Lúc ăn kem với Nhạc lên mới của Thích Ánh được miêu ta thế nào

Sử thi Ê đê (người bản tộc gọi là Khan) ra đời trong điều kiện xã hội loài người có những biến động lớn về những cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là những cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành đất sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.

Sử thi của người Ê đê tuy có sự khác biệt nhất định về nội dung của từng tác phẩm nhưng nhìn chung, các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất - thế giới mà con người và thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.

Hát kể sử thi của người Ê đê là một sinh hoạt văn hoá đặc biệt, trong đó người hát kể có một vị trí quan trọng trong việc gìn giữ, sáng tạo và diễn xướng, nhất là trong điều kiện chưa có chữ viết, các tác phẩm chỉ lưu truyền bằng phương thức truyền miệng. Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, mưu trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp về sức mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong muốn chinh phục thiên nhiên để cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động bình thường giản dị của buôn làng…

Người Ê đê gọi người hát kể sử thi là pô khan. Pô nghĩa là thầy, là chủ, là người thạo việc; khan là chuyện xưa. Người hát kể sử thi có bề dày tri thức dân gian để có thể diễn giải một cách tinh tế những nội dung và sắc thái của sử thi đó. Họ là những người có giọng hát vang, khoẻ, biết nhiều làn điệu của thể loại hát nói (lời nói vần - klei duê) để vận dụng cho phù hợp với các hoàn cảnh, các nhân vật trong tác phẩm, biết cách “diễn” bằng động tác, bằng nét mặt như diễn viên trên sân khấu.

Để có được khả năng như vậy, người diễn xướng sử thi Ê đê ngoài năng khiếu bẩm sinh, còn được trao truyền trong dòng tộc. Ngoài ra, họ còn học, ghi nhớ những tác phẩm sử thi khác từ những người hát kể giỏi trong buôn, trong vùng. Không những thế, trong quá trình diễn xướng sử thi, người hát kể còn sáng tạo thêm những đoạn, chương cho phù hợp với dân tộc, với địa phương, nhất là phù hợp với phong tục tập quán của cộng đồng mình.

Ngôn ngữ diễn xướng sử thi gồm lời và nhạc kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn và thống nhất. Về phần lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê). Từ klei duê, trong khi diễn xướng họ còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… khi kể tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ, vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần với nhau. Đây cũng là một yếu tố quan trọng để nghệ nhân có thể thuộc được tác phẩm dài hàng vạn câu.

Sử thi Ê đê được thể hiện bằng hình thức hát kể và kể lời, người hát kể có thể dùng cả cử chỉ, vẻ mặt để diễn tả tính cách, hành động của nhân vật, có lúc thể hiện theo cách kể chuyện nhập tâm vào vai từng nhân vật một cách tự nhiên, giọng kể lúc trầm, lúc bổng, khi vui vẻ, khi tức giận tùy tâm trạng nhân vật, theo từng tình huống, để sáng tạo, lôgic trong việc kết nối các sự kiện của nội dung cốt truyện. Sử thi thường được hát kể vào buổi tối, sau một ngày làm việc mệt nhọc, trong những dịp lễ hội của buôn làng... Người hát kể sử thi tùy theo điều kiện sức khỏe có thể ngồi hoặc nằm để thể hiện, người nghe cũng vậy họ có thể ngồi hoặc nằm xung quanh để theo dõi, sự hưởng ứng hay thái độ biểu cảm của người nghe sẽ tạo không khí và nguồn cảm hứng để người kể có thể diễn xướng sử thi một cách trọn vẹn hơn.

Vào mùa lễ hội, lúc nông nhàn, khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 3, cuối mùa khô chuẩn bị bước vào mùa mưa, là “mùa ăn năm uống tháng” của người Ê đê. Đây là thời điểm tác phẩm sử thi lại được các pô khan kể lại cho dân làng nghe trong không gian phù hợp…

* Trong không gian nhà dài:

Trong những ngày diễn ra các nghi lễ như: lễ mừng gia đình ông chủ buôn thu được 100 gùi lúa trong một mùa rẫy, lễ cưới, lễ mừng thọ, lễ rước Kpan…, gia chủ mời bà con gần xa đến dự (người đến dự mang vài lon gạo, con gà, ché rượu, quả bí, mớ rau… gọi là quà mừng lễ). Nghi lễ được tổ chức ở gian Gah (gian khách) ngôi nhà dài.

Khoảng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng, khi nghi lễ cúng thần linh đã cơ bản hoàn thành, gia chủ mời người hát kể khan cho mọi người nghe ngay tại gian Gah, bên bếp lửa, bên ché rượu cần (một hoặc nhiều ché tuỳ quy mô của cuộc lễ). Người hát kể ngồi ngay bên bếp lửa và bắt đầu câu chuyện. Người nghe đông, nên có khi phải ngồi ra ngoài phần sân của nhà dài ở ngoài trời. Men rượu, ở một chừng mực nhất định, tạo sự hưng phấn cho cả người hát kể lẫn người nghe.

Trước khi bắt đầu, người hát kể cầm cần rượu hít một hơi dài để xin phép tổ tiên, ông bà cho con cháu được hát sử thi. Sau đó, pô khan mời rượu chủ buôn và người già trong buôn, rồi nằm trên chiếc chiếu hoa trải sát bên bếp lửa gần cửa sổ hướng Đông, một tay gác trên trán, mắt như vô giác (lúc nhắm lúc mở) để tập trung trí nhớ nhằm thể hiện thật đầy đủ và sinh động.. Người nghe thường ngồi theo thứ tự: đàn ông (người già, trung niên) ngồi trên ghế kpan; nam thanh niên, trẻ nhỏ ngồi xung quanh người kể; đàn bà, con gái ngồi ở phần cuối phía trong gian Gah. Vào những đêm mùa khô, trời lạnh, bếp ở gian khách được đốt lửa ấm áp. Mọi người ngồi im lặng, nghe tiếng kể khan trầm bổng ngân vang các tác phẩm như: Dam Săn, Dăm Ji, Xing Nhã. Người Ê đê có câu nói thể hiện lòng yêu thích nghe kể khan của mình: “Buổi tối mọi người ngồi nghe kể khan như thế nào, buổi sáng vẫn thấy họ ngồi nguyên như thế”, vì lời khan càng kể càng hấp dẫn, càng kể càng thu hút người nghe.

* Trong lễ bỏ mả:

Lễ bỏ mả (lui m’sat) là một nghi lễ quan trọng của người Ê đê, thường được tổ chức vào khoảng tháng 3.Trước đây, lễ thường được tổ chức từ 3 đến 7 ngày tại khu nhà mồ của người quá cố, nằm trong khu nghĩa địa của buôn làng. Theo phong tục của người Ê đê, sau khi chôn cất người quá cố được ba năm, tang chủ tổ chức lễ bỏ mả cho người quá cố. Trước khi làm lễ bỏ mả, họ làm lại nhà mồ cho người quá cố, đồng thời chuẩn bị trâu, bò, heo gà, lúa nếp, lúa gạo và hàng trăm ché rượu mời bà con gần xa về dự. Trong những ngày diễn ra lễ bỏ mả, người đến dự và gia đình tang chủ đều ăn ở ngay tại khu nhà mồ. Buổi tối, sau khi làm các nghi lễ cúng thần linh và người quá cố, các đội chiêng, đội múa vừa đánh chiêng, vừa hát múa xung quanh nhà mồ (theo chiều ngược kim đồng hồ). Về khuya, già trẻ, gái trai thuộc buôn làng người quá cố và các buôn làng gần xa trong vùng quay quần quanh đống lửa bên cạnh nhà mồ nghe kể khan. Số lượt người nghe đông gấp nhiều lần khi kể khan tại gian Gah nhà dài. Lễ bỏ mả được tổ chức bao nhiêu ngày, gia chủ mời người hát kể khan bấy nhiêu đêm tại khu nhà mồ.

* Tại chòi rẫy:

Từ khi phát rẫy, gieo hạt, làm cỏ cho đến khi lúa chín rộ, các gia đình người Ê đê đều ra ở chòi rẫy để chăm sóc cây lúa và đuổi chim thú về phá rẫy. Đêm đến, những gia đình có chòi rẫy gần nhau thường kéo đến một chòi rẫy có người biết hát kể để nghe kể sử thi. Không gian kể sử thi trong chòi rẫy tuy không lớn và người nghe cũng không nhiều, nhưng yên tĩnh. Người kể thoải mái để hát, người nghe nhưng chăm chú thưởng thức lời khan, nên dễ nhập tâm, dễ nhớ, dễ lưu truyền. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa giúp người dân có giờ phút thư giãn, tái tạo sức lao động.

Với cốt truyện dài, kết nối các sự kiện một cách linh hoạt, sáng tạo, sinh động, tạo sự thống nhất về nội dung và có sức lôi cuốn người nghe, vì thế, sử thi có thể được hát kể nhiều ngày đêm mới kết thúc. Điểm khác biệt của hình thức hát kể sử thi là sự tài tình khéo léo của người kể, tạo nên sức lối cuốn hấp dẫn đối với người nghe, đưa cả người kể lẫn người nghe hòa nhập và cuộc sống ở thời đại của các nhân vật. Người kể đắm chìm, hóa thân vào cuộc đời của từng nhân vật, người nghe cũng hồi hộp dõi theo từng hành động, từng biến cố thăng trầm lẫn vinh quang hạnh phúc trong từng tuyến nhân vật. Các nhân vật sử thi không chỉ xuất hiện trong lời kể mà dường như đang sống cùng cộng đồng, hòa cùng với không gian của núi rừng, buôn làng, có lúc tưởng chừng như đối thoại cùng người nghe. Chính vì vậy, sử thi có sức lôi cuốn, hấp dẫn người nghe đến kỳ lạ, giúp họ quên đi những nhọc nhằn của cuộc sống lao động thường ngày, đồng thời tiếp thêm nghị lực để họ vững tin vào tương lai, tránh xa những điều tầm thường, vươn lên sống tốt đẹp hơn.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc, Khan (Sử thi) của người Ê đê đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014./.

PHẦN 1:


1. Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình. Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.


Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Gia đình Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai, ba gái, có một bà rất thông minh, giỏi thơ văn, người đương thời gọi là Năng văn nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết, bà nhất định không chịu tái giá, bỏ nhà đi tu, được Minh Mệnh ban cho danh hiệu “Trinh tiết khả phong”.


Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ. Khi nhà Nguyễn đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định, Nguyễn Công trứ hăm hở đi học đi thi. Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan. Bấy giờ ông đã bốn mươi mốt tuổi.


Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ hình (năm 1826). Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An... Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.


Trong một câu đối làm khoảng cuối đời, Nguyễn Công Trứ tổng kết cuộc đời mình:


“Cũng may thay công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ nào quạt, nào mão nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình trong hội kiếm cung, khắp trời Nam bể Bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ; Thôi quyết hẳn cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai năm bảy cậu, này cờ này kiệu, này rượu này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn”.


2. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một người say mê hoạt động. Lúc nào trong tâm khảm nhà thơ cũng hằn lên một câu hỏi lớn:


“Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông”.


Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ đã dâng lên nhà vua Gia Long bản “ Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:


“Giữ lòng trung ái,

Chăm đạo dâu con,

Phát triển nông trang,

Trừ bỏ dị đoan,

Sửa đổi phong tục,

Thanh thải tham tàn,

Tiến cử tài đức,

Giữ nghiêm luật lệ”.


Về sau, khi đỗ đạt, ra làm quan, “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, Nguyễn Công Trứ lao vào công việc một cách hăng say, không hề quản ngại gian lao, vất vả.

Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm hai việc đáng chú ý hơn cả là khai hoang và giúp triều đình “an dân”.

Về “an dân”, Nguyễn Công Trứ có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, của Lê Duy Phương ở Thanh Hoá, hay cuộc tiễu phạt ở Quảng Yên... Nguyễn Công Trứ hết sức chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân. Ông đề nghị “đặt nhà học” cho con em nhân dân được học hành... “đặt xã thương” ở các làng để quản lý thóc gạo, “khi nào giá cao thì bán, giá hạ thì mua, gặp lúc thuỷ hạn bất thường, đem thóc chiếu cấp cho từng người, năm nào được mùa sẽ theo số đã cấp thu lại để chứa trữ” (Sớ nói về năm quy ước trong làng; năm 1829). Ông tố cáo “cái hại cường hào làm cho đến nỗi con mất cha, vợ mất chồng, tính mệnh phải thiệt hại, tài sản phải sạch không” và đề nghị triều đình “trị tội rất nặng” (Sớ nói về tệ cường hào; năm 1828), v.v...


Trong những việc ông làm, có ích lợi thiết thực và to lớn cho nhân dân hơn cả là công cuộc khẩn hoang. Ông tấu xin nhà nước cấp tiền gạo để chiêu tập dân nghèo khai khẩn. Ông hướng dẫn nông dân khai phá một vùng đất đai rộng lớn ven biển thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thái Bình, lập nên hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Ông chỉ huy việc khai khẩn vùng đất ven bờ biển tỉnh Quảng Yên, Hải Dương... Nhân dân các vùng khai hoang rất biết ơn ông. Họ lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống. Trong đền kỷ niệm công cuộc dinh điền ở làng Đông Quách, huyện Tiền Hải, Thái Bình, có câu đối về công lao của ông rất cảm động:


“Đặc địa sinh từ, Đông Ấp nhất bách niên kỷ niệm,

Kình thiên trụ thạch, Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao”


(Trên đất dựng sinh từ, làng Đông Ấp trăm năm kỷ niệm,

Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thủa sánh cao)


Nguyễn  Công Trứ là một ông quan rất thanh liêm, chính trực. Thuở bé nghèo xác, lớn lên thi đỗ, làm quan, về già Nguyễn Công Trứ vẫn sống đạm bạc. ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN ghi lại câu chuyện Nguyễn Công Trứ không chịu nhận tiền hối lộ của Phạm Nguyên Trung, Ngô Huy Phác, bắt giải cả hai người cùng tang vật sang Nam Định để xét xử về tội đi hối lộ. Thời gian làm Dinh điền sứ, ông nhận tiền gạo của nhà nước cấp cho dân nghèo làm vốn, số dư thừa Nguyễn Công Trứ đều đem nộp lại cho công khố. Cuối đời, Nguyễn Công Trứ còn làm một việc rất cảm động. Năm 1858, khi nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, ông đã tám mươi tuổi, nhà thơ vẫn dâng sớ lên vua, tha thiết xin được tòng quân đánh giặc: “ Dù tôi như cái màn, cái lọng rách cũng không nỡ tự nản chí. Còn chút hơi thở nào xin lên đường ngay”. Nguyễn Công Trứ mất ngày 14 tháng 11 năm Tự Đức thứ 12. Ông thọ 81 tuổi.


Suốt cuộc đời bốn phần năm thế kỷ của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm nhiều việc, thâm tâm ông bao giờ cũng đinh ninh rằng việc mình làm là “vì dân vì nước”:


“ Một mình để vì dân vì nước,

Túi kinh luân, từ trước để nghìn sau...”


Phần II:


Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam. Thơ văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Nhìn tổng quát thơ văn Nguyễn Công Trứ tập trung vào ba chủ đề chính:

 1. Những bài thơ xoay quanh chí nam nhi.

 2. Những bài thơ xoay quanh cảnh nghèo và thế thái nhân tình.

 3. Những bài thơ xoay quanh triết lý hưởng lạc.


1.    1. Chí nam nhi:


Đây chính là lý tưởng sống của nhà thơ Nguyễn Công Trứ khi còn đầu xanh tuổi trẻ. Nói về sự tồn tại của mình trong cuộc đời, Nguyễn Công Trứ viết:


“Thiên phú ngô, địa tái ngô

Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý”


Con người sinh ra là sự “ hữu ý” của trời đất. Nguyễn Công Trứ không thể “tiêu lưng ba vạn sáu” được. Ông đặt vấn đề sống ở đời phải làm việc có ích:


“ Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phái có danh gì với núi sông”


Nguyễn Công Trứ hay nói đến công danh:


“ Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,

Cái công danh là cái nợ lần”.

.v.v...


Quan niệm của ông sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để...làm việc “trí quân trạch dân”; công danh trong Nguyễn Công Trứ thường gắn liền quan niệm trung hiếu, quân thân:


“Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.

Trong bài thơ LUẬN KẺ SỸ ông nói rõ.

“ Đem quách cả sở tồn làm sở dụng,

Trong lăng miếu ra tài lương đống.

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương,

Sĩ làm cho bách thế lưu phương,

Trước là sĩ sau là khanh tướng”


Nguyễn Công Trứ đằng sau ý thức về bổn phận, vai trò cá nhân cũng được đề cao:


“ Cũng có lúc mưa tuôn sóng vỗ,

Chí những toan xẻ núi lấp sông

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”


Nguyễn Công Trứ cũng là một hồn thơ lạc quan, bay bổng. Sống trong hoàn cảnh nghèo khổ đến cay đắng mà ông vẫn tin tưởng:


“ Còn trời, còn đất, còn non nước,

Có lẽ đâu ta mãi thế này”


Đi thi nhiều lần không đậu, ông vẫn không một chút bi quan, chán nản:


“ Đã từng tắm gội ơn mưa móc,

Cũng phải xênh xang hội gió mây.

Hãy quyết phen này xem thử đã,

Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay.”

Ông tự tin ở mình, tự động viên: “Có tầng gian hiểm mình càng trí”. Ông viết lời châm ngôn: “Hữu chí sự cánh thành”.

Ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là nó khẳng định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã hội. Những vần thơ đầy lạc quan tin tưởng của nhà thơ vang lên trong không khí xã hội triều Nguyễn, cho dù có hạn chế như thế nào, nó vẫn có ý nghĩa.


2. Cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình


Nguyễn Công Trứ là một người theo tinh thần Nho giáo tích cực, một ông quan thanh liêm, rất chú ý đến vấn đề nhân sinh và xã hội. Văn Thơ Nguyễn Công Trứ có ghi lại tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sỹ đương thời:


“ Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,

Đầu kèo mọt tạc vẻ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng

Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.

Đầu giường tre mối dũi quanh co,

Góc tường đất trùn lên lố nhố,

Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,

Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó,

Trong cũi lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,

Đầu giàn chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.

Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, quân tử ăn chẳng cần no,

Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,

đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ...”

(Hàn Nho phong vị phú)


Có lúc nhiều chua chát:


“ Nói phô nghe cũng giỏi trai,

Vì nỗi không tiền hoá dở ngài ”


Hay:


“ Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha cóc!

Trời để tao sống mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ bò ”


Trong cái nhìn khỏe khoắn, Nguyễn Công Trứ không muốn nói nhiều đến cái xấu, cái tiêu cực. Ông giải thích “người giỏi thường nghèo” hay “ vốn hễ anh hùng mới có nghèo ”. Nhưng thiện chí của nhà thơ không được bù đắp lại, cuộc sống tàn bạo của xã hội vẫn liên tiếp tấn công ông, và phải mất một thời gian, nhà thơ mới nhìn ra được cái “thế thái nhân tình” của thời buổi ấy. Cảm xúc của nhà thơ về chủ đề này thấm đượm cái sâu sắc của một con người từng trải. Ông thấm thía tình cảnh của những người lép vế trong xã hội:


“ Ăn ở sao cho trải sự đời

Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.

Nghe như chọc ruột tai làm điếc,

Giận đã căm gan miệng mỉm cười ”

Ông thấy rõ đạo đức của bọn giàu có.

“ Khôn khéo chẳng qua thằng có của,

Yêu vì đâu đến đứa không nhà ”...


Quan lại trong triều cũng bất tài, hại người:


“Tuổi tác càng già càng xốp xáp,

Ruột gan chẳng có có gai chông.”


Ông nhận thức thế thái nhân tình qua nhận thức về vai trò của đồng tiền, nó là thước đo mọi giá trị tình cảm, quan hệ, đánh đổ cả nhân nghĩa:


“ Tiền tài hai chữ son khuyên ngược,

Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi ”.


Trong bài VỊNH TIỀN, nhà thơ hình dung ra đồng tiền như tóm thâu cả trời đất:


“ Đủ vuông tròn tượng đất tượng trời,

Khẳm hoạ phúc nguy yên tử hoạt ”


Tác hại của đồng tiền ghê gớm:


“... Đương om sòm chớp giật sấm ran,

Nghe xóc xách lại gió hoà mưa ngọt...”


Tiếng thơ của Nguyễn Công Trứ về đề tài này có yếu tố nhân dân.


Phần III:


Thơ Nguyễn Công Trứ đi cùng sự nghiệp kinh bang tế thế của ông. Nhà thơ có nói:


“ Dở dang với rượu khôn từ chén

Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời”

Nhưng thực thì thơ Nguyễn Công Trứ nhiều câu đến mộc mạc, nôm na mà vẫn gây xúc động ...“ Trong thơ văn Nguyễn Công Trứ có một cái gì chưa từng có trong văn chương Việt Nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đội cảm tử. Cái thể ca trù nhờ phép thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với những sự diễn xuất hùng mạnh... Tôi nhớ như có lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều, thật không phải là một lời nói vu vơ...” (Nhà thơ Lưu Trọng Lư).

Trong lịch sử văn học dân tộc, hiếm có một nhà thơ nào như Nguyễn Công Trứ vừa viết được những câu hát nói hào hùng:


“ Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,

Nợ tang bồng vay trả trả vay.

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ”


Đồng thời cũng viết được những câu hết sức khoan thai, có âm hưởng réo rắt:


“ Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương,

Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước.

Sực nhớ kẻ quày ngọn giáo vịnh câu thơ thuở trước,

Nghĩ sự đời mà cám nỗi phù du.”


Nhiều bài thơ của ông dường như được cấu tạo bằng thành nhữ, tục ngữ, và nhà thơ cũng tư duy theo cách tư duy của thành ngữ, tục ngữ:


“ Một lưng, một vốc, kém chi mô,

Mới biết chanh chua khế cũng chua;

Đã chắc bữa trưa chừa bữa tối,

Mà tham con diếc tiếc con rô...”


Đặc biệt trong bài Hàn Nho Phong vị Phú, những yếu tố ngôn ngữ nhân dân được nhà thơ sử dụng một cách tổng hợp hết sức linh hoạt.


Nguyễn Công Trứ là nhân vật kiệt xuất của Việt Nam thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX

Tin này, chưa cập nhật nội dung để máy đọc. Mời bạn quay lại sau.