xe đạp ôm đầu tiên chở khách từ Ðịnh Quán vào, uống cà phê và cho Tám Hổ biết có người vào đây săn cọp, bị cọp vồ, vết thương ở cổ họng và bọng đái rất nặng đang chở vào thành phố cấp cứu. Họ săn được một con heo rừng và một con cọp. Nghe đến đây Tám Hổ rụng rời! Gina đã chết rồi, Gina vì mang heo rừng về biếu Tám Hổ, do theo thói quen mà Gina phải chết.

Tám Hổ đi ra nhìn kỹ, quả thật xác Gina đang nằm như ngủ, ngoài mái hiên. Nhờ người thương lượng, Tám Hổ mua xác Gina với giá năm triệu đồng.

     

Ðường dạo này đã ban bằng và mở rộng, Tám Hổ mua một cái quan tài hàng chân nhang hạng nhất, bao nguyên chiếc xe Lam chở quan tài và xác Gina về nhà. Riêng phần Tám Hổ lo cho đám tang Gina thật chu đáo. Chờ xác Gina về tới, anh em xe đạp ôm, già trẻ, lớn bé hiếu kỳ đến chật nhà. Tám Hổ cho che tấm bạt lớn kín gần nửa sân, quan tài đặt chính giữa, lót một tấm mền bông mới nguyên xé từ trong bọc, hai mép phủ bên ngoài. Gina được lau khô máu, đặt quan tài trong tư thế nằm nghiêng, êm đềm như ngủ. Vợ chồng Tám Hổ tận dụng tất cả bàn ghế trong nhà, một số hàng xóm tự động mang tới. Cà phê, nước trà, bánh ngọt, thuốc lá khách dùng tự nhiên.

     

Mỗi người nói một câu, quang cảnh như buổi chợ đêm. Tình cờ Tám Hổ nghe mấy anh xe đạp ôm đã vô mấy xị tiết lộ cho biết vợ Tám Hổ là một trong những tay đánh số đề có hạng ở Ðịnh Quán. Tám Hổ nghe đắng ở cổ họng và tức muốn ói máu, bán buôn rất được, mỗi lần đi bổ hàng đều bị thiếu tiền, một số thất thoát không kiểm chứng được.

     

Tám Hổ chôn Gina ngay ngoài sân nơi đêm đêm trăng sáng, Gina mang thú rừng về tặng Tám Hổ. Chôn cất Gina xong, chờ cho mọi người về hết, Tám Hổ hỏi tội vợ về việc chơi số đề. Một cuộc đập lộn quyết liệt xảy ra, có người đến can mãi mới lôi hai vợ chồng ra được. Tám Hổ bị chảy máu mũi và bầm tím một bên mắt, nghe đâu vợ Tám Hổ có võ tiều. Rõ ràng số Tám Hổ là số con rệp. Một tuần sau, Tám Hổ rước thợ, mua cát đá, xi măng làm mộ cho Gina. Xây mộ xong, vật liệu còn thừa, Tám Hổ cho tráng rộng chân nền ra gần hai thước, tất cả vuông mộ và nền được tô đá mài màu xanh xám, mát lạnh. Tám Hổ đem hình Gina ở tư thế hai chân trước chống thẳng, hai chân sau quỳ bằng, đôi mắt sáng quắc nhìn thẳng về thành phố bọc kính, tấm mộ bia to bằng tấm lịch treo tường, phía dưới đục hàng chữ đen bóng.

      Phần mộ: Gina, sanh năm 1989, tử nạn ngày 6/5/1998. Hưởng thọ 9 tuổi.

     Tấm mộ bia được gắn vào mộ Gina đẹp, uy nghi và có thần lạ thường. Nền mộ của Gina bây giờ là tụ điểm của xe đạp ôm, cờ tướng, bài cào con, trẻ nít quây quần đánh đáo, bắn bi. Mấy tay mê số đề thắp nhang van vái Gina phù hộ. Vợ Tám Hổ nhìn một cách thèm thuồng nhưng không dám thắp nhang. Không biết nhờ Gina phù hộ hay mấy tay mê số đề tới số, đa số những người van vái đều trúng số đề, không nhiều thì ít. Tiếng đồn vang xa, mộ Gina suốt ngày khói hương nghi ngút.

     

Thế rồi, một buổi sáng trên chiếc xe lam bốn người phụ nữ Tàu ăn mặc sang trọng, mang theo mấy mâm bánh, trà, trái cây và một con heo quay to. Theo lời tiết lộ của bác tài xe lam, đây là gia đình A Phóng, dân kinh tế mới vượt biên đến đảo Paulo Bidong an toàn, đem phẩm vật lên trả lễ vì trước khi vượt biên, A Phóng có đến khấn trước mộ Gina. Suốt đêm đó và cả ngày hôm sau, Tám Hổ và đám xe ôm say mệt rồi ngủ, thức dậy nhậu tiếp mới hết nửa con heo quay, phần còn lại chia cho hàng xóm.

         

Thằng Ân từ bên Úc gửi thư về thăm Tám Hổ. Nó nói thương ba lắm, trong thư nó bảo Tám Hổ ráng giữ gìn sức khỏe, bốn năm nữa đúng mười tám tuổi, thằng Ân sẽ bảo lãnh Tám Hổ qua Úc sống với nó. Vợ Tám Hổ vẫn lén lút, bòn nhét đánh số đề. Tám Hổ buồn đời, hận vợ, nhớ thằng Ân nên say xỉn hoài, gia đình bắt đầu xuống dốc.

     

Có những đêm gây lộn với vợ, uống say Tám Hổ mang mền gối ra mộ Gina nằm ngủ, rượu vào cơ thể nóng bừng, nằm trên đá mài mát lạnh, Tám Hổ phê một giấc tới sáng. Khách lục tục vào uống cà phê, mặt trời lên cao gần một sào, Tám Hổ mới thức dậy mang mền gối lề mề vào nhà. Khách quen hỏi:

     - Hồi hôm đã dữ hả Tám Hổ?

     Tám Hổ trả lời giọng còn ngái ngủ:

     - Cũng đủ lãng quên đời thôi.

     

Cuối năm, mấy đứa em tôi và cả vợ Tám Hổ gửi thiệp chúc Tết kèm theo thư dài sang Mỹ, báo rõ cho tôi biết tình trạng bê bối của Tám Hổ, nhờ tôi biên thư về “giũa” Tám Hổ vì chú chỉ sợ và nghe lời mỗi một mình tôi mà thôi. Ừ! Tôi phải biên thư về rầy Tám Hổ bỏ rượu vì nó là độc dược tàn phá, hủy hoại tuổi thọ con người. Nói thì nói vậy, tôi thương số phận “con rệp” hẩm hiu của Tám Hổ lắm. Chiều ba mươi, bữa cơm rước ông bà được nấu nướng vội vã, hớp một ngụm bia, phần còn lại sau khi rót cúng, tự dưng tôi muốn nói một lời đủ chỉ mỗi một mình Tám Hổ nghe thôi:

     - Anh thương và thông cảm hoàn cảnh của chú lắm! Xin chú đừng mượn rượu để hủy hoại đời mình. Nhưng nếu thật tình như lời chú nói: “Uống rượu để lãng quên được chuyện đời!”, thì Tám Hổ ơi! Anh đây cũng xin được làm người nát rượu. 



Hồ Văn Ẩn

 

 

Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Năm 2011, trong một bài thơ đọc ở buổi tốt nghiệp tại đại học UC Davis, Mỹ, sinh viên Fong Trần đã làm nhiều người xôn xao khi anh mô tả trong đó một chặng đường dài những suy nghĩ về tính cách của cộng đồng Việt Nam. Bài thơ có tên “_Tôi ghét làm người Việt Nam”. 

Fong Trần là một nhà thơ trẻ được nhiều người biết đến, và cũng từng được báo Sacramento Bee, California giới thiệu. Phóng viên Thiên An của báo Người Việt ở hải ngoại cũng có viết một bài về sự kiện này. Fong Trần viết trong bài thơ của mình anh phải mất nhiều thời gian lắm để vượt qua nỗi cay đắng tại sao mình lại là người Việt, và rất vất vả mới lấy lại được niềm tin về chủng tộc. 

Không phải chỉ riêng Fong Trần, sự chán nản của người Việt với tính cách của người Việt ngay trong nước cũng bộc lộ ngày càng nhiều, qua việc nhìn thấy các câu chuyện trên internet, qua những điều được vẽ nên trên báo chí truyền hình… người Việt giờ đây dường như không còn mến yêu như trong ánh mắt của nhiều người, ngay cả cùng giống nòi. 

Một người bạn hay sử dụng internet nói với tôi rằng, chưa bao giờ ông thấy việc nhắc lại, đăng lại, gửi cho nhau… những hình ảnh của Việt Nam xưa nhiều như lúc này. Những bức ảnh ghi lại từng con phố, dáng người, địa danh… kèm theo những câu tấm tắc chứa đầy những điều đáng suy nghĩ “người Việt xưa của mình sao hay quá vậy”. 

Ẩn trong những câu nói đó, có lẽ là một sự nuối tiếc đăng đẳng. Những cuộc trò chuyện hoài niệm như vậy thường kéo theo những điều so sánh về thế hệ hôm nay, Việt nam hôm nay, với những nhận định muộn phiền và nhiều tranh cãi. 

Người Việt hôm nay có lẽ đã ăn ngon, mặc đẹp hơn. Nhưng trái tim giận dữ và khó lường. Trên các trang báo kể lại chuyện một người bị đâm chết chỉ vì dai dẳng đùa với hai chữ “đắng lòng”. Cũng có tin các thanh niên giết nhau chỉ vì bị “nhìn đểu”. Sự phập phồng bất an về tính cách người Việt hiện ra trong các bản tin. Những bài viết ngợi ca con người Việt Nam hiền lành, chất phác, dễ gần… như đang chỉ còn là trong kỷ niệm. 

Fong Trần nói trong bài thơ rằng anh chán ghét người Việt khi còn bé, vì người Việt hay nhậu nhẹt, người Việt hay bỏ bê con cái… và anh mất một thời gian dài để tự cứu mình không mất đi ý thức chủng tộc khi tìm ra rằng quá khứ của người Việt rất đẹp, và người Việt vẫn có những điều sâu xa níu giữ anh, trước khi anh quá ngao ngán những biểu hiện hằng ngày trong cộng đồng. Fong Trần nói vì ở quá xa quê hương nên cú sốc đó đã xảy ra trước khi anh tìm về lại được cội nguồn trong tâm thức.


Hoá ra người Việt ở đâu cũng vậy. Nhưng nếu hôm nay Fong Trần đứng trên quê hương của mình, có thể anh sẽ “sốc” trở lại, nhiều hơn nữa. Bên cạnh những thói hư tật xấu nho nhỏ mà nhà văn Vương Trí Nhàn vẫn viết ra từng phần, người Việt hôm nay, dù được ở kề bên cội nguồn của mình cũng vẫn ngày càng lạ hơn, vô tâm hơn, thậm chí là đáng ghê sợ hơn.

Sách xưa Quốc văn giáo khoa thư có dạy rằng đi ngang đám tang nhớ nhường đường và cúi chào người đã khuất. Lúc còn bé, tôi vẫn nhớ những khi mẹ tôi giằng tay tôi lại khi đi đường và nhắc nhường lối cho một đám tang. Tôi mang sự tử tế nhỏ bé đó, được khắc ghi từ thế hệ trước vào lòng mình và sửng sốt ở ngày nhìn thấy đám thanh niên đi trên xe hơi, bóp kèn đi qua một đám tang, thậm chí có người còn thò đầu ra văng tục. Tôi và những thanh niên đó chắc ít khi nào viết sai chính tả, thậm chí tiện nghi và hưởng thụ hơn thế hệ trước biết bao lần. Chính bản thân tôi cũng đã phải ngẫm nghĩ nhiều về chuyện thân phận người Việt của mình. Mẹ tôi, một người phụ nữ Sài Gòn viết đầy những lỗi chính tả và ít hiểu biết về loài người, nhưng phải chăng bà đã có một đời sống đáng tự hào hơn trong một thế hệ Việt Nam bị phai nhạt, so với tôi bây giờ?

Nhiều lần, trên mạng internet, tôi đọc thấy những câu chuyện mà mọi người kể cho nhau nghe về sự tử tế của cảnh sát, của chính quyền hay con người từ quốc gia nào đó. Những câu chuyện mang tính so sánh với hiện thực Việt Nam kèm với những lời mỉa mai đủ để thức và trằn trọc vì sao dân tộc, tổ quốc mình với 39 năm thống nhất trong hành trình Cộng sản, luôn vỗ ngực tự xưng là “ưu việt”, lại đến nông nổi này. 

Đúng là con người Việt Nam đang đổi thay, từ quần chúng ngu ngơ cho đến những người đại diện chính quyền. Thậm chí, trong rất nhiều sự kiện, công an, dân phòng, nhân viên hành chánh công quyền… đang đại diện cho một sự hỗn loạn của đất nước này. Cả thế giới đang nhìn thấy người Việt đang biến đổi dị hình qua nhiều năm tháng được giáo dục với tinh thần cộng sản chủ nghĩa. Dân Việt bị cảnh báo như kẻ xấu ở nhiều nước. Người Nhật nhìn các quan chức Việt Nam như “giòi bọ”, Charlie Pryor, một nhà sản xuất truyền thông kiêm nhà văn, viết trên trang blog của mình rằng cảnh sát giao thông là những cướp đường mạt hạng…


Cũng trên các trang báo, tôi nhìn thấy câu chuyện ở Phú Yên, với 4 công an viên đánh đập đến chết một người vô tội, mà các trang báo ghi lại rằng họ bất chấp lời van xin của nạn nhân. Lòng tôi quặn thắt khi nhìn thấy đứa con gái nhỏ hôn lên di ảnh của ba mình. Trái tim Việt Nam hồn nhiên đã rạn nứt ngay từ khi thơ dại. Cũng trên các trang báo, tôi nhìn thấy ở Gia Lai hình ảnh một người phụ nữ uất ức quỳ lạy xin hai chữ công tâm trước cửa toà án, cho một vụ án oan. Dáng người phụ nữ đó không khác gì một người mẹ của tôi, hay của bạn vậy. Những nhân viên nhà nước đó đã được giáo dục điều gì, đã thụ hưởng những gì khi tự mình cào xé hai chữ đồng bào ra khỏi tim mình và tự biến mình thành dã thú trước đồng loại?


Những chuyện như vậy dường như qua nhanh trong tâm trí người Việt, không gây được được quan tâm bằng chuyện một nữ diễn viên bước ra đường quên mặc áo lót. Người Việt còn nghĩ đến nhau trong tình đồng bào nữa không? Những thương tâm đó đã không còn chấn động lòng người nữa rồi? Nhất là ở những người có chức phận? Hay đã có một âm mưu tiêu diệt tình đồng bào nào đó, được dựng nên từ trong bóng tối, để hôm nay, người Việt không còn mến yêu. Người Việt hút máu nhau trên các ngã tư đường, người Việt được vỗ béo và được huấn luyện giỏi, để nhe nanh cắn đồng bào của mình, khi họ xuống đường chống ngoại xâm? 

Tôi đọc đâu đó, người ta tạm lý giải rằng người Việt hôm nay giận dữ vì sự phân hoá giàu nghèo đã quá lớn, hoặc đã điên cuồng vì duy vật chất. Đời sống xa hoa của một lớp người bày ra trước mắt đám đông nghẹn ngào từng bữa khó khăn đang là bóng đen tiềm ẩn, xô con người vào những hỗn loạn không thể kiềm chế. Nhưng có phải vậy không? Lịch sử người Việt đã trải qua bao khốn khó, kể cả chiến tranh, hận thù… nhưng có là lạ lùng như hôm nay?


Câu hỏi này tự tôi không thể đủ sức trả lời. Tôi chỉ muốn sẻ chia một suy nghĩ, về nước Việt và người Việt tôi mến yêu trong kiếp sống không có quyền chọn lựa. Tôi muốn nhìn thấy, muốn được ôm chặt những gì mình đã biết và thương nhớ, nhưng mọi thứ đang dường như sụp đổ quanh tôi chầm chậm, rõ ràng. Và tôi cũng muốn hỏi bạn rằng, liệu có phải người Việt hôm nay, vì lẽ gì, đã không còn đủ phẩm chất để còn được mến yêu?

 

 Tuấn Khanh's Blog

 

Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Trong cuộc sống hằng ngày có những vấn đề tưởng như rất đơn giản và dễ thực hiện, nhưng thực tế thì là không dễ nhưta tưởng...

Dễ là khi bạn có một chỗ trong sổ địa chỉ của một người, nhưng khó là khi bạn tìm được một chỗ trong trái tim của người đó.

Dễ là khi đánh giá lỗi lầm của người khác, nhưng khó là khi nhận ra sai lầm của chính mình.

Dễ là khi nói mà không suy nghĩ, nhưng khó là khi biết kiểm soát những lời nói của mình.

Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương, nhưng khó là khi hàn gắn vết thương đó.

Dễ là khi tha thứ cho người khác, nhưng khó là khi làm cho người kháctha thứ cho mình.

Dễ là khi đặt ra các nguyên tắc, nhưng khó là khi làm theo chúng.

 Dễ là khi nằm mơ hàng đêm, nhưng khó là khi chiến đấu vì một ước mơ.

Dễ là khi thể hiện chiến thắng, nhưng khó là khi nhìn nhận một thất bại.

Dễ là khi vấp phải một hòn đá và ngã, nhưng khó là khi đứng dậy và đi tiếp.

Dễ là khi hứa một điều với ai đó, nhưng khó là khi hoàn thành lời hứa đó.

Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương, nhưng khó là khi  làm cho người khác cảm thấy như thế hàng ngày.

Dễ là khi phê bình người khác, nhưng khó là khi cải thiện chính bản thân mình.

Dễ là khi để xảy ra sai lầm, nhưng khó là khi học từ những sai lầm đó.

Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi, nhưng khó là khi quan tâm đủ đến điều đó để đừng làm mất.

Dễ là khi nghĩ về một việc, nhưng khó là khi ngừng suy nghĩ và bắt đầu hành động.

Dễ là khi nghĩ xấu về người khác, nhưng khó là khi cho họ niềm tin.

Dễ là khi nhận, nhưng khó là khi cho.

Dễ là khi đọc những điều này, nhưng khó là khi bạn thực hiện nó. *

Nếu cơ hội mãi không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa đã...


Sưu tầm 

 

Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu

1. Chàng yêu nàng từ thuở nàng mười lăm mười sáu tuổi.

Cả hai lén lút đi lại, quan hệ, quậy gia đình trốn nhà đi, dọa chết nếu không được chấp nhận. Nếu quan hệ ấy kéo dài một năm: được gọi là phạm pháp, dụ dỗ trẻ vị thành niên, có nguy cơ ra tòa thụ án. Nếu mối tình ấy kéo dài ba năm: được gọi là yêu trộm, tình yêu oan trái. Nếu mối tình kéo dài sáu bảy năm: sẽ được gọi là tình yêu đích thực, vượt núi trèo đèo, qua bao khó khăn để yêu nhau.

Kết luận: Bạn làm gì không quan trọng, quan trọng là bạn làm được … bao lâu!


2. Một nàng cave, nếu ngủ với thợ thuyền, hoặc lao động ngoại tỉnh, thì bị gọi là tệ nạn xã hội. Nếu ngủ với Đại gia lừng lẫy, thì được gọi là Chân dài. Nếu ngủ với một Ngôi Sao sân cỏ hoặc màn bạc, sẽ được đàng hoàng lên báo kể chuyện “nghề nghiệp” và trưng ảnh hở da thịt giữa công chúng, không ai có ý định bắt nàng cả.

Kết luận: Bạn làm gì không quan trọng, quan trọng là bạn làm điều đó với ai!


3. Phòng tắm công cộng bỗng dưng bị chập điện gây hỏa hoạn lớn, vô số chị em chạy túa ra đường mà không kịp mặc gì. Những nàng thông minh là người không lấy tay che thân thể, mà lấy tay che… mặt !. 

Kết luận: Hãy quan tâm tới mấu chốt của mọi vấn đề!


4. Một nàng gái ế chạy tới đồn cảnh sát tố cáo: “Tôi đã cẩn thận để tiền trong áo lót, thế mà thằng cha đẹp trai tên Vinh đứng cạnh tôi ở trên xe bus đông đúc đã móc lấy mất tiền của tôi!”. Cảnh sát ngạc nhiên: “Tại sao nó có thể móc tiền được ở một vị trí “nhột nhạt” như thế, mà cô không phát hiện ra?”. Cô nàng gái ế thút thít: “Ai ngờ được là nó chỉ muốn moi tiền thôi ?” 

Kết luận: Một nhà Kinh doanh tài ba là người moi được tiền của khách hàng, trong lúc đang khiến khách hàng sung sướng ngất ngây !!!.


5.  Nhân viên vệ sinh của Công ty rất buồn phiền vì các quý ông thường lơ đãng khi vào nhà vệ sinh. Để giải quyết những vũng nước vàng khè dưới nền toilette, Công ty dán lên tường, phía trên bệ xí nam một tờ giấy: . Ngay từ ngày hôm “Không tiểu tới bô chứng tỏ bạn bị ngắn, tiểu ra ngoài bô chứng tỏ bạn bị… ủ rũ!”sau, toilette nam sạch bóng, và không còn ông nào lơ đãng nữa. 

Kết luận: Hãy chứng minh cho khách hàng thấy vấn đề một cách cụ thể.  


6.  Bố mẹ nàng mở cuộc thi tuyển 3 chàng rể. Chàng Tuân nói ngay, tài khoản cháu có một triệu đô. Đại gia Nhàn khoe, cháu có biệt thự hai triệu đô. Bố mẹ nàng có vẻ ưng lắm. Chàng Vĩnh từ tốn thưa: Cháu chả có gì cả, thưa bác !. Cháu chỉ có mỗi một đứa con, đang nằm trong bụng của con gái bác! 

Kết luận: Muốn cạnh tranh với đối thủ, cần có tay trong để giúp đỡ...

 

Sưu tầm

Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu

GS Lê Xuân Khoa


Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu

GS Nguyễn Duy Xuân


Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Karaoke xuân này con về mẹ ở đâu


Trong hồi ký “Viết Trên Gác Bút”, nhà văn Nguyễn Thụy Long (cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”), kể lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn: 

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thổ phỉ thu gom sách mang "băng đỏ" xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu... Cả chủ tiệm cũng mạng vong”…

Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn bọn thổ phỉ “băng đỏ” gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975. Không chỉ đốt sách, con người cũng bị triệt, đến tận cùng. Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư... đều bị bọn cộng phỉ Hà Nội bắt đi tù lao động khổ sai. 

Miền Nam không chỉ đột nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực mà còn chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng: phu nhân đại tá đi bán rong, vợ giáo sư buôn vỉa hè, thầy giáo mưu sinh bằng xích lô, ký giả chạy xe lam, con sĩ quan xếp hàng mua từng ký gạo…

Những hình ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975. Những câu chuyện trải dài theo ký ức và nghe (tưởng chừng) “phi thực tế” đến nỗi những thế hệ sau này khi được kể nghĩ chắc hẳn là chuyện bịa. 

Đã có cả trăm quyển sách viết về những câu chuyện này, từ đi tù lao động khổ sai đến vượt biên bỏ mạng. Nhắc lại không phải “đào xới” chuyện cũ. Để thấy rằng, “di sản” 1975 đến giờ vẫn tiếp tục còn sau 45 năm. Chính sách triệt tiêu con người sau 1975 vẫn tồn tại. Đó mới là điều cần nói.

Trong số “đối tượng” hứng chịu sự trả thù vô lý và nghiệt ngã có những trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt. Có lẽ không bao giờ có gương mặt nào trong bộ chính trị hoặc nhân vật nào trong “nội các” hiện tại của cộng phỉ Hà Nội có thể so sánh được với những bậc trí thức của VNCH về trình độ lẫn nhân cách. 

Điều đáng tiếc nhất là một số trí thức này đã phải “trả giá” cho lòng yêu nước, chỉ bởi họ quá yêu nước, khi họ chọn ở lại mà không đi nước ngoài sau 1975, với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và với nhiệt tâm đóng góp tái thiết sau chiến tranh. Quê hương, với họ, là nước nhà; là đất nước và mái nhà. 

Sinh năm 1929 tại Cần Thơ, giáo sư Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử Nhân Khoa Học, Thủ Khoa Thực Vật Học, Paris; bằng Cao Học Vạn Vật Học, Paris; bằng Thạc Sĩ/ Agrégé Vạn Vật Học; bằng Tiến Sĩ Khoa Học/ Vạn Vật Học, Paris. 

Giáo sư Hộ từng là Giám Đốc Hải Học Viện Nha Trang; Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Sài Gòn; Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo dục; Viện Trưởng sáng lập Viện Đại Học Cần Thơ… Ông cũng là Hội Viên Hội Thực Vật Học Pháp; Hội Viện Hội Tảo Học Quốc Tế; Hội Viện Hội Viện Trưởng Đại Học Quốc Tế; Cố Vấn Môi Sinh Uỷ Ban Quốc Tế Sông Mekong… 

Giáo sư Hộ chính là người vận động cho bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây vào giữa thập niên 1960. Đó là Viện Đại Học Cần Thơ, nơi canh nông trở thành môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học.

Sau 9 năm sống dưới chế độ mới, giáo sư Hộ, từ khát vọng, trở nên thất vọng. Môi trường giáo dục bị thay đổi hoàn toàn. Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc áo thô đính băng đỏ. Ý nghĩa và triết lý giáo dục khai phóng bị vất xó. 

Theo lời kể của bác sĩ Ngô Thế Vinh, năm 1977, giáo sư Hộ phải học lớp chính trị 18 tháng về ”chủ nghĩa xã hội khoa học”. Không chấp nhận chương trình giáo dục bị “đảng hóa”, giáo sư Hộ phản đối quyết liệt. 

Cuối cùng, năm 1984, khi được Chính Phủ Pháp mời sang thỉnh giảng, giáo sư Hộ quyết định ở lại Paris. Tại Pháp, ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris (thuộc hệ thống Đại Học Sorbonne), miệt mài làm việc suốt 6 năm, bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới phải nghiêng mình ngưỡng mộ.

Nhắc đến giáo sư Hộ, không thể không nhắc đến giáo sư Nguyễn Duy Xuân. Không như giáo sư Hộ, giáo sư Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần. Từng được giáo sư Hộ mời về Viện Đại Học Cần Thơ thay mình ở ghế viện trưởng, giáo sư Xuân tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại Học Vanderbilt - Hoa Kỳ. Giáo sư Xuân cũng là vị Tổng Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. 

Một bài báo trên Thanh Niên (28/4/2015) nhắc lại: “Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, trước ngày 30/4/1975, những người nào có chức sắc ở Viện Đại Học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ trưởng, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam”. 

Không chỉ không được trọng vọng, giáo sư Xuân còn bị tống đi tù, bị giam tại trại Hà Nam Ninh. Cuối cùng, năm 1986, giáo sư Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc. Nhắc lại điều này, bác sĩ Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót: 

“Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước, vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại Học Cần Thơ với nhịp độ 1966/1975 thì không biết Viện Đại Học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu”…

Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng của các trí thức như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Lê Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, bác sĩ Ngô Thế Vinh, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, ông Đỗ Văn Thảo (cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia; bị cộng sản bắt đi tù lao động khổ sai), giáo sư Vũ Quốc Thông (Khoa Trưởng Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, cũng bị đi tù)… 

Sẽ còn phát triển và tiến xa tới đâu, nếu chế độ đang cai trị – luôn dễ bị “kích động” một cách thái quá cái gọi là “tự hào dân tộc” – biết dùng hiền tài, để sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa? 

Trí thức chân chính là những người không chỉ “thể hiện” lòng yêu nước bằng ngôn từ. Họ là những người không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho sự tụt hậu nước nhà cùng sự lấn át ngoại bang. 

Trong bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày 2/2/2017, tác giả Lê Học Lãnh Vân thuật lại tâm sự của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong một lần gặp ông tại Pháp giữa thập niên 1980: 

“Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!”

Cách đây 2 năm, khi nghe giáo sư Lê Xuân Khoa vừa trải qua ca phẫu thuật ngặt nghèo, tôi đã vào viện thăm. Ông nằm giữa đống dây nhợ gắn quanh gần như kín người. Không thể nói vì miệng mũi còn vướng ống, ông ra hiệu cho cô con gái lấy tấm bảng. Ông viết, chỉ một câu, nhưng nghe nặng trịch, mỗi chữ như một nhát búa: “Tôi lo mất nước về tay Tàu rồi”. Và ông rươm rướm. 

Nằm trên giường bệnh, thập tử nhất sinh, ông chẳng nghĩ gì khác ngoài quê hương. Ông không lo gì khác ngoài cái lo “mất nước”, về sự lệ thuộc gần như toàn diện của Việt Nam với Trung Quốc. Bao nhiêu người trong hệ thống lãnh đạo Việt Nam hiện tại có thể bị đánh thức lòng tự ti dân tộc bởi nhát búa lương tri của một vị trí thức gần 90 tuổi như giáo sư Lê Xuân Khoa?

Chưa ai thống kê cho thấy hiện có bao nhiêu trí thức kiều bào vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có những người bị cấm về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “trân trọng đón chào” trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ không tin và họ có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. 

Khi những Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Chu Hảo... còn là “thành phần phản động” thì không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự “thành thật” của nhà cầm quyền đối với trí thức. Hơn 45 năm sau 1975, chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách “triệt người”, “triệt” cả chính người của họ. Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ không bao giờ có cơ hội.

Một trong những trí thức mà khi tiếp xúc, tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội của ông dành cho nước nhà. Nói chuyện với ông có cảm giác như đang ngồi trước một sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, dù ông đã gần 80 tuổi. Đó là bác sĩ Ngô Thế Vinh. 

Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền Tây, với đồng bằng sông Cửu Long, một cách bền bỉ, dù quê quán ông ở Hà Nội. Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng. Ông cũng là tác giả quyển Mekong, dòng sông nghẽn mạch… 

Việt Nam không chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch. Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng trí tuệ của các bậc trí thức minh tuệ-hùng tâm./.