Luận văn thạc sĩ về thuế giá trị gia tăng

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO                 HỌC VIỆN HÀNH  CHÍNH …………/…………                                      …………/………… ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG MàSỐ: 60.34.20 QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở THÀNH PHỐ HUẾ ­ TỈNH THỪA  THIÊN HUẾ Người thực hiện: PHẠM THỊ MAI TRINH Lớp: Cao học Tài chính Ngân hàng 05B Niên khóa: 2011­2013 1
  2. THỪA THIÊN HUẾ ­ NĂM 2013 2
  3. Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG  ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. Tổng quan về  thuế  giá trị  gia tăng đối với doanh nghiệp vừa   và nhỏ 1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về  mặt vốn, lao động hay doanh thu.  Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia thành  ba loại cũng căn cứ  vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ  (micro), doanh   nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.  Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để  xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước mình. Ở Việt Nam, theo Nghị định  số  56/2009/NĐ­CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, DN vừa và nhỏ  quy định  cụ thể đối với từng ngành nghề như sau: Quy  Doanh  Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa mô nghiệp siêu    nhỏ   Số lao  Tổng  Số lao  Tổng nguồn Số lao động Khu vực động nguồn vốn động vốn I. Nông, lâm  10 người trở  20 tỷ đồng  từ trên 10  từ trên 20 tỷ  từ trên 200  nghiệp và  xuống  trở xuống người đến  đồng đến 100 người đến  thủy sản 200 người tỷ đồng 300 người II. Công  10 người trở  20 tỷ đồng  từ trên 10  từ trên 20 tỷ  từ trên 200  nghiệp và  xuống  trở xuống người đến  đồng đến 100 người đến  xây dựng  200 người tỷ đồng 300 người III. Thương  10 người trở  10 tỷ đồng  từ trên 10  từ trên 10 tỷ  từ trên 50  mại và dịch  xuống  trở xuống người đến  đồng đến 50  người đến  vụ  50 người tỷ đồng 100 người 3
  4. 1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ Những ưu điểm của DNVVN: ­ Tổ chức sản xuất, quản lý linh hoạt, gọn nhẹ, các quyết định quản lý  thực hiện nhanh nên dễ thích nghi trước những thay đổi của thị trường đặc  biệt là nhu cầu nhỏ, lẽ, có tính địa phương. Góp phần tiết kiệm chi phí quản  lý doanh nghiệp. ­ Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi nhanh, điều đó tạo sức  hấp dẫn trong đầu tư sản xuất kinh doanh, mọi thành phần kinh tế vào khu  vực này. Hạn chế của DNVVN: ­ Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như  bổ sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng  sản xuất kinh doanh. ­ Cơ sở vật chất kỹ thuật ,trình độ công nghệ kỹ thuật thường yếu  kém, lạc hậu,  trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức  năng còn hạn chế. Đa số các chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ  bản,đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường,về quản trị kinh doanh,  về văn bản pháp luật họ quản lý bằng kinh nghiệm và thực tiễn là chủ yếu. 1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 4
  5. Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra tổng sản phẩm trong nước. Nhờ doanh  nghiệp vừa và nhỏ mà của cải vật chất và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân   tăng nhanh cả  về  số  lượng lẫn chất lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ  phong phú thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Doanh nghiệp  vừa và nhỏ  khai thác, sử  dụng các nguồn tài nguyên.  Tham gia các hoạt động xã hội, môi trường bảo đảm sự  phát triển bền vững  của nền kinh tế. Doanh nghiệp  vừa và nhỏ  giữ  vị  trí quan trọng trong việc đóng góp  nguồn thu cho NSNN. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò góp phần chuyển  dịch cơ  cấu kinh tế, có vai trò chủ  chốt giải quyết việc làm cho người lao   động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sẽ  tạo nhiều cơ  hội tăng việc làm, thu hút lao động nâng cao thu nhập của dân  cư  góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Các doanh  nghiệp vừa và nhỏ phát triển sẽ tạo điều kiện phát huy lợi thế của mỗi vùng  để phát triển các ngành, các khu công nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan thuế  nuôi dưỡng, khai thác nguồn thu. [1] 1.1.2. Những nội dung cơ bản về Thuế 1.1.2.1. Một số khái niệm Trong cuốn từ điển kinh tế  của hai tác giả  người Anh Chrisopher Pass   và Bryan Lowes, đứng trên giác độ  đối tượng chịu thuế  đã cho rằng  : "Thuế  là một biện pháp của chính phủ  đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận   được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về   hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".  Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong  cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế  Mỹ, dựa trên cơ  sở  đối giá như  sau: "thuế  là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao   bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà   trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả,   khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi   phạm pháp luật". [2] Trên giác độ  phân phối thu nhập, người ta định nghĩa:  Thuế  là hình   thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân   5
  6. nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu   cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.  Trên giác độ  người nộp thuế,  thuế  được coi là khoản đóng góp bắt   buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo   luật định để  đáp  ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng,   nhiệm vụ Nhà nước. Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà   nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực   tư  sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế  – xã hội của   Nhà nước.      Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác  nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn  đang được áp dụng phổ  biến, đặc biệt trong cơ chế  kinh tế thị trường, điển  hình là khái niệm về  thuế  của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính   công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái   niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau: Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có   nghĩa vụ  bắt buộc phải thực hiện theo luật  đối với nhà nước; không   mang tính chất đối khoản, không hoàn trả  trực tiếp cho người nộp thuế   và dùng để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng.  1.1.2.2. Đặc điểm của thuế Thứ nhất : Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc,  thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế  bằng hiện vật đã tồn tại từ  thời xa xưa hoặc khác với chế  độ  giao nộp sản  phẩm trong nền kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là   sự  khác biệt cơ bản và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế  trong các nền kinh tế khác. Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá  bằng tiền đã làm cho thuế phát triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản  thuế  bằng tiền đã góp phần thúc đẩy sự  phát triển của nền kinh tế  thị trường  bằng cách đòi hỏi người nộp thuế  trong trường hợp không có tiền phải đổi   những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để thanh toán nợ thuế. 6
  7. Thứ hai : Thuế luôn gắn liền với quyền lực nhà nước  Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ  cơ  bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp ­ Đạo luật gốc của  một quốc gia. Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối trả thuế,  cũng không có quyền tự  ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà  chỉ  có quyền chấp hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế  nào cố  tình không   chấp hành sẽ  bị  cơ  quan nhà nước có thẩm quyền xử  lý vi phạm theo quy  định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo   luật định.  Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các   hình thức động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác. Thứ ba : Thuế luôn gắn liền với thu nhập Đặc điểm này thể  hiện rõ nội dung kinh tế  của thuế. Nhà nước thực   hiện thu thuế  thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu  nhập quốc dân, mà kết quả  của nó là một bộ  phận thu nhập của người nộp   thuế  được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ  một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.  Với đặc điểm này, thuế  không giống như  các hình thức huy động tài  chính tự  nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng  chỉ áp dụng đối với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật. Thứ  tư  : Thuế  mang tính chất không hoàn trả  trực tiếp và được sử  dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng Tính chất không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trên các khía cạnh: Một là, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất   đối giá. Về mặt pháp lý, thuế không là giá cả của dịch vụ  cung cấp. Vì vậy,  người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách   viện cớ là Nhà nước sử dụng tiền thuế không có hiệu quả.  Hai là, Các khoản thuế  đã nộp cho Nhà nước sẽ  không được dùng  phục vụ  trực tiếp cho người n ộp thu ế, nghĩa là mức thuế  mà các tầng lớp   trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ  người nộp thuế  thừa hưởng những d ịch v ụ và hàng hoá công cộng do Nhà  nước cung cấp. Đặc điểm này của thuế  giúp ta phân định rõ thuế  với các  7
  8. khoản phí, lệ phí và giá cả.  1.1.2.3. Vai trò 1.1.2.3.1. Thuế  là công cụ tập trung chủ  yếu nguồn thu cho Ngân sách  Nhà nước Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu   từ  nội bộ  nền kinh tế  quốc dân. Thuế  là công cụ  quan trọng nhất để  phân  phối lại các thu nhập theo đường lối xây dựng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta.  Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ  nước ngoài đã giảm nhiều,   kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có  trả”, thuế  phải là công cụ  quan trọng góp phần tích cực giảm bội chi Ngân  sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế  ­ xã hội, chuẩn bị  điều kiện và tiền đề  cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu,   bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh. Với nền kinh tế nhiều   thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh  tế. Thuế  phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn   thu nhập trong xã hội .  Mục tiêu của Quốc hội đề ra trong những năm tới là động viên về thuế  chiếm khoảng 20 đến 25% GDP và  ổn định mức đóng góp về  thuế. Mức  động viên trên đây là phù hợp với khả năng kinh tế, phù hợp với sức đóng góp  của nhân dân, bảo đảm phần lớn các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà   nước, nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế theo hướng  có lợi cho đất nước. Nhà nước ta luôn coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan   trọng nhất của Ngân sách nhà nước.  1.1.2.3.2. Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc  thuế, việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế  suất,  chế  độ  miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế  dựa trên cơ  sở  hạch toán   kế toán đầy đủ, chính xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các  tầng lớp xã hội thể  hiện trên hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ  những hoạt  động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm   những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế  sản xuất, hạn chế  tiêu dùng theo   hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư  8
  9. phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần   kinh tế  cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Thuế  góp phần khuyến khích  khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài   để phát triển kinh tế hàng hoá, không ngừng nâng cao khả  năng tích lũy, đáp   ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước.   Thuế thúc  đẩy mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng  hoá, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu  cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá.  1.1.2.3.3. Thuế  là công cụ  để  điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng  xã hội trong phân phối Hệ  thống thuế   được  áp dụng thống nhất giữa  các ngành nghề, các  thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng  và bình đẳng trong làm nghĩa vụ  và quyền lợi. Sự  bình đẳng và công bằng  được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các  tổ  chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế  cùng hoạt động trong một   lĩnh vực, bảo đảm sự  công bằng và bình đẳng về  quyền lợi và nghĩa vụ  với   mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất cứ đối tượng nào.  Thuế  kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ  thuật, đầu tư  vốn,  đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng . 1.1.2.3.4. Thuế còn là công cụ  để  kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản   xuất kinh doanh  Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ  chức thực hiện thuế  trong thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các Luật thuế đã được ban   hành, cơ  quan thuế  và các cơ  quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm   vững số  lượng, quy mô các cơ  sở  sản xuất kinh doanh, ngành nghề  và lĩnh   vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà   cơ  quan thuế  sẽ  phát hiện những việc làm sai trái, vi phạm Luật của các cá   nhân, các đơn vị  sản xuất kinh doanh, hoặc phát hiện ra những khó khăn mà   họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, do công tác quản   lý thu thuế  mà có thể  kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hàng,   hoạt động của các cơ sở kinh tế đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về  mọi mặt của đời sống kinh tế ­ xã hội. 9
  10. 1.1.2.4. Chính sách thuế và phân loại thuế 1.1.2.4.1. Khái niệm Chính sách thuế  là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh   vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định. Chính sách thuế  thể  hiện đường lối và phương hướng động viên thu  nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế  được   thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế,   ban hành các loại thuế và các  ưu đãi về  thuế  trong từng giai đoạn phát triển   nhất định. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế  được thực hiện bằng cách  thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế. Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng  có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của  Nhà nước trong từng thời kỳ. 1.1.2.4.2. Phân loại thuế Để  thu được thuế, Nhà nước đã thể  chế  hoá yêu cầu bắt buộc đóng  góp nguồn lực tài chính cho NSNN đối với các thể nhân, pháp nhân. Nhà nước   quy định nguyên tắc chung về nghĩa vụ nộp thuế của các thể nhân, pháp nhân  trong Hiến pháp ­ văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước. Hệ  thống chính  sách thuế  của Việt Nam hiện nay bao gồm:  Thuế  giá trị  gia tăng, thuế  tiêu   thụ  đặc biệt, thuế  xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,   thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên,thuế bảo   vệ môi trường,  thuế nhà đất, thuế môn bài, … Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ  thể  của mỗi nước mà hệ  thống   pháp luật thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng   và quản lý hệ  thống thuế, việc sắp xếp các Luật thuế  có cùng tính chất  thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.  Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế ­   xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào   cơ  sở, mục đích phân định, thông thường thuế  được phân loại theo các tiêu   thức sau + Dựa theo phương thức đánh thuế Tùy thuộc vào phương thức đánh thuế là đánh một cách trực tiếp hay gián  10
  11. tiếp vào thu nhập, người ta chia hệ  thống thuế thành hai loại: thuế  trực thu và   thuế gián thu. Thuế  trực thu:  Là loại thuế  đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản   của người nộp thuế. Thuế  trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế  theo   luật quy định đồng nhất với người phải chịu thuế. Loại thuế trực thu thường   bao gồm các sắc thuế đánh trên thu nhập của tổ chức và cá nhân.  Thuế  gián thu: Là loại thuế  không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài  sản của người nộp thuế  mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả  hàng   hoá, dịch vụ. Người tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ đó là người chịu loại   thuế này.  + Phân theo cơ sở tính thuế Nếu căn cứ vào cơ sở tính thuế để phân loại thuế thì có thể chia thành   ba loại như sau: Thuế  thu nhập:  Bao gồm các loại thuế  có cơ  sở  đánh thuế  là thu nhập  kiếm được. Thu nhập kiếm được là toàn bộ số tiền và lợi ích vật chất mà một tổ  chức, cá nhân nhận được trong kỳ tính thuế, kể cả các khoản chi tiêu đã bỏ ra để có  được thu nhập.  Thuế  tiêu dùng:  Là loại thuế  đánh vào hàng hoá, dịch vụ  khi diễn ra   việc mua bán. Điều đáng chú ý đầu tiên là thuế tiêu dùng không khác thuế thu  nhập nhiều như người ta tưởng. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể  hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị  gia tăng... Thuế tài sản: Thuế tài sản có thể được đánh trong trường hợp chuyển   giao, cho không tài sản (ví dụ  như  cho, tặng hoặc thừa kế), hoặc dưới hình  thức bán (ví dụ  như  nhượng bán bất động sản hoặc động sản), hoặc trong  trường hợp có sự  hiện hữu của tài sản (như  trường hợp đánh thuế  vào các  khối tài sản lớn). + Phân theo phạm vi điều chỉnh Căn cứ  vào phạm vi điều chỉnh của thuế  người ta có thể  chia các sắc   thuế thành hai loại:  Thuế tổng hợp:  Là loại thuế đánh vào tất cả các thành phần của cơ sở  11
  12. đánh thuế  mà không có trường hợp ngoại lệ, không có miễn, giảm thuế. Thuế  tổng hợp đánh trên toàn bộ tài sản, các nghiệp vụ phát sinh hoặc tổng thu nhập  trong một lần duy nhất.   Thuế có lựa chọn hay thuế có phân tích: Là loại thuế chỉ đánh dựa trên  cơ sở các yếu tố của một tài sản hoặc một nghiệp vụ độc lập, hoặc một loại   thu nhập. Thuế  thu nhập cá nhân Việt Nam có thể  coi là một sắc thuế  điển  hình của loại này. + Phân theo đặc trưng của biểu thuế Thuế đánh theo tỷ lệ %: Là loại thuế đánh theo hình thức áp dụng một  tỷ lệ hoặc phần trăm, hoặc lần trên các cơ sở  tính thuế. Đây là hình thức áp   dụng phổ biến trong các loại thuế hiện nay.  Thuế  đánh trên mức tuyệt đối: Là loại thuế  được xác định bằng cách  ấn định một số thu bằng tiền trên một đơn vị vật chất như trọng lượng, khối   lượng, diện tích... của đối tượng chịu thuế. Trong thực tế cách tính thuế  này  ít phổ biến. Trong hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay có thể lấy ví   dụ  là thuế  tiêu thụ  đặc biệt đánh trên xe ô tô cũ vừa được Bộ  Tài chính ban  hành. + Phân theo thẩm quyền  ban hành chính sách thuế. Tùy theo thẩm quyền thu thuế được quy định với từng loại thuế, người  ta phân thuế thành hai loại: Thuế trung ương và thuế địa phương. Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa  phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ  trợ, bổ  sung cho nhau   nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp  luật thuế.  1.1.3. Thuế giá trị gia tăng 1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thuế giá trị gia tăng 1.1.3.1.1. Khái niệm về thuế giá trị gia tăng Thuế  giá trị  gia tăng(GTGT) là thuế  tính trên khoản giá trị  tăng thêm   của hàng hoá, dịch vụ  phát sinh trong quá trình từ  sản xuất, lưu thông đến   tiêu dùng (Điều 1­ Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9). Giá trị gia tăng = Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra – Giá trị hàng hoá, dịch  vụ mua vào tương ứng. 12
  13. GTGT của HHDV  Thuế suất thuế GTGT của  Số thuế GTGT = X chịu thuế HHDV đó 1.1.3.1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng ­ Thuế  GTGT là một loại thuế  gián thu đánh vào đối tượng tiêu dùng  HHDV chịu thuế  GTGT (vì vậy thuế  GTGT là một loại thuế  tiêu dùng, đối  với cơ  sở  kinh doanh thì đây là loại thuế  gián thu), là một yếu tố  cấu thành   trong giá cả  hàng hoá và dịch vụ, là khoản thu được cộng thêm vào giá bán  của người cung cấp, hay nói cách khác giá cả HHDV mà người tiêu dùng mua  bao gồm cả thuế GTGT. Tính gián thu của thuế GTGT biểu hiện: ng ười mua HHDV là người   phải trả  khoản thuế  này thông qua giá mua của HHDV. Như  vậy, ng ười   mua không trực tiếp nộp thuế  GTGT vào NSNN mà trả  thuế  thông qua giá   thanh toán hàng hoá và dịch vụ  cho người bán, trong đó bao gồm cả  khoản   thuế   GTGT   mà   người   mua   trả.   Người   bán   thực   hiện   nộp   khoản   thuế  GTGT phải nộp “đã được người mua trả” vào NSNN. Thuế  GTGT đánh vào GTGT của HHDV phát sinh  ở  các giai đoạn từ  sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng HHDV đó. Tổng số thuế GTGT thu được ở  tất cả  các giai đoạn sẽ  bằng số  thuế  GTGT tính trên giá bán cho người tiêu   dùng cuối cùng.Thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế  doanh  thu là “thuế chồng lên thuế”. ­Thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao. Tính trung lập biểu   hiện ở hai khía cạnh:  Thứ  nhất, thuế  GTGT không chịu  ảnh hưởng bởi kết quả  kinh doanh   của người nộp thuế, do người nộp thuế  chỉ  là người “thay mặt” người tiêu  dùng nộp hộ  khoản thuế  này vào NSNN. Do vậy thuế  GTGT không phải là  yếu tố  của chi phí sản xuất mà chỉ  đơn thuần là một khoản thu được cộng  thêm vào giá bán của người cung cấp HHDV.  Thứ  hai, thuế  GTGT không bị   ảnh hưởng bởi quá trình tổ  chức và phân  chia quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế  ở tất cả các giai đoạn luôn  bằng số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều   hay ít. 13
  14. Về  phạm vi đánh thuế: thuế  GTGT chỉ  đánh vào hoạt động tiêu dùng  diễn ra trong phạm vi lãnh thỗ, không đánh vào hành vi tiêu dùng ngoài lãnh   thổ. Đặc điểm này tạo ra sự  công bằng trong những giao dịch quốc tế  thông  qua việc không thu thuế đối với HHDV xuất khẩu và đánh thuế đối với HHDV   nhập khẩu. 1.1.3.1.3. Vai trò của thuế giá trị gia tăng Thuế là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản  lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Nền kinh tế  nước ta đang trong quá trình vận  hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, do đó thuế GTGT có  vai trò rất quan trọng và được thể hiện như sau: Một là, thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân  tiêu dùng HHDV chịu thuế GTGT. Hai là, thuế GTGT là khoản thu quan trọng của Ngân sách nhà nước. Thuế GTGT tạo nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà  nước. Ở  Việt  Nam, thuế  GTGT  hiện nay chiếm tỷ  trọng khoảng 20­23%   trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí.  Thuế GTGT không trùng lắp, do thuế GTGT chỉ tính vào giá trị tăng thêm  của HHDV qua các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng, không tính vào phần giá  trị đã chịu thuế GTGT ở các khâu trước, thuế đã nộp ở các khâu trước được tính  khấu trừ ở khâu sau nên khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn đầu tư phát   triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất,  nâng cao hiệu quả kinh tế, phù hợp với phát triển kinh tế thị trường. Ba là, khuyến khích xuất khẩu HHDV thông qua áp dụng thuế suất 0%,  doanh nghiệp xuất khẩu HHDV không những không phải chịu thuế  GTGT  ở  khâu xuất khẩu mà còn được hoàn toàn bộ  số  thuế  đầu vào đã nộp  ở  khâu   trước nên có tác dụng giảm chi phí, hạ  giá thành sản phẩm, tăng khả  năng   cạnh tranh về giá HHDV xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Bốn là, thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn,  chứng từ và thanh toán qua ngân hàng vì việc tính thuế đầu ra, khấu trừ thuế  GTGT đầu vào quy định rõ phải căn cứ trên hoá đơn mua vào, bán ra; hàng hoá   xuất khẩu mua bán phải thanh toán qua ngân hàng, đối với kinh doanh trong  14
  15. nước thì chứng từ  thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ  mua vào, trừ  hàng hoá, dịch vụ  mua từng lần có giá trị  dưới hai mươi triệu  đồng. Tóm lại: Thuế  GTGT là một sắc thuế  tiên tiến; việc áp dụng thuế  GTGT khắc phục nhược điểm của thuế  doanh thu trước đây là “thuế  chồng  lên thuế”; thuế GTGT có nhiều ưu điểm, tác dụng tích cực tới khuyến khích  sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăng cường đầu tư, tăng thu cho NSNN.  1.1.3.2. Nội dung cơ bản Luật thuế giá trị gia tăng Luật thuế GTGT gồm một số nội dung cơ bản như sau: Phạm vi áp dụng thuế giá trị gia tăng ­ Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng Đối tượng chịu thuế  GTGT là hàng hoá, dịch vụ  dùng cho sản xuất,  kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ  mua của   tổ chức, cá nhân ở nước ngoài). ­ Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng  Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch   vụ  chịu thuế  GTGT  ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ  chức kinh doanh (gọi chung là cơ  sở kinh doanh) và tổ  chức, cá nhân khác có  nhập khẩu hàng hoá, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (gọi chung   là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.[3]  ­ Đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng Gồm 25 loại hàng hoá dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.   Cơ  sở  kinh doanh không được khấu trừ  và hoàn thuế  giá trị  gia tăng đầu vào   của hàng hoá, dịch vụ  sử  dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ  thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng này mà phải tính vào nguyên  giá tài sản cố định, giá trị nguyên vật liệu hoặc chi phí kinh doanh.[3]  Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế ­ Giá tính thuế giá trị gia tăng + Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá   bán chưa có thuế giá trị gia tăng; đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ  đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế giá trị gia  tăng; đối với hàng hóa chịu thuế bảo vệ môi trường là giá bán đã có thuế bảo   15
  16. vệ môi trường nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng; đối với hàng hóa chịu thuế  tiêu thụ  đặc biệt và thuế  bảo vệ  môi trường là giá bán đã có thuế  tiêu thụ  đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng; Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế  nhập khẩu (nếu có), cộng với thuế  tiêu thụ  đặc biệt (nếu có) và cộng với   thuế bảo vệ môi trường (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo   quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu + Thời điểm để  xác định giá tính thuế  GTGT là thời điểm cơ  sở  kinh   doanh đã chuyển giao quyền sở  hữu, quyền sử  dụng hàng hoá, dịch vụ  (đối   với trường hợp xây dựng, lắp đặt là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công  trình, hạng mục công trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành), không  phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.[3]  ­ Thuế suất thuế giá trị gia tăng Thuế suất hiện nay Việt nam đang áp dụng các mức 0%; 5%; 10%. ­ Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng Luật thuế GTGT hiện hành quy định việc tính thuế GTGT phải nộp có   thể  thực   hiện bằng  một   trong  2 phương  pháp:  phương   pháp khấu  trừ  và  phương pháp tính trực tiếp trên GTGT .[3] * Phương pháp khấu trừ thuế .    Phương pháp khấu trừ  thuế  áp dụng đối với cơ  sở  kinh doanh thực   hiện đầy đủ  chế  độ  kế  toán, hoá đơn, chứng từ  theo quy định của pháp luật  về kế toán, hoá đơn, chứng từ bao gồm: ­ Cơ  sở  kinh doanh có doanh thu hàng năm từ  bán hàng hoá, cung  ứng  dịch vụ từ một tỷ đồng trở lên, trừ hộ, cá nhân kinh doanh; ­ Cơ sở kinh doanh đăng ký tự  nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ  thuế, trừ hộ, cá nhân kinh doanh. Số thuế  Thuế GTGT  Thuế GTGT đầu vào  = ­ GTGT phải nộp đầu ra được khấu trừ Trong đó:    + Thuế GTGT đầu ra  bằng  (=)  Giá tính thuế  của hàng  hoá, dịch vụ   nhân  (x)  Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó 16
  17. + Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số  thuế GTGT ghi  trên hoá đơn GTGT mua hàng dùng cho SXKD hàng hóa, dịch vụ  chịu thuế  GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu. * Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT .   ­ Doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng  doanh thu một tỷ  đồng, trừ  trường hợp đăng ký tự  nguyện áp dụng phương  pháp khấu trừ thuế ­ Hộ, cá nhân kinh doanh; ­ Tổ  chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ  sở  thường trú  tại Việt Nam nhưng có doanh thu phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy   đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ, trừ tổ chức, cá nhân nước ngoài cung   cấp hàng hóa, dịch vụ để  tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển  và khai thác dầu, khí nộp thuế  theo phương pháp khấu trừ  do bên Việt Nam  khấu trừ nộp thay; ­ Tổ chức kinh tế khác, trừ trường hợp đăng ký nộp thuế  theo phương  pháp khấu trừ thuế  Số  thuế  giá trị  gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên  giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu áp dụng như sau:     + Phân phối, cung cấp hàng hoá: 1%; + Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 5%; + Sản xuất, vận tải, dịch vụ  có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao   thầu nguyên vật liệu: 3%; + Hoạt động kinh doanh khác: 2%. Hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa, dịch vụ Cơ sở kinh doanh khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ phải thực hiện chế độ  hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. ­ Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp   khấu trừ  thuế  khi bán hàng hoá, cung  ứng dịch vụ  chịu thuế  GTGT phải sử  dụng hoá đơn GTGT (trừ  trường hợp được dùng hoá đơn, chứng từ  đặc thù  ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT). 17
  18. ­ Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT khi  bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn bán hàng. ­ Khi lập hoá đơn, cơ  sở  kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố  quy định trên hoá đơn. Đối với hoá đơn GTGT phải ghi rõ giá bán chưa có  thuế  GTGT, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế  GTGT, tổng giá  thanh toán đã có thuế; nếu không ghi tách riêng giá bán chưa có thuế  và thuế  GTGT, chỉ  ghi chung giá thanh toán thì thuế  GTGT đầu ra phải tính trên giá  thanh toán.[3] 1.2. Quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1. Quản lý thuế 1.2.1.1.  Khái niệm  Quản lý thuế  là quá trình tổ  chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện   những quy định trong Luật thuế  nhằm huy động đầy đủ  những khoản tiền   thuế vào ngân sách nhà nước theo luật định .[4] Dưới góc độ chính trị: quản lý được hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng   dưới góc độ  xã hội: quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ  huy. Dù dưới góc   độ nào đi chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên tắc đã được  định sẵn và nhằm đạt được hiệu quả  của việc quản lý, tức là mục đích của   quản lý.  Quản lý thuế là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan thuế Nhà  nước các cấp trên cơ  sở  của luật và để  thi hành luật nhằm thực hiện chức   năng tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động thu thuế  của Nhà nước. Nói  cách khác, quản lý thuế chính là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp ­  được thực hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính Nhà nước  trong quan hệ chấp hành, điều hành. Quản lý thuế là hoạt động đảm bảo thực   thi chính sách thuế  trong thực tế, trong đó vai trò của cơ  quan thuế  rất quan  trọng khi tác động lên ĐTNT để  đảm bảo tính hiệu lực – đáp ứng mục đích  thu cho NSNN. Quản lý thuế chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan  thuế Nhà nước: Tổng cục Thuế ở Trung ương, Cục thuế, Chi cục Thuế ở các  địa phương. [5] 1.2.1.2. Nội dung quản lý thuế  18
  19. Để huy động các khoản thu vào NS, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết,  nhà nước cần ban hành các chính sách thuế  và để  đưa được các chính sách  thuế  vào cuộc sống thì phải có hệ  thống quản lý thuế  để  tổ  chức thực thi   chính sách thuế. Giữa hai nội dung này có mối quan hệ  hữu cơ  với nhau, hệ  thống chính sách thuế  là cơ  sở  tiền đề  để  hình thành hệ  thống quản lý thuế  và ngược lại hệ thống QLT là nơi tổ chức thực hiện chính cách thuế. Theo Điều 3 Luật quản lý thuế  được Quốc hội nước CHXHCNVN   thông qua tại  kỳ họp thứ 10, khoá XI, nội dung quản lý thuế gồm : ­ Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.  ­ Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.  ­ Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.  ­ Quản lý thông tin về người nộp thuế. ­ Kiểm tra thuế, thanh tra thuế. ­ Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. ­ Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.  ­ Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.  Các quy định của Luật QLT đảm bảo tính pháp lý cho việc thực hiện  cơ  chế  tự  khai, tự  tính, tự  nộp thuế  và tự  chịu trách nhiệm trước pháp luật  của NNT. Cơ quan thuế thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp   thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế. [6] Các nội dung trên được cụ  thể hoá bằng các quy trình cụ  thể để  quản  lý thuế  theo chức năng.  Hiện nay ngành thuế  đã triển khai thực hiện 5 quy   trình quản lý thuế  : Đăng ký, kê khai thuế; Kiểm tra thanh tra; Miễn giảm  thuế; Hoàn thuế; Quản lý nợ thuế. Việc quy định rõ vai trò, nhiệm vụ, chức năng của từng Đội thuế trong  công tác QLT thuế  đối với các DN nhằm hạn chế các tiêu cực cũng như  tạo   điều kiện thuận lợi nhất cho DN thực hiện đúng chính sách pháp luật thuế,  tuy nhiên  "Hệ thống mẫu biểu, văn bản, các quy trình hướng dẫn chưa đồng   nhất, chưa kịp thời dẫn đến khó khăn trong việc hướng dẫn, hổ trợ NNT thực   hiện tốt nghĩa vụ với NSNN". [7] 1.2.2. Những nội dung về quản lý thuế giá trị gia tăng 1.2.2.1. Đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT 19
  20. + Đăng ký nộp thuế ­ Cơ  sở  kinh doanh, kể  cả các công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh,  cửa hàng trực thuộc cơ  sở  kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế  với Cục  thuế  hoặc Chi cục thuế  nếu là cá nhân kinh doanh về  địa điểm kinh doanh,  ngành nghề  kinh doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộp thuế  và các chỉ  tiêu liên   quan khác theo mẫu đăng ký nộp thuế và hướng dẫn của cơ quan thuế.[8] Đối với cơ sở  mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế  chậm nhất là  10 ngày kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh  doanh và cấp con dấu; trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng  ký kinh doanh nhưng có hoạt động kinh doanh, cơ  sở  phải đăng ký nộp thuế  trước khi kinh doanh. Các cơ sở đã đăng ký nộp thuế nếu có thay đổi ngành nghề kinh doanh,   chuyển trụ sở kinh doanh sang các địa điểm khác, sáp nhập, giải thể, phá sản,  hợp nhất, chia, tách hay thành lập các Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh,   cửa hàng mới... phải đăng ký bổ  sung với cơ  quan thuế  chậm nhất là 5 ngày  trước khi có sự thay đổi đó.[8] ­ Cơ  sở  hoạt động sản xuất, kinh doanh có trụ  sở  chính  ở  một địa  phương (tỉnh, thành phố  trực thuộc Trung  ương) nhưng có cơ  sở  hạch toán  phụ thuộc, như Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng trực tiếp bán  hàng ở một địa phương khác thì cơ sở kinh doanh phải đăng ký nộp thuế  với  cơ quan thuế nơi đóng trụ sở, các cơ sở hạch toán phụ thuộc cũng phải đăng  ký nộp thuế  GTGT với cơ  quan thuế địa phương nơi cơ  sở  phụ  thuộc đóng  trụ sở. Riêng các tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn, khảo sát, thiết kế  hoặc các hợp đồng tư  vấn, dịch vụ  đăng ký, kê khai, nộp thuế  với cơ  quan   thuế địa phương nơi đóng trụ sở.[8] ­ Cơ sở xây dựng, lắp đặt phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa  phương nơi đóng trụ  sở. Trường hợp xây dựng, lắp đặt các công trình  ở  địa   phương khác (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) do các cơ sở phụ thuộc   không có tư cách pháp nhân như tổ, đội, ban quản lý công trình thực hiện... thì  cơ  sở  xây dựng đồng thời phải đăng ký, kê khai, nộp thuế  với cơ  quan thuế  địa phương nơi xây dựng công trình.[8] ­ Cơ  sở  thực hiện cơ  chế  khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo  20


Page 2

YOMEDIA

Đề tài trình bày về các nội dung: Cơ sở khoa học về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Huế - tỉnh Thừa Thiên Huế, một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Huế. Mời các bạn cùng tham khảo.

15-03-2017 411 70

Download

Luận văn thạc sĩ về thuế giá trị gia tăng

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.