Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà tác giả là ai

Qua đèo ngang chủ yếu nói về quang cảnh ở đèo Ngang thoáng đãng nhưng heo hút,đã thấp thoáng có sự sống của con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đang xa quê hương nên đứng giữa khung cảnh ấy,tác giả lại càng thấy mình cô độc lẻ loi,nỗi nhớ quê càng da diết. Trong bài thơ,hai câu thơ đặc sắc và nhiều giá trị biểu cảm nhất có lẽ là:

“ Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

Vốn được xem là một bài thơ Nôm đường luật mẫu mực. Từng câu trong bài đều tuân thủ một cách nghiêm ngặt của thơ đường luật. Hai câu thơ này cũng vậy,ta có thể thấy hai câu đối nhau rất chỉnh,vừa tả được cảnh lại vừa nói lên được tình của tác giả. “ lom khom” đối với “lác đác”. Lom khom là tư thế người,ở đây là tư thế của các chú tiều phu đang đốn củi hay cặm cụi làm việc. Lác đác tức là rất thưa thớt, cách nhau xa xa mới có. Cùng với đó “ dưới núi” đối với “ bên sông” đối nhau về vị trí địa hình,nối hai hình ảnh “ tiều vài chú” và “ chợ mấy nhà” tạo nên một chỉnh thể bức tranh khung cảnh nơi tác giả đang đứng. Dễ thấy ở đây sử dụng đảo từ, đáng lẽ ra phải là “ dưới núi lom khom vài chú tiều, bên sông lác đác mấy nhà chợ” việc tác giả đảo các tính từ “ lom khom” và “ lác đác” là có dụng ý gì? Phải chăng là để nhấn mạnh,tô đậm hơn vẻ hoang sơ tiêu điều nơi này, sự xuất hiện của con người,của hoạt động sinh hoạt là quá ít,núi có vài chú tiều nhỏ bé đốn củi,chợ nhà có nhưng cũng không thể nào đem lại cho nơi đây vẻ đông vui mà vẫn thật hoang vu. Cảnh như thế hỏi sao lòng người không sầu não cho được?

Hai câu thơ tả cảnh nhưng lại khiến ta thấy được tâm.trạng của nhà thơ. “ Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ” cảnh hiện nên tiêu điều,vắng vẻ,mang màu buồn thì chắc hẳn bà huyện Thanh Quan cũng đang trĩu nặng một nỗi ưu sầu.Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao,được viết dưới ngòi bút của kẻ lữ khách tha hương càng khiến cho người đọc cảm nhận rõ ràng những cảm xúc truyền tải ở đó.

Ai đi xa quê không nhớ về quê hương,đặc biệt khi đứng trong hoàn cảnh cảnh vật u sầu ảm đạm tại càng khiến con người ta buồn phiền. Đứng trên đèo Ngang cao lưng chừng,nhìn xuống phía dưới tiêu điều xác xơ,một mình lẻ loi cô độc,giấu sao được nỗi lòng thổn thức bồi hồi. Tuy chỉ là một bài thơ tức cảnh nhưng nó đã truyền tải một cách sâu sắc tâm tư của tác giả,câu thơ đối nhau rất chỉnh,vẹn ý thể hiện tài năng của một cây bút trong sáng tác thơ.

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà tác giả là ai

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà tác giả là ai

Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây

Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần!

Trong các bài tập làm văn của các bạn sẽ phải làm bài phân tích hai lom khom dưới núi tiều vài chú lác đác bên sông chợ mấy nhà . Dưới đây bạn hãy theo dõi bài làm của wikisecret nhé.

===>> Chủ ngữ của câu lom khom dưới núi tiều vài chú là gì

Hướng dẫn

Đề bài: Anh chị hãy Phân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ trong đoạn văn bản Qua đèo ngang: “ Lom khom dưới núi tiều vài chú. Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Một trong những tác giả nổi tiếng về các bài thơ Nôm chính là bà huyện Thanh Quan, giáo sư Nguyễn Lộc đã có một nhận xét rất đắt giá về phong cách sáng tác của bà: “Thơ bà thường viết về thiên nhiên, phần lớn là vào lúc trời chiều, gợi lên cái cảm giác vắng lặng và buồn bã. Cảnh bà miêu tả trong những bài thơ giống như những bức tranh thủy mặc, chấm phá…Hơn nữa, nói cho đúng thì cảnh trong thơ bà thực tế cũng không phải là cảnh, mà là tình. Tình cảm của bà thường là sự nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Do vậy, người ta gọi bà là nhà thơ hoài cổ. Thơ bà còn được chú ý vì một lẽ nữa, đó là nghệ thuật hết sức điêu luyện. Ở đó, niêm luật đều luật đều chặt chẽ mà không gây cảm giác gò bó, xếp đặt. Câu thơ của bà trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu….” Tiêu biểu nhất cho các sáng tác của bà là “Qua đèo Ngang”

Qua đèo ngang chủ yếu nói về quang cảnh ở đèo Ngang thoáng đãng nhưng heo hút,đã thấp thoáng có sự sống của con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đang xa quê hương nên đứng giữa khung cảnh ấy,tác giả lại càng thấy mình cô độc lẻ loi,nỗi nhớ quê càng da diết. Trong bài thơ,hai câu thơ đặc sắc và nhiều giá trị biểu cảm nhất có lẽ là:

“ Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

Vốn được xem là một bài thơ Nôm đường luật mẫu mực. Từng câu trong bài đều tuân thủ một cách nghiêm ngặt của thơ đường luật. Hai câu thơ này cũng vậy,ta có thể thấy hai câu đối nhau rất chỉnh,vừa tả được cảnh lại vừa nói lên được tình của tác giả. “ lom khom” đối với “lác đác”. Lom khom là tư thế người,ở đây là tư thế của các chú tiều phu đang đốn củi hay cặm cụi làm việc. Lác đác tức là rất thưa thớt, cách nhau xa xa mới có. Cùng với đó “ dưới núi” đối với “ bên sông” đối nhau về vị trí địa hình,nối hai hình ảnh “ tiều vài chú” và “ chợ mấy nhà” tạo nên một chỉnh thể bức tranh khung cảnh nơi tác giả đang đứng. Dễ thấy ở đây sử dụng đảo từ, đáng lẽ ra phải là “ dưới núi lom khom vài chú tiều, bên sông lác đác mấy nhà chợ” việc tác giả đảo các tính từ “ lom khom” và “ lác đác” là có dụng ý gì? Phải chăng là để nhấn mạnh,tô đậm hơn vẻ hoang sơ tiêu điều nơi này, sự xuất hiện của con người,của hoạt động sinh hoạt là quá ít,núi có vài chú tiều nhỏ bé đốn củi,chợ nhà có nhưng cũng không thể nào đem lại cho nơi đây vẻ đông vui mà vẫn thật hoang vu. Cảnh như thế hỏi sao lòng người không sầu não cho được?

Hai câu thơ tả cảnh nhưng lại khiến ta thấy được tâm.trạng của nhà thơ. “ Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ” cảnh hiện nên tiêu điều,vắng vẻ,mang màu buồn thì chắc hẳn bà huyện Thanh Quan cũng đang trĩu nặng một nỗi ưu sầu.Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao,được viết dưới ngòi bút của kẻ lữ khách tha hương càng khiến cho người đọc cảm nhận rõ ràng những cảm xúc truyền tải ở đó.

Ai đi xa quê không nhớ về quê hương,đặc biệt khi đứng trong hoàn cảnh cảnh vật u sầu ảm đạm tại càng khiến con người ta buồn phiền. Đứng trên đèo Ngang cao lưng chừng,nhìn xuống phía dưới tiêu điều xác xơ,một mình lẻ loi cô độc,giấu sao được nỗi lòng thổn thức bồi hồi. Tuy chỉ là một bài thơ tức cảnh nhưng nó đã truyền tải một cách sâu sắc tâm tư của tác giả,câu thơ đối nhau rất chỉnh,vẹn ý thể hiện tài năng của một cây bút trong sáng tác thơ.

Hai câu thơ trên có lẽ là hai câu thơ mang nhiều giá trị biểu cảm nhất trong bài, tả cảnh mà lại nói lên được tình cảm của tác giả một cách chân thành và sâu sắc nhất. Sự thành công của bài thơ cũng một phần nhờ vào sự hoàn hảo trong nội dung và hình thức từng câu thơ. Từng câu thơ đến cả bài thơ đã để lại trong lòng người đọc những giá trị nhất định.

Theo wikisecret.com

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Em hãy cho biết nội dung cùa hai câu thơ trong đề?

Các câu hỏi tương tự

Đọc kĩ văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

(Ngữ văn 7, tập 1, NXBGD)

Câu 1 (1 điểm): Nhan đề của văn bản trên là gì? Tác giả là ai? Văn bản được viết bằng thể thơ gì? Cho biết phương thức biểu đạt chính của văn bản?

Câu 2 (1 điểm): Khái quát nghệ thuật và nội dung của văn bản?

Câu 3 (0,5 điểm): Cho biết sự cảm nhận của em về cụm từ “ta với ta” trong bài thơ này với cụm từ “ta với ta” trong câu thơ “Bác đến chơi đây, ta với ta” – Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến?

Câu 4 (0,5 điểm): Tìm từ láy trong bài thơ trên. Nêu tác dụng của việc sử dụng biện pháp nghệ thuật này ?

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan . Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, , góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm…

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà tác giả là ai
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”. Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta”.

“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phứp đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi – bài thơ non nước.


Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
  • lom khom dưới núi tiều vài chú
  • ,