Mô hình kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển

Academia.edu no longer supports Internet Explorer.

To browse Academia.edu and the wider internet faster and more securely, please take a few seconds to upgrade your browser.

Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu có thể phân thành hai “nhánh”. Một nhánh là kinh tế thị trường “Xã hội phúc lợi“ và “kinh tế thị trường thương lượng”. Ở Thụy Điển tồn tại kinh tế thị trường “ xã hội phúc lợi” từ những năm 30 của thế kỷ XX. Với các đặc trưng cơ bản:

– Ra đời trong bối cảnh của nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai và là kết quả của sự thỏa hiệp giữa 4 trường phái lớn theo đuổi những chủ trương khác nhau về khôi phục nền kinh tế nước Đức thời hậu chiến.

– Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh tế thị trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở thị trường một cách hợp lý giữa các mặt kinh tế – xã hội và chính trị.

– Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ và coi luật pháp, nhà nước, đạo đức,… không hề kém quan trọng hơn so với các chính sách kinh tế, tài chính.

– Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội.

2.3.1.2. Chính sách thực hiện.

Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho mọi người“ của phái Xã hội-Dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển P.A.Hanson; xuất phát từ mục tiêu của “Chủ nghĩa xã hội chức năng“, với khẩu hiệu: ”bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ“. Trong mô hình này, sự phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế thị trường tư nhân. Thực hiện mô hình này, Thụy Điển đã đạt được những thành công nhất định, đưa Thụy Điển từ một trong những nước nghèo nhất Châu Âu trở thành một trong những quốc gia giàu nhất Châu lục này. Trong nền kinh tế, kinh doanh lớn tuy nằm trong tay một nhóm nhỏ, nhưng sự phân hóa giàu – nghèo đần dần được thu hẹp.

Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở thành gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội “nuốt“ mất 1/3 GNP; sự thiếu hụt ngân sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao. Do đó, từ giữa những năm 70 đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng trở nên trì trệ. Do vậy, sau gần 50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường “Xã hội phùc lợi“ với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính bình quân, đến những năm 90, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát lên trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm thuế thu nhập từ 72% xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi; tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ. Nghĩa là một số đặc trưng của mô hình đã bị loại bỏ.

2.3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

2.3.2.1. Khái niệm.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990.

Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW.

2.3.2.2. Đặc trưng.

Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau:

  • Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng…) được nhà nước quản lý. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
  • Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
  • Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công.
  • Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.
  • Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
  • Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
  • Chủ trương khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế bằng việc thành lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty 90, tổng công ty 91. Tuy nhiên, hiện không ít doanh nghiệp nhà nước lớn này hoạt động không hiệu quả hoặc thua lỗ triền miên, dẫn tới yêu cầu phải tái cấu trúc và cổ phần hóa các doanhnghiệp này.
  • Với việc thực hiện chính sách này, nước ta tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Việc chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 75%, dân số và việc làm luôn là vấn đề gay gắt, đời sống của một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn, nhất là khu vực nông thôn và miền núi, cho đến nay, về cơ bản, cơ cấu kinh tế vẫn theo sự phân bổ tự nhiên, chưa có các giải pháp có hiệu quả để sớm hình thành các ngành, vùng kinh tế trọng điểm. Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống giao thông xuống cấp. Nền tài chính quốc gia còn yếu và thất thoát, lãng phí lớn. Khả năng kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. Ngân sách còn mất cân đối lớn giữa thu và chi. Kinh tế quốc dân chậm được đổi mới, kinh tế tư nhân chưa được tháo gỡ những trở ngại cho sự phát triển, mặt khác thiếu hướng dẫn, quản lý. Tình trạng rối loạn trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng như sự yếu kém và tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước khá nghiêm trọng. Phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc trong hoàn cảnh tranh tối, tranh sáng.

2.3.2.3. Chính sách thực hiện.

Cho đến nay, thị trường nước ta vẫn là thị trường sơ khai, còn những rối loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có thị trường hàng hoá, còn thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động chưa hoặc mới ở dạng manh nha). thị trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn tách biệt. Thị trường sức lao động có phần chưa thoát khỏi chế độ biên chế, hoặc tự phát. Thị trường thiếu và còn những rối loạn, cùng với tình trạng luật lệ Nhà nước vừa thiếu vừa bất hợp lý: còn những gò bó và cả những sơ hở, thủ tục hành chính phiền hà, nạn tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho thị trường phát triển. Trong khi đó, để đánh giá mức độ phát triển của bất kì nền kinh tế nào, trước hết người ta nhìn vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Tuy đã có định hướng để xây dựng một thị trường đồng bộ, nhưng trên thực tế chuyển biến rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu nhất quán về chính sách, thể chế, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đầu tư, thương mại, tỷ giá, lãi suất. Chúng ta chủ trương xây dựng một thị trường thống nhất, thông suốt, nhanh chóng hoà nhập với thị trường thế giới, song nhiều thủ tục hành chính phiền hà còn gây khá nhiều cản trở. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trước hết là do hậu quả của cơ chế cũ để lại, từ những quan niệm giản đơn trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cho đến việc duy ý chí trong việc hoạch định chính sách kinh tế, đặt ý chí chủ quan vào đời sống kinh tế – xã hội không phù hợp với lợi ích của quần chúng. Tuy có những bước tiến, nhưng về cơ bản các chính sách kinh tế vĩ mô chưa theo kịp sự phát triển.

Mặt khác phải thừa nhận một thực tế, đây là một sự chuyển đổi khá phức tạp, là quá trình mà độ dài phải tính bằng thập kỉ mới có thể đi vào quỹ đạo.

Do đó không tránh khỏi thời kì đầu phải chấp nhận tình trạng thị trường thiếu, rối loạn, tiêu cực, trong khi các nhân tố có sứ mệnh tạo trật tự là hệ thống ngân hàng, tài chính, bộ máy nhà nước, doanh nghiệp lớn còn yếu kém và tiêu cực, còn đang ở bước thích nghi.

1Mô hình nhà nước phúc lợiCHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÚC LỢI1.1: Một số khái niệm cơ bản1.1.1: An sinh xã hội và phúc lợi xã hộiAn sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừabảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thườngvề kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vậtchất và tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội khôngchỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới vềquyền con người, mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quátrình phát triển.1.1.2: Nhà nước phúc lợiNhà nước phúc lợi là một mô hình chính phủ, theo đó nhà nước đóng một vai tròquan trọng trong việc tạo nên và bảo vệ công ăn việc làm và đảm bảo một nền ansinh xã hội cao cho công dân của mình.Có ba cách giải thích chính về khái niệm nhà nước phúc lợi:- Việc nhà nước cung cấp các dịch vụ phúc lợi.- Mô hình lý tưởng trong đó nhà nước đóng vai trò chịu trách nhiệm chính cho toànbộ phúc lợi của các công dân. Trách nhiệm ở đây mang tính toàn diện vì tất cả mọimặt của phúc lợi xã hội đều được cân nhắc; một "mạng lưới an sinh xã hội" khôngthôi là chưa đủ hay chỉ có các tiêu chuẩn tối thiểu cũng là chưa đủ. Đây là vấn đềphổ quát vì phúc lợi bao trùm mọi đối tượng như là một quyền thiết yếu.- Việc cung cấp phúc lợi trong xã hội. Trong nhiều "nhà nước phúc lợi", nhất là ởchâu Âu, phúc lợi không phải chỉ do nhà nước cung cấp mà là do một nỗ lực kếthợp giữa các dịch vụ của chính phủ, của các nhà có tâm huyết, của các nhữngngười tự nguyện và của các cá nhân độc lập. Người cung cấp các dịch vụ và lợi íchnày có thể là chính quyền trung ương hay địa phương hoặc do công ty hoặc tổ chứcnhà nước thực hiện hay do các công ty tư nhân hay các hội từ thiện hay các hìnhthức khác của các tổ chức phi lợi nhuận.1.2: Mục tiêu và vai trò của Nhà nước phúc lợi2Mô hình nhà nước phúc lợi- Nhà nước phúc lợi hướng tới thiết lập và củng cố các tiêu chuẩn quốc gia về cácquyền lợi xã hội. Các quyền lợi đó được thực hiện thông qua hàng loạt chươngtrình khác nhau, nhưng chủ yếu thông qua an sinh xã hội.- Nhà nước phúc lợi thực hiện các vai trò quan trọng như:+ Duy trì sự hỗ trợ chống nghèo đói+ Hướng tới mục tiêu công bằng thông qua việc thu hẹp sự chênh lệch về mứcsống giữa các nhóm người trong xã hội+ Duy trì an sinh xã hội chống lại rủi ro do tai nạn, ốm đau, mất sức lao độngsớm, thất nghiệp, tuổi già, nhu cầu chăm sóc khi bị tổn thất+ Nâng cao sự phồn thịnh và chăm lo cho việc phân phối công bằng.- Nhà nước phúc lợi đòi hỏi phải có sự can thiệp sâu của nhà nước vào các chứcnăng xã hội1.3: Các mô hình nhà nước phúc lợiCho tới đầu những năm 2000, trên thế giới có 4 mô hình an sinh xã hội. Chúngkhác nhau theo nguyên tắc “Ai nhận được gì, bao giờ và như thế nào?”. Việc chọnmô hình nào, chiến lược nào để theo đuổi sẽ mang lại kết quả rất khác nhau. Mỗimô hình có tên gọi cùng những đặc điểm chính như sau:1) Mô hình an sinh cơ bản (basic security): theo đuổi chiến lược bình đẳng đơngiản bằng cách cung cấp mức độ phúc lợi giống nhau cho tất cả mọi người, bất kểgiàu hay nghèo. Mô hình này được thực thi ở Mỹ, Anh, Canada, Hà Lan và ThụySĩ.2) Mô hình phúc lợi có mục tiêu (targeted model) thì chọn một nguyên tắc thườngđược gọi là Robin Hood (theo tên một anh hùng trong lịch sử nước Anh) làmphương châm chỉ đạo: lấy của người giàu chia cho người nghèo. Nó đánh thuếngười giàu để chia cho những ai bị coi là nghèo; để được hưởng phúc lợi, ngườinghèo phải qua kiểm tra điều kiện và khả năng vật chất.Ôstrâylia là nơi thực thi môhình này.3Mô hình nhà nước phúc lợi3) Mô hình nghiệp đoàn chủ nghĩa (corporatist) thì tái phân phối các nguồn lựcchủyếu bên trong nội bộ các nghiệp đoàn khác nhau, do người ta thuộc các nghềnghiệp khác nhau trên thị trường lao động. Mô hình này thịnh hành ở đức và Pháp.4) Cuối cùng, mô hình mang tính bao quát (encompassing) thì dựa vào bảo hiểm xãhội mang tính phổ quát, nghĩa là dành cho mọi người, nhưng có liên quan đến sứckiếm tiền trước đó. Thực chất nó hỗ trợ tất cả mọi người, nhưng cung cấp nhiềuhơn cho những ai ngay từ đầu vốn có thu nhập cao, và vì thế nó theo nguyên tắccủa Mathew (một nhân vật trong sách Phúc âm) chứ không phải nguyên tắc RobinHood. Mô hình này được thực hiện ở các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lanvà Na Uy.Tất nhiên, các mô hình nêu trên chỉ là sự phân loại hình lý tưởng theo nghĩa nóchỉtồn tại dưới dạng thuần khiết, tách bạch rạch ròi trong tư duy nghiên cứu để dễ làmviệc. Còn trong thực tế hầu hết các nước kết hợp các mô hình khác nhau.1.4: Các lý thuyết về mô hình nhà nước phúc lợiTheo lý thuyết của Bismarck, hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc là cơ sở củaquyền được hưởng các loại phúc lợi xã hội của người lao động. Phạm vi áp dụngcủa bảo hiểm xã hội bắt buộc gắn với các nhóm người có nghềnghiệp trong xã hội,do đó còn gọi là hệ thống định hướng nghề nghiệp. Nó thực hiện trên nguyên tắcbảo hiểm là chủ đạo với các quỹthành phần được phát triển dựa vào đóng góp vàcũng chỉ có những thành viên tham gia được hưởng lợi.Nước Đức trở thành quốcgia đầutiên thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộctừ năm 1883.Theo trườngphái Bismarck, bảo hiểm xã hội về cơ bản không được tài trợ từ nhà nước nhưngnhà nước đứng ra cam kết bảo đảm nếu các quỹ bảo hiểm xã hội bị mất khả năngthanh toán. Hệ thống chính sách phúc lợi xã hội theo trường phái Bismarck mặc dùbị ảnh hưởng bởi hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng vẫn tiếp tục phát triển, mởrộng loại hình bảo hiểm xã hội theo hướng ngày càng toàn diện.Ngược lại với trường phái Bismarck, trường phái Beveridge cho rằng phúc lợi xãhội phải bao phủ toàn diện, với mức chi trảnhư nhau và được quản lý tập trung,thống nhất. Đề xuất cải cách hệ thống an sinh xã hội nước Anh của Beveridge đãđược chấp thuận và trở thành nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm quốc gia năm1946. Từ luật này, hệthống an sinh xã hội phổ cập công cộng đã được xây dựng,giúp người lao động đối phó với những “thiếu hụt”, gián đoạn về thu nhập do mất4Mô hình nhà nước phúc lợiviệc làm, bệnh tật hoặc tuổi già. Đặc trưng của mô hình này là nhấn mạnh đến tínhtoàn diện về phạm vi, lĩnh vực, lợi ích của những người tham gia, trong đó nhànước chịu trách nhiệm chính về mặt tài chính. Cho đến nay, nhà nước phúc lợi đãphát triển ở nhiều nước châu Âu với nhiều mô hình khác nhau dựa trên đặc điểm,tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa cụ thể của mỗi nước. Về cơ bản không có nhànước nào phát triển hệ thống phúc lợi xã hội theo nguyên mẫu thuần túy màthường kết hợp ở mức độ khác nhau từ hai trường phái Bismarck và Beveridge.CHƯƠNG 2: VÀI NÉT VỀ NHÀ NƯỚC PHÚC LỢI VÀ HỆ THỐNG ANSINH XÃHỘI CỦA THỤY ĐIỂN2.1 Giới thiệu về Thụy Điển và xây dựng nhà nước phúc lợi Thụy Điển2.1.1 Giới thiệu về Thụy ĐiểnVương quốc Thụy Điển nằm ở đông nam bán đảo Scandinavi thuộc Bắc Âu. Vàonăm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội Dân chủ Thụy Điển, vương quốc này còn làmột trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của cướp biển,phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây cùngcác hậu duệ của họ. Kinh tế Thụy Điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so với nướcNga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội Dânchủ (Xã hội dân chủ) Thụy Điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có mộtsố thời kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước lâu hơncả. Trong thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, là thời gian được tác giả khảosát), Đảng Xã hội dân chủ đã xây dựng Thụy Điển từ một nước lạc hậu trở thànhmột nước kinh tế phát triển , đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu người (thứnhất là Thuỵ-sĩ); và thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoáphân phối đã đạt trình độ rất cao2.1.2 Quá trình xây dựng nhà nước phúc lợi Thụy ĐiểnMô hình nhà nước phúc lợi Thụy Điển được manh nha hình thành từ đầu thế kỷXX, khi vào năm 1913, Thụy Điển áp dụng hệ thống hưu trí phổ cập và năm 1916áp dụng hệ thống bảo hiểm tai nạn công nghiệp bắt buộc. Đây được coi là nềnmóng quan trọng thứ nhất để hình thành hệ thống phúc lợi xã hội Thụy Điển nhữngnăm sau này.5Mô hình nhà nước phúc lợiNhững khó khăn kinh tế trong nước do cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuốinhững năm 1920 khiến tình trạng thất nghiệp của Thụy Điển trở nền trầm trọng.Vào năm 1931, tại Thụy Điển đã nổ ra những cuộc biểu tình của người lao động.Sự kiện này đã đẩy mạnh phong trào công nhân và Đảng Dân chủ Xã hội đã giànhthắng lợi trong cuộc bầu cử vào năm 1932. Xét về mặt chính trị quốc gia, thắng lợicủa Đảng Dân chủ Xã hội năm 1932 có thể coi là nền móng quan trọng thứ hai choviệc hình thành nhà nước phúc lợi Thụy Điển. Chính phủ mới do Đảng Dân chủ Xãhội lãnh đạo đã tiến hành hai cuộc cải cách cơ bản là: Một là, duy trì chính sách tàikhóa mở rộng để kích cầu và giảm thất nghiệp. Hai là, thực hiện những cải cáchquan trọng trong lĩnh vực luật lao động, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nhữnglĩnh vực xã hội khác. Vào năm 1938, các nghiệp đoàn lao động và liên đoàn cácchủ lao động đã thể chế hóa một hệ thống, trong đó lương bổng và các vấn đề khácliên quan đến thị trường lao động (gồm một số chương trình bảo hiểm xã hội) đượcđàm phán ở cấp trung ương. Hệ thống nghiệp đoàn đã góp phần tạo nên sự đổngthuận giữa nhà nước và giới chủ người lao động, tạo nên sự phát triển tương đốibình đẳng về thu nhập của người lao độngKể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ Hai, nhà nước phúc lợi Thụy Điển tiếp tụcđược hoàn thiện thông qua việc đưa vào áp dụng một hệ thống giáo dục miễn phívà một hệ thống chăm sóc trẻ em một cách hoàn hảo. Đồng thời, trợ cấp nhà ở, cảicách hưu trí, trợ cấp cho phụ nữ,... cũng được bắt đầu được áp dụng rộng rãi. Vàonăm 1955, nhà nước phúc lợi Thụy Điển chính thức được hoàn thiện khi chính phủbắt đầu áp dụng hệ thống giáo dục miễn phí và hệ thống bảo hiểm y tế phổ cập,trong đó trách nhiệm giáo dục và chăm sóc sức khỏe được chuyển hoàn toàn sangkhu vực nhà nước.Trong thập kỷ 1950, 1960, 1970, Thụy Điển nhanh chóng trở thành một quốc giagiàu có và thịnh vượng sau nhiều thập kỷ bị đánh giá là lạc hậu nhất châu Âu.Trong giai đoạn 1950-1973, tăng trưởng GDP hàng năm đạt 3,7%/năm, cao hơn1% so với giai đoạn 1918-1950. Tỷ lệ thất nghiệp chỉ ở mức 1,5%-2%/năm, thấphơn rất nhiều so với mức trung bình của toàn châu Âu và Mỹ. Tăng trưởng kinh tếđã đưa thu nhập bình quân đầu người của người dân Thụy Điển tăng rất cao trongnhững năm đầu thập kỷ 1970. Trong thời gian này, mô hình phát triển kiểu ThụyĐiển được được đành giá là rất thành công. Vào đầu thập kỷ 1970, Thụy Điển lànước đứng thứ tư trên thế giới về việc nâng cao thu nhập và mức sống của ngườidân tính theo phương pháp đồng giá sức mua.6Mô hình nhà nước phúc lợiTuy nhiên, vào đầu thập kỷ 1990 mô hình nhà nước phúc lợi Thụy Điển gặp phảinhững thách thức nghiêm trọng. Nền kinh tế bắt đầu bộc lộ những yếu điểm: lạmphát cao, năng suất lao động thấp khiến sức mua của người dân giảm và tính cạnhtranh của các công ty Thụy ĐIển bị suy yếu. Trong giai đoạn 1990-1993, tỷ lệ thấtnghiệp đã tăng cao từ 1,6% lên 8,2%. Tỷ lệ lao động có việc làm cũng giảm từ83,1% xuống 72,6% trong cùng một giai đoạn. Tài chính công cộng bị tổn thươngnặng. Thặng dư ngân sách đang từ 3% GDP năm 1990 đã rơi vào tình trạng thâmhụt ở mức 11% năm 1993Chính phủ Thụy Điển đã nhiều lần cải cách mô hình của mình trong giai đoạnkhủng hoảng như cải cách về hạn chế những lợi ích ốm đau, thanh toán bảo hiểm,cải cách thất nghiệp, giảm trợ cấp trẻ em, đưa ra hệ thống hưu trí mới,... Cùng vớiviệc cải cách hệ thống phúc lợi, những cải cách cơ cấu cũng được chính phủ tiếnthành trong thập kỷ 1990: luật cạnh tranh, luật lao động, vấn đề giá cả,...2.2. Đặc điểm của nhà nước phúc lợi Thụy ĐiểnXã hội Thụy Điển hoạt động không mạnh, chủ yêu là các hoạt động của Nhà thờ.Tuy nhiên các công đoàn đóng vai trò hết sức lớn trong đời sống chính trị cũngnhư kinh tế của đất nước, đặc biệt trong việc xây dựng và củng cố an sinh xã hội.Cho đến năm 2000, 80% lực lượng lao động là thành viên của các công đoàn. Cáctổ chức công đoàn Thụy Điển có vai trò tích cực trong việc đảm bảo an sinh xã hộicho người lao động, thể hiện qua việc đàm phán với nghiệp đoàn của các nhà sửdụng lao động nhằm đạt được sự tăng lương cho người lao động và tổ chức, quảnlý các quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Đặc điểm nổi bật của mối quan hệ Công đoàn vàNghiệp đoàn Các nhà sử dụng lao động là sự nhấn mạnh tính đoàn kết trong cáccuộc thương lượng về lương bổng và các quyền lợi dành cho người lao động. Cáccông đoàn của Thụy Điển có tính ôn hòa cao hơn so với Công đoàn ở các nướcchâu Âu khác. Hiện nay Thụy Điển có 3 tổ chức công đoàn lớn: LO (liên đoànCông đoàn Thụy Điển), TCO (Liên đoàn Công nhân cổ trắng), SACO (Liên đoàncác hiệp hội chuyên nghiệp Thụy Điển).Trong hệ thống an sinh xã hội của Thụy Điển, Nhà nước giữ một vai trò quan trọngtrong việc cung cấp các dịch vụ phúc lợi, tuy nhiên Nhà nước không tham gia vàoquá trình thương lượng về lương bổng trong hoạt động của thị trưởng lao động.Nói cách cách khác, Nhà nước chủ yếu là “đứng ngoài”, vai trò trung lập3Mô hình nhà nước phúc lợi3) Mô hình nghiệp đoàn chủ nghĩa (corporatist) thì tái phân phối các nguồn lựcchủyếu bên trong nội bộ các nghiệp đoàn khác nhau, do người ta thuộc các nghềnghiệp khác nhau trên thị trường lao động. Mô hình này thịnh hành ở đức và Pháp.4) Cuối cùng, mô hình mang tính bao quát (encompassing) thì dựa vào bảo hiểm xãhội mang tính phổ quát, nghĩa là dành cho mọi người, nhưng có liên quan đến sứckiếm tiền trước đó. Thực chất nó hỗ trợ tất cả mọi người, nhưng cung cấp nhiềuhơn cho những ai ngay từ đầu vốn có thu nhập cao, và vì thế nó theo nguyên tắccủa Mathew (một nhân vật trong sách Phúc âm) chứ không phải nguyên tắc RobinHood. Mô hình này được thực hiện ở các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lanvà Na Uy.Tất nhiên, các mô hình nêu trên chỉ là sự phân loại hình lý tưởng theo nghĩa nóchỉtồn tại dưới dạng thuần khiết, tách bạch rạch ròi trong tư duy nghiên cứu để dễ làmviệc. Còn trong thực tế hầu hết các nước kết hợp các mô hình khác nhau.1.4: Các lý thuyết về mô hình nhà nước phúc lợiTheo lý thuyết của Bismarck, hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc là cơ sở củaquyền được hưởng các loại phúc lợi xã hội của người lao động. Phạm vi áp dụngcủa bảo hiểm xã hội bắt buộc gắn với các nhóm người có nghềnghiệp trong xã hội,do đó còn gọi là hệ thống định hướng nghề nghiệp. Nó thực hiện trên nguyên tắcbảo hiểm là chủ đạo với các quỹthành phần được phát triển dựa vào đóng góp vàcũng chỉ có những thành viên tham gia được hưởng lợi.Nước Đức trở thành quốcgia đầutiên thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộctừ năm 1883.Theo trườngphái Bismarck, bảo hiểm xã hội về cơ bản không được tài trợ từ nhà nước nhưngnhà nước đứng ra cam kết bảo đảm nếu các quỹ bảo hiểm xã hội bị mất khả năngthanh toán. Hệ thống chính sách phúc lợi xã hội theo trường phái Bismarck mặc dùbị ảnh hưởng bởi hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng vẫn tiếp tục phát triển, mởrộng loại hình bảo hiểm xã hội theo hướng ngày càng toàn diện.Ngược lại với trường phái Bismarck, trường phái Beveridge cho rằng phúc lợi xãhội phải bao phủ toàn diện, với mức chi trảnhư nhau và được quản lý tập trung,thống nhất. Đề xuất cải cách hệ thống an sinh xã hội nước Anh của Beveridge đãđược chấp thuận và trở thành nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm quốc gia năm1946. Từ luật này, hệthống an sinh xã hội phổ cập công cộng đã được xây dựng,giúp người lao động đối phó với những “thiếu hụt”, gián đoạn về thu nhập do mất8Mô hình nhà nước phúc lợibắt buộc bao gồm các lớp mẫu giáo – nhà trẻ, lớp trung học phổ thông, giáo dụcngười lớn và giáo dục người lớn dành cho người khuyết tật.Hệ thống giáo dục gồm 9 năm giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, 3 năm giáodục trung học, 3 năm giáo dục đại học, 1 năm giáo dục thạc sĩ và 4 năm giáo dụctiến sĩ. Giáo dục tiểu học và trung học được miễn phí hoàn toàn. Chính phủ khôngchỉ tài trợ cho giáo dục mà còn cả chi phí đi lại, sách giáo khoa và bữa ăn miễn phí.Luật Giáo dục Thụy Điển còn quy định, không những tất cả mọi người đều được đihọc không mất tiền suốt đời mà từ nhà trẻ đến bậc trung học, nếu trong lớp có mộthọc sinh người nước ngoài, thì nhà trưởng phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹđẻ của học sinh đó, mỗi tháng phải lên lớp với một số giờ nhất định bằng tiếng mẹđẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho đến khi tốt nghiệp, tuy có quyước số năm học nhất định, nhưng luật pháp quy định nếu học sinh nào tốt nghiệprồi mà chưa tìm được công việc thích hợp và không muốn rời nhà trưởng thì có thểtiếp tục học tập miễn phí. Hầu hết các trưởng đại học và các tổ chức giáo dục sautrung học cũng được điều hành bởi nhà nước và cũng được giáo dục miễn phí. Tuynhiên, ở bậc đại học và cao đẳng, việc ăn uống, sách vở và chi phí đi lại khôngđược nhà nước đài thọ trực tiếp dù tất cả sinh viên đều có thể vay vốn trợ cấp đểtrang trải chi phí sinh hoạtHàng năm, chi tiêu của nhà nước cho giáo dục chiếm khoảng 8% GDP, thuộc diệncao nhất thế giới. Phần lớn kinh phí được sử dụng cho các trường phổ thông và cáctrường đại học công, nhưng học sinh cũng được tự do tham gia các trường tư theoý tưởng giáo dục đặc biệt hoặc bởi một số nhóm lợi ích nhất định. Những trườngnày cũng được tài trợ bằng ngân sách nhà nước. Các trưởng tư phải mở rộng chomọi người và tuân theo các tiêu chuẩn đo Luật Giáo dục quy định. Khác với cáctrường công, các trường tư được phép thu một mức phí tượng trưng. Các trường tưthưởng phổ biến trong các thành phố lớn và chiếm khoảng 3,5% trong tổng số họcsinh2.3.2 Hệ thống chăm sóc sức khỏe gia đình và trẻ em2.3.2.1 Chế độ sinh đẻ và chăm sóc trẻ emPhụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương, trong đó 12 tháng đầuhưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%. Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai, sẽtiếp tục được nghỉ hưởng tiếp 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời lại được hưởng9Mô hình nhà nước phúc lợichế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối quantrọng không thể hoặc không muốn ở nhà quá lâu như vậy, thì hai vợ chồng có thểbàn bạc để chồng có thể nghỉ thay vợ.Trẻ em ở Thụy Điển được trợ cấp rất lớn. Năm 2002, chỉ có 11% trẻ em ở ThụyĐiển phải chịu những khoản chi phí từ phía cha mẹ, còn lại là từ phía nhà nước. Sựhỗ trợ chăm sóc trẻ em ở Thụy Điển nhiều đến mức người ta có cảm tưởng rằng“người Thụy Điển đã quốc hữu hóa các gia đình”. Cụ thể là+ Hỗ trợ tiền mặt cho bố mẹ: Bố mẹ được cung cấp tiền mặt cho mỗi đứa trẻ trongvòng 480 ngày. Trong 390 này đầu, sự hỗ trợ được dựa trên thu nhập của bố mẹ,được tính tương đương với hỗ trợ nhận được khi đau ốm (80% thu nhập, khôngquá ngưỡng trần thu nhập). Nếu bố mẹ có thu nhập thấp hoặc không có thu nhậpthì sẽ nhận được hỗ trợ với mức tối thiểu là 180 SEK/ngày. Đối với 90 ngày cònlại, bố hoặc mẹ sẽ nhận được một khoản tiền tối thiểu là 180 SEK/ ngày.+ Hỗ trợ người bố: Cho phép người bố có thể có mặt vào thời gian người mẹ sinhcon, thu dọn nhà cửa và chăm sóc đứa trẻ trong thời gian mới sinh. Người bố cóquyền được hưởng trợ cấp tiền mặt tạm thời cho bố mẹ trong 10 ngày/ mỗi đứa trẻ,nếu việc chăm sóc đứa trẻ cản trợ việc thực hiện công việc.Quyền này cũng có thểchuyển cho người khác. Trong trường hợp nhận con nuôi, bố hoặc mẹ cũng cóquyền được hưởng mỗi người 5 ngày. Mức độ bù đắp tương đương 80% thu nhậpbằng mức hỗ trợ tiền mặt ốm đau+ Hỗ trợ tiền mặt trong thời gian mang thai: Cho phép phụ nữa mang thai khôngthể tiếp tục làm việc có thể dành thời gian để nghỉ ngơi. Một phụ nữ mang thaimvới công việc có đóng thuế, có thể nhận được trợ cấp tiền mặt nếu người chủ laođộng không thể sắp xếp cho người phụ nữ mang thai một công việc thích hợp chođến cuối thai kỳ. Người phụ nữ có thể nhận tối đa 50 ngày lương trong hai thángcuối cùng của thai kỳ. Nếu công việc của người phụ nữ đang làm bị cấm làm việctrong thời kỳ mang thai theo Luật Môi trường lao động thì người phụ nữ đó sẽnhận được hỗ trợ tiền mặt cho mỗi ngày nghỉ vì bị cấm đó. Mức bù đắp thu nhập là80% thu nhập bằng mức hỗ trợ tiền mặt đau ốm2.3.2.2 Chế độ dưỡng lão10Mô hình nhà nước phúc lợiNgười lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương đủ sống, người già yếu không tựlo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong viện dưỡng lão của nhà nước, đượchưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống tại đây tương đương với kháchsạn 3 sao+ Lương hưu cho người cao tuổi: Lương cho người cao tuổi cung cấp an sinh chongười già. Lương cho người cao tuổi được áp dụng cho những người từ 61 tuổi trởlên. Tuy nhiên người nhận lương có thể hoãn việc nhận lương nếu họ muốn và giátrị của khoản lương đó sẽ tăng lên theo thời gian trì hoãn của họ. Lương có ngườicao tuổi có thể trả toàn bộ, ¾, ½, hay ¼. Từ tháng 1/2003, lương cũng bị đánh thuếnhư thu nhậpTrước đây hệ thống lương gồm là 2 loại lương cơ bản và lương bổ sung+ Lương cơ bản cung cấp mức an sinh cơ bản độc lập với thu nhập trước đó+ Lương bổ sung dựa trên mức thu nhập có được trong thời gian làm việc từ 16đến 64 tuổi. Để nhận được lương bổ sung đầy đủ, người lao động cần có 30 nămlàm việc và mức lương sẽ dựa vào mức thu nhập trong 15 năm có thu nhập tốtnhất.Hệ thống lương mới: gồm có 3 loại lương: lương thu nhập (income pension), lươngtheo phí (premium pension), lương bảo đảm (guarantee pension). Có 1 số lý do chocải cách này, trong đó đáng chú ý là tỉ lệ số lượng người nhận lương so với sốngười hoạt động có hiệu quả kinh tế trong xã hội ngày càng tăng. Ngày nay, cứ 100người làm việc thì có 30 người nghỉ hưu và trong vòng 25 năm tới con số dự báosẽ là 41. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng thấp của nền kinh tế nhưng lại đi kèm vớisự gia tăng số người nhận mức lương ngày càng cao hơn đã làm lộ rõ yếu điểm củahệ thống2.3.3 Hệ thống bảo hiểm xã hội cho người lao động2.3.3.1 Bảo hiểm tai nạn lao động+ Khi gặp thương tật tạm thời: Lợi ích khi gặp thương tật tạm thời được hưởnggiống như các lợi ích ốm đau. Người được trợ cấp khi gặp thương tật tạm thời sẽnhận được 77,6% số thu nhập bị mất và có thể đạt mức trần là 294,700 SEK/năm11Mô hình nhà nước phúc lợi+ Khi gặp tai nạn vĩnh viễn: Nếu người lao động mất 100% khả năng lao động tạothu nhập thì trợ cấp nhận được sẽ là 100% mức thu nhập và có thể đạt đến mức tốiđa là 294,700 Kronor/năm. Nếu khả năng tạo thu nhập bị mất khoảng 1/15 hoặcnhiều hơn thì mức trợ cấp sẽ tương ứng mức thu nhập đã mất+ Lợi ích về y tế: Khi công nhân ốm đau hoặc thai sản, các lợi ích bao gồm sựhoàn lại một phần chi phí đi lại, chăm sóc răng cho trẻ em đến 20 tuổi, ....đều miễnphí+ Lợi ích đối với người phụ thuộc: Nếu một người bị chết do tai nạn lao động thìvợ hoặc chồng của người đã chết và con cái của hộ dưới 18 tuổi sẽ được nhận trợcấp hàng năm.+ Lương cho trẻ mồ côi: trẻ dưới 18 tuổi (hoặc 20 tuổi nếu bị tàn tật) sẽ nhận đượctừ 20% đến 40% mức trợ cấp thương tật vĩnh viễn mà người đã chết đă hoặc có thểđược hưởng. Mức lương phụ thuộc vào số trẻ có quyền nhận lương mồ côi+ Trợ cấp mai táng: Người chết vì tai nạn lao động sẽ nhận được một khoản trợ cấpmai táng là 11,790 Kronor.2.3.3.2 Bảo hiểm thất nghiệp+ Trợ cấp thất nghiệp cơ bản: trợ cấp thất nghiệp cơ bản cung cấp cho người thấtnghiệp một mức trợ cấp cố định với mức trợ cấp tối đa là 320 Kronor/ngày. Ngườithất nghiệp có thể được nhận trợ cấp trong vòng 300 ngày. Trợ cấp được trả theo 5ngày/tuần+ Trợ cấp thất nghiệp tự nguyện có liên quan đến thu nhập: Người thất nghiệp sẽnhận 80% của mức lương nhận được gần nhất. Mức trợ cấp tối đa là 730Kronor/ngày cho 100 ngày đầu tiên và sau đó là 680 Kronor/ngày. Trợ cấp đượctrả tối đa trong 300 ngày là 5 ngày/tuần2.4 Đánh giá2.4.1 Thành tựu+ Mô hình Thụy Điển là một mô hình phát triển công bằng, bình đẳng và ít thamnhũng.4Mô hình nhà nước phúc lợiviệc làm, bệnh tật hoặc tuổi già. Đặc trưng của mô hình này là nhấn mạnh đến tínhtoàn diện về phạm vi, lĩnh vực, lợi ích của những người tham gia, trong đó nhànước chịu trách nhiệm chính về mặt tài chính. Cho đến nay, nhà nước phúc lợi đãphát triển ở nhiều nước châu Âu với nhiều mô hình khác nhau dựa trên đặc điểm,tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa cụ thể của mỗi nước. Về cơ bản không có nhànước nào phát triển hệ thống phúc lợi xã hội theo nguyên mẫu thuần túy màthường kết hợp ở mức độ khác nhau từ hai trường phái Bismarck và Beveridge.CHƯƠNG 2: VÀI NÉT VỀ NHÀ NƯỚC PHÚC LỢI VÀ HỆ THỐNG ANSINH XÃHỘI CỦA THỤY ĐIỂN2.1 Giới thiệu về Thụy Điển và xây dựng nhà nước phúc lợi Thụy Điển2.1.1 Giới thiệu về Thụy ĐiểnVương quốc Thụy Điển nằm ở đông nam bán đảo Scandinavi thuộc Bắc Âu. Vàonăm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội Dân chủ Thụy Điển, vương quốc này còn làmột trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của cướp biển,phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây cùngcác hậu duệ của họ. Kinh tế Thụy Điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so với nướcNga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội Dânchủ (Xã hội dân chủ) Thụy Điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có mộtsố thời kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước lâu hơncả. Trong thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, là thời gian được tác giả khảosát), Đảng Xã hội dân chủ đã xây dựng Thụy Điển từ một nước lạc hậu trở thànhmột nước kinh tế phát triển , đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu người (thứnhất là Thuỵ-sĩ); và thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoáphân phối đã đạt trình độ rất cao2.1.2 Quá trình xây dựng nhà nước phúc lợi Thụy ĐiểnMô hình nhà nước phúc lợi Thụy Điển được manh nha hình thành từ đầu thế kỷXX, khi vào năm 1913, Thụy Điển áp dụng hệ thống hưu trí phổ cập và năm 1916áp dụng hệ thống bảo hiểm tai nạn công nghiệp bắt buộc. Đây được coi là nềnmóng quan trọng thứ nhất để hình thành hệ thống phúc lợi xã hội Thụy Điển nhữngnăm sau này.13Mô hình nhà nước phúc lợi+Về mặt kinh tế:Mô hình Thụy Điển đem lại những thành công kinh tế vào diện bậc nhất châu Âu.Năm 2008, Thụy Điển được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp thứ 3 trong số các nướccó sức cạnh tranh nhất thế giới, chỉ sau Mỹ và Phần Lan. Nền kinh tế Thụy Điểnhiện rất ổn định, thực lực mạnh, nhiều nhân tài và cơ sở hạ tầng tốt. Năm 2005,GDP của Thụy Điển đạt khoảng 268 tỷ USD, trong đó dịch vụ chiếm hơn 70%,xuất khẩu chiếm 43,3%. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 29.800 USD/năm.Ngân sách nhà nước thu khoảng 210 tỷ USD, chi khoảng 206 tỷ USD. Tỷ lệ thấtnghiệp khoảng 5,8%, tỷ lệ lạm phát 0,5%. Bình quân 2 người dân có 1 ô tô, 1 ti vi.Đất nước có khoảng 9 triệu dân thì có 6,5 triệu máy điện thoại cố định và hơn 8,4triệu điện thoại di động, gần 5,2 triệu người sử dụng Internet. Năm 2002, 2 công tyTele2 và TeliaSonera nằm trong 100 công ty đứng đầu thế giới về công nghệ thôngtin do Business Week bình chọn. Vào tháng 12/2007, Thụy Điển đứng thứ 8 trongsố các nước thành viên OECD về người sử dụng internet băng thông rộng, đạt30,3/100 dân (cao hơn mức trung bình của OECD là 20,0) và đạt 2.775.014 thuêbao+ Mô hình Thụy Điển đem lại chế độ chính trị thành công nhấtĐảng Xã hội Dân chủ của Thụy Điển là đảng luôn giành được đa số phiếu trongcác cuộc bầu cử Quốc hội. Nhờ đó, Đảng Xã hội Dân chủ kể từ khi thành lập vàonăm 1889 cho đến nay liên tục giành được quyền lãnh đạo đất nước Thụy Điển vàđem lại sự thành công vững chắc trên các mặt chính trị, xã hội và kinh tế, khiếnnước này trở thành hình mẫu của toàn thế giới. Đảng Xã hội Dân chủ coi đảng củahọ là đảng xã hội chủ nghĩa, do đó họ kiên trì thực hiện đường lối chủ nghĩa xã hội.Theo lý luận của Đảng Xã hội Dân chủ, trong việc thực hiện chủ nghĩa xã hội thìxã hội hóa quyền sở hữu không phải là vấn đề căn bản; Xã hội hóa phân phối mớilà vấn đề căn bản, tức là thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế nàođể đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân và người dân lao động. Phải lập thậtnhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn. Chính phủ sẽthực hiện chức năng phân phối của cải do các doanh nghiệp tư nhân làm ra để đápứng nhu cầu của người lao độngCon đường phát triển chính trị của Đảng xã hội Dân chủ là ôn hòa, quan tâm chếđộ phúc lợi suốt đời, quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, do vậy đã tạo ra một14Mô hình nhà nước phúc lợiđất nước công bằng, dân chủ, trong sạch, không có tội phạm và không có đìnhcông, bãi công.2.4.1 Thách thứcMột là, nền kinh tế tăng trưởng thấp, thu nhập bình quân tăng chậm, không đảmbảo cân đối nguồn thu ngân sách dành cho quỹ phúc lợi xã hội. Đặc biệt do khủnghoảng kinh tế tại Thụy Điển, tỷ lệ thất nghiệp tăng rất cao đã tạo áp lực cho nguồnthu từ thuế của chính phủ. Vào năm 2007, tổng doanh thu từ thuế của Chính phủThụy Điển là 40 tỷ Sek, năm 2008 giảm còn 10 tỷ Sek, năm 2009 giảm còn 15 tỷSek và năm 2010 giảm còn 10 tỷ Sek. Trong khi đó, thất nghiệp và những chi tiêuASXH cho người già, người ốm tiếp tục tăng cao và tạo áp lực rất lớn cho hệ thốngASXHThụy Điển.2006 2007 2008 2009Tăng trưởng GDP(%)4,52,7-0.5 -4,4 2,3Thất nghiệp (%)6,16,28,39,7Ngân sách chính phủ (%) 2,23,43,1-1,6 -3,0 -7,14,07,5Nguồn: Nordic Council of Ministers (2011), Global Pressure - Nordic Solutions,Nordic Outlook 2012 - Danske BankHai là, chi phí phúc lợi cao gây ra sức ì xã hội, sụt giảm năng suất lao động và sứccạnh tranh của nền kinh tế. Do không khuyến khích phát huy sáng kiến cá nhân vàtinh thần làm việc tích cực. Tại Thụy Điển, trợ cấp thất nghiệm chiếm 84% lươngcủa người lao động, số năm được hưởng trợ cấp là 4 năm/người thất nghiệpBa là, sự thay đổi cơ cấu dân số theo độ tuổi đặt ra gánh nặng cho hệ thống an sinhxã hội. Dự báo chi tiêu công lương hưu của Thụy Điển sẽ tăng mạnhDự báo tỷ lệ người trên 65 tuổi ở một số nước châu Âu đến năm 2050(Đơn vị tính: %)15Mô hình nhà nước phúc lợi2020 2030 2040 2050Thụy Điển 37,6 42,7 46,7 46,1Nguồn: Đinh Công Tuấn(Chủ biên) (2008), Hệ thống an sinh xã hội của EU và bàihọc cho Việt Nam, NXB.Khoa học Xã hội, Hà NộiDự báo chi tiêu hưu trí công cộng ở một số nước châu Âu(Đơn vị tính: %GDP)2020 2030 2040 2050Thụy Điển 13,9 15,0 14,9 14,5Nguồn: Bonoli, G.(2000).Sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ người già trong xã hội khiến cho nghĩa vụ đóng gópvào quỹ an sinh xã hội của thế hệ thanh niên – những người đang trong độ tuổi laođộng trở nên nặng nề hơn, rủi ro về nghèo khổ, thất nghiệp hoặc thu nhập thấp sẽcao hơn, làm này sinh them các vấn đề xã hội và an sinh.Hệ quả của những cố gắng chi tiêu cho phúc lợi cao của các nhà nước châu Âutrong khi nguồn thu không đảm bảo tương ứng là gánh nặng thâm hụt ngân sáchkéo dài và tình trạng nợ công tăng vượt mức kiểm soátHệ thống phúc lợi xã hội được xây dựng nhiều thập kỷ qua ở châu Âu đang lunglay do khủng hoảng kinh tế và hầu hết các chính phủ buộc phải thắt chặt chi tiêu.Những người dân đã quen với giáo dục, y tế miễn phí, trợ cấp thất nghiệp rộng rãinay phải đối diện với những thách thức lớn trong đời sống hàng ngày khi thu nhậpsuy giảm nhanh chóng, còn nhà nước không có khả năng hỗ trợ phúc lợi nhiều nhưtrước, thậm chí còn cắt giảm sự hỗ trợ này.Chính phủ Thụy Điển đã phải đưa racác biện pháp như: tuổi nghỉ hưu đã bị đẩy lùi đến 63 tuổi và thời gian đóng gópvào quỹ hưu bổng được kéo dài thêm. Ngày nay, Thụy Điển là nước số một trênthế giới trong lĩnh vực tạo công ăn việc làm cho người cao tuổi. Khu vực Nhà nướcở Thụy Điển cũng phải chịu một số biện pháp thắt lưng buộc bụng qua những luậtlệ nghiêm ngặt hơn về ngân sáchMặc dù cũng có những vấn đề tồn tại trên con đường phát triển nhưng thể chếchính trị Thụy Điển hiện đang được đánh giá là thể chế kiểu mẫu trên thế giới16Mô hình nhà nước phúc lợiCHƯƠNG 3: PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ỞTHỤY ĐIỂN: NHỮNG BÀI HỌC VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAMDo Việt Nam là nước đang phát triển với điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăntrong khi Thụy Điển là một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới nên sự so sánhvềmức độ phúc lợi là không cân xứng. Mặc dầu vậy, so sánh, tìm ra những nétgiống và khác nhau giữa hai nước để học hỏi một số kinh nghiệm và cách thức vậnhành chính sách phúc lợi của Thụy Điển sao cho phù hợp với điều kiện của ViệtNam là việc làmhết sức thiết thực. Những khác biệt giữa hai nước có thể chia làmhai loại.Một lànhững điều Việt Nam chúng ta hiện không làm như Thụy Điển, vànên học hỏi đểthay đổi.Hai là những khác biệt rất khó, hoặc không thể thayđổi.Báo cáo này xoay quanh những khác biệt đó, và những bài học kinh nghiệm,những kiến nghị đưa ra sẽxuất phát từ loại khác biệt này.3.1: Nét tương đồng giữa Việt Nam và Thụy Điển3.1.1: Giống nhauSo sánh Thụy Điển và Việt Nam, chúng ta thấy có một số điểm giống nhau nhưsau:1) Trước hết về những nét chung, thì với mô hình an sinh xã hội bao quát cho mọingười, bình đẳng tương đối và tỉ lệ nghèo khổ thấp, Thụy Điển là nơi thực hiệnđược một ước mơ Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua câu nói “aicũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.2) Việt Nam hiện có một số chương trình an sinh xã hội, chứ không xuất pháttừcon số 0, từ tờ giấy trắng. Hơn thế nữa, các chương trình an sinh xã hội của ViệtNam vàđang trải qua nhiều chỉnh sửa. Sự tụt hậu về kinh tế thậm chí có một số lợithế tương đối là “tuy xuất phát muộn, nhưng có thể đuổi theo” bằng cách đi dầndần theo bài học rút ra từ mô hình Thụy Điển. đất nước Thụy Điểnđi từ nhữngchương trình xóa đói nghèo vốn nhằm vào những nhóm mục tiêu nhất định, tiến tớichương trình mang tính chất tự nguyện “giúp đỡ để tự giúp”, rồi tới nguyên tắc ansinh nông nghiệp cơ bản là “mỗi người một chút thôi nhưng ai cũng được”, và cuốicùng là đến mô hình bao quát cho mọi người. Không nhất thiết Việt Nam phải chia5Mô hình nhà nước phúc lợiNhững khó khăn kinh tế trong nước do cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuốinhững năm 1920 khiến tình trạng thất nghiệp của Thụy Điển trở nền trầm trọng.Vào năm 1931, tại Thụy Điển đã nổ ra những cuộc biểu tình của người lao động.Sự kiện này đã đẩy mạnh phong trào công nhân và Đảng Dân chủ Xã hội đã giànhthắng lợi trong cuộc bầu cử vào năm 1932. Xét về mặt chính trị quốc gia, thắng lợicủa Đảng Dân chủ Xã hội năm 1932 có thể coi là nền móng quan trọng thứ hai choviệc hình thành nhà nước phúc lợi Thụy Điển. Chính phủ mới do Đảng Dân chủ Xãhội lãnh đạo đã tiến hành hai cuộc cải cách cơ bản là: Một là, duy trì chính sách tàikhóa mở rộng để kích cầu và giảm thất nghiệp. Hai là, thực hiện những cải cáchquan trọng trong lĩnh vực luật lao động, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nhữnglĩnh vực xã hội khác. Vào năm 1938, các nghiệp đoàn lao động và liên đoàn cácchủ lao động đã thể chế hóa một hệ thống, trong đó lương bổng và các vấn đề khácliên quan đến thị trường lao động (gồm một số chương trình bảo hiểm xã hội) đượcđàm phán ở cấp trung ương. Hệ thống nghiệp đoàn đã góp phần tạo nên sự đổngthuận giữa nhà nước và giới chủ người lao động, tạo nên sự phát triển tương đốibình đẳng về thu nhập của người lao độngKể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ Hai, nhà nước phúc lợi Thụy Điển tiếp tụcđược hoàn thiện thông qua việc đưa vào áp dụng một hệ thống giáo dục miễn phívà một hệ thống chăm sóc trẻ em một cách hoàn hảo. Đồng thời, trợ cấp nhà ở, cảicách hưu trí, trợ cấp cho phụ nữ,... cũng được bắt đầu được áp dụng rộng rãi. Vàonăm 1955, nhà nước phúc lợi Thụy Điển chính thức được hoàn thiện khi chính phủbắt đầu áp dụng hệ thống giáo dục miễn phí và hệ thống bảo hiểm y tế phổ cập,trong đó trách nhiệm giáo dục và chăm sóc sức khỏe được chuyển hoàn toàn sangkhu vực nhà nước.Trong thập kỷ 1950, 1960, 1970, Thụy Điển nhanh chóng trở thành một quốc giagiàu có và thịnh vượng sau nhiều thập kỷ bị đánh giá là lạc hậu nhất châu Âu.Trong giai đoạn 1950-1973, tăng trưởng GDP hàng năm đạt 3,7%/năm, cao hơn1% so với giai đoạn 1918-1950. Tỷ lệ thất nghiệp chỉ ở mức 1,5%-2%/năm, thấphơn rất nhiều so với mức trung bình của toàn châu Âu và Mỹ. Tăng trưởng kinh tếđã đưa thu nhập bình quân đầu người của người dân Thụy Điển tăng rất cao trongnhững năm đầu thập kỷ 1970. Trong thời gian này, mô hình phát triển kiểu ThụyĐiển được được đành giá là rất thành công. Vào đầu thập kỷ 1970, Thụy Điển lànước đứng thứ tư trên thế giới về việc nâng cao thu nhập và mức sống của ngườidân tính theo phương pháp đồng giá sức mua.18Mô hình nhà nước phúc lợiKhông những nguồn lực hiện có ở Việt Nam khác với xuất phát điểm của ThụyĐiển, mà sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội lúc khởi đầu ở Thụy Điển (năm 1913)cũng thấp hơn mức hiện có ở nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam.Nhiều nhà kinh tế học Việt Nam lập luận rằng chính sách chỉ đánh thuế nhữngngười có thu nhập cao là để “dưỡng sức dân”, để khuyến khích làm việc và tăngtrưởng, sao cho khi nền kinh tế hưng thịnh, những người nghèo sẽ được chia phần,sẽhưởng lợi từ con sóng kinh tế đang lên. Nếu Việt Nam vẫn theo đuổi thi hànhchính sách “dưỡng sức dân” mà các nhà kinh tế học này đề nghị, tức là chỉ đánhthuế người có thu nhập cao, trong khi các biện pháp thu thuế không hiệu quả, thìrất có thể sẽphổ biến rộng rãi tình trạng gian lận, trốn thuế, và kết cục là khoảngcách giàu nghèo sẽ ngày càng lớn hơn, bất bình đẳng ngày càng sâu rộng.Mặt khác, người Việt Nam xưa nay chỉ quen dựa trước hết vào bản thân, sau đếngia đình, họ hàng, chứ không phải nhà nước trong việc đảm bảo an sinh cho mình.Chính vì thế, nếu có việc làm và thù lao, họ thường thích nhận toàn bộ thu nhậpngaybây giờ, và ngay ở đây, chứ không muốn trích một phần thu nhập để dànhđóng góp vào quỹ an sinh tập thể, càng không muốn đóng góp vào quỹ an sinh xãhội hay mua bảohiểm để phòng xa cho những rủi ro tương lai mà người ta khôngbiết liệu có chắc sẽ xảy ra hay không, và nếu xảy ra, không rõ họ có được xã hộibảo hiểm hay không? Khắc phục thói quen và nếp nghĩ này không phải dễ và mộtsớm một chiều.Trong khi đó, với sự biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân khẩu (kể cả của giađình), con người ta ngày càng phụ thuộc vào thu nhập bằng tiền mặt chứ khôngphải hàng hóa và hiện vật nữa, và khả năng dễ bị thương tổn về tài chính ngày càngtăng lên do sức khoẻ kém, tai nạn lao động và tuổi già v.v. Kết hợp với di cư hàngloạt, thì gia đình và họ hàng không còn là chỗ dựa đáng tin cậy đểđảm bảo an ninhkinh tế.Việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội là một tất yếu, vì hệ thống này hiệuquả hơn gia đình và họ hàng.Thêm nữa, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thếgiới, và sự hội nhập này cũng đặt ra một số thách thức cho hệ thống an sinh xã hộicủa Việt Nam, nếu nhìn từ góc độ những kinh nghiệm của Thụy Điển.Thứ nhất, với các cam kết gia nhập WTO và đặc biệt là tham gia Khu vực mậudịch tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam sẽ dần phải cắt bỏ các hàng rào thuế quan19Mô hình nhà nước phúc lợivà thuế nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng sẽ hạ xuống còn 0%. điều này có nghĩalà nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu sẽ sụt giảm, dẫn tới những áp lực khôngnhỏđối với việc chi tiêu cho các chính sách phúc lợi. Hệ thống an sinh xã hội do đócó thểsẽ phải dựa nhiều vào sự đóng góp của xã hội, giống như thực trạng củaThụy Điển và một số nước Bắc Âu trong những năm vừa qua.Thứ hai, mặc dù ASEAN không có các tiêu chí hội nhập kinh tế khu vực chặtchẽnhư EU nhưng Việt Nam cũng phải đối phó với sự ảnh hưởng của nền kinh tếkhu vực, đặc biệt là các biến động kinh tế như từng xảy ra năm 1997 và khủnghoảng tài chính năm 2008. Khủng hoảng kinh tế khu vực sẽ có tác động rất lớn tớinền kinh tếcủa các nước thành viên do mức độ đầu tư ra nước ngoài trong nội bộkhối đang không ngừng gia tăng. Nó sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến thịtrường laođộng và gây ra các vấn đề kinh tế - xã hội, nhất là gây tổn thương cho hệthống an sinh xã hội vốn chưa phát triển hoàn thiện. Những khó khăn về tài chínhcó thể sẽ phá hỏng những nỗ lực đạtđược trong lĩnh vực này.Thứ ba, quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa với xu hướng tự do hoá thươngmạiđang bị xem là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong phát triển, tăng khoảngcách giàu nghèo trong xã hội. Với các nước đang phát triển, một bộ phận lớn dâncư trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề của quá trình đô thị hoávà mấtđất canh tác do công nghiệp hoá. Những người này thường không thuộcphạm vi bao trùm của hệ thống an sinh xã hội, vốn phát triển còn ở dạng sơ khai,do vậy những ảnh hưởng còn có thể nặng nề hơn đối với cuộc sống của họ. Xâydựng hệ thống chính sách phúc lợi đem lại lợi ích cho người nghèo là yêu cầu cấpthiết cho các nước đang phát triển. Việt Nam, một nước xã hội chủ nghĩa, trongnhững năm qua tích cực xây dựng và củng cố hệ thống an sinh xã hội nhằm giúpngười dân được hưởng những lợi ích từ sự tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên mứcđộ bao trùm còn rất hạn chế. Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội mang tính phổquát (universalism) như của Thụy Điển có thể sẽ là quá sức đối với khả năng kinhtế hiện nay của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam có thể xây dựng và thực hiện mộtsố chính sách an sinh phù hợp, từ kinh nghiệm của Thụy Điển.Như vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục đểđông đảo dân chúngnhận thức được rằng việc xây dựng hệ thống an sinh tập thể, an sinh xã hội là cầnthiết, và muốn vậy, phải đạt được sự đồng thuận xã hội.20Mô hình nhà nước phúc lợi2) Dân số Việt Nam hiện nay quá đông, và lớn hơn nhiều so với số người thuộc đốitượng hưởng các chương trình phúc lợi ở Thụy Điển vào thời điểm khởi đầu. Hơnthế nữa, nguyên tắc xây dựng hệ thống an sinh xã hội ở Thụy Điển là tất cả mọingười đều phải đóng góp vào quỹ chung của an sinh xã hội, nhưng chỉ những aigặp khó khăn mới được nhận hỗ trợ. Nói như một cuốn sách thông tin về bảo hiểmxã hội ở Thụy Điển, “trách nhiệm đóng thuế và đóng góp các khoản khác khiếnchúng ta đủ tiêu chuẩn và có quyền chia sẻ phúc lợi xã hội khi chúng ta cầnnó”.Thụy Điểnđánh thuế tất cả mọi người có thu nhập (tất nhiên mức thuế rất khácbiệt theo mức thu nhập: thu nhập cao thì mức thuế phải đóng sẽ cao, và ngược lại),còn ở Việt Nam, với luật thuế thu nhập cá nhân được Quốc hội thông qua cuối năm2007, chỉ những cá nhân có thu nhập cao (được xác định là 5.000.000 đ/tháng trởlên) mới phải đóng thuế. Không khó tính toán và hình dung hai mô hình dẫn đếnkết quả như thế nào: trên giấy tờ, với mô hình Thụy Điển, nhiều người đóng thuếvà ít người phải dựa vào an sinh xã hội, nên mức thu từ thuế có thể xấp xỉ mức chicho an sinh xã hội; còn ở Việt Nam, ít người đóng thuế và nhiều người cần trợgiúp, nên thu - chi khó lòng cân bằng.Vậy Việt Nam nên tham khảo phương châm “tất cả mọi người đều phải đóng gópvào quỹ chung của an sinh xã hội, nhưng chỉ những ai gặp khó khăn mới đượcnhận hỗ trợ” của Thụy Điểnđể có nguồn thu vững chắc và cách chi phí đúng đắncho hệthống an sinh xã hội.3) Trong hệ thống an sinh xã hội của Thụy Điển, bất cứ ai có thu nhập đều phảiđóng thuế, và nhờ đó, họ có quyền hưởng dịch vụ xã hội khi cần với chi phí vừaphải. Kết hợp với sự minh bạch và tình trạng tham nhũng không phổ biến, ngườiđóng thuếthấy được lợi ích của việc đóng thuế.Khác với Thụy Điển, hiện nay Việt Nam có nhiều trở ngại trong việc này. Một vídụ: ngoài các cá nhân hưởng thu nhập cao, thì những người có thu nhập khôngthường xuyên cũng bị đánh thuế 10%. Tuy nhiên, nhiều khi ngay cả biên lai ghinhận nộpthuế này cũng không có. Trong khi đó, để tiếp cận các dịch vụ xã hội (ytế, giáo dục v.v.), người đóng thuế phải trả tiền, và thường thì số tiền này là rấtlớn.điều này kết hợp với chất lượng dịch vụ kém khiến người đóng thuế khôngthấy bất cứ lợi ích gì trong việc đóng thuế.21Mô hình nhà nước phúc lợiVậy Việt Nam cần nỗ lực để kết hợp nghĩa vụ đóng thuế với quyền lợi hưởng dịchvụ ở mức chi phí vừa phải và chất lượng thoả đáng để người đóng thuế thấy đượcsựcân bằng tương đối quyền lợi và nghĩa vụ.Để làm được việc đó, một trong những nhiệm vụ đặt ra phải giải quyết là tạo ravàduy trì tính minh bạch của hệ thống an sinh tập thể, an sinh xã hội, và chống thamnhũng.Như thế, Việt Nam cần coi trọng giải quyết nhiệm vụ nặng nề là tạo dựng “lòng tinvề mặt xã hội” (social trust), song song với những nỗ lực xây dựng hệ thống ansinh xã hội. Thậm chí việc tạo dựng lòng tin là một điều kiện cần để mọi người tựgiác và trung thực đóng thuế xây dựng an sinh xã hội.Bây giờ chúng ta hãy xét đến những khác biệt do đặc thù về văn hóa xã hội giữaThụy Điển và Việt Nam1) Cư dân Thụy Điển khá thuần nhất về mặt tộc người ở buổi đầu xây dựnghệthống an sinh xã hội, nên việc áp dụng nguyên tắc bao phủ phổ quát cho hệthống không trở thành vấn đề nóng. Trong khi đó, cư dân Việt Nam vừa đông vừarất đa dạng về tộc người, nên vấn đề đưa ai vào và không đưa ai vào đối tượnghưởng an sinh xã hội trong thời buổi đầu v.v. quả là không đơn giản. Những khácbiệt về truyền thống dân chủ và cơ cấu nhà nước giữa Thụy Điển và Việt Namcũng khó bỏ qua.2) Hệ thống an sinh xã hội của Thụy Điển dựa trên cơ sở tạo công ăn việc làm đầyđủ cho hầu hết mọi người (full employment) và đòi hỏi thuế cao để trang trải việccấp kinh phí cho nó. Tuy nhiên sử dụng và tăng thuế thu nhập trực tiếp không phảicon đường dễ làm đối với Việt Nam. Tình trạng thất nghiệp rất nan giải, và trongsốnhững người làm việc thì rất đông người hoạt động trong khối không chính thức,nhận thù lao bằng tiền mặt, nên rất khó đánh thuế thu nhập.3) Thuế ở Thụy Điểnđánh vào cá nhân chứ không phải vào gia đình. điều nàykhuyến khích phụ nữ tham gia khu vực công ăn việc làm có thù lao. Nó có nghĩa làtất cả mọi người đi làm đều phải đóng thuế thu nhập, bất kểgia cảnh của họ ra sao.Mặt khác, để hỗ trợ gia đình, Thụy Điển ban hành những chính sách riêng, táchkhỏi thuế thu nhập của cá nhân, dưới dạng cấp và chuyển tiền cho các gia đình cócon nhỏ và thông qua các dịch vụ nhà trẻ mẫu giáo v.v. điều đáng nói nữa là hệ6Mô hình nhà nước phúc lợiTuy nhiên, vào đầu thập kỷ 1990 mô hình nhà nước phúc lợi Thụy Điển gặp phảinhững thách thức nghiêm trọng. Nền kinh tế bắt đầu bộc lộ những yếu điểm: lạmphát cao, năng suất lao động thấp khiến sức mua của người dân giảm và tính cạnhtranh của các công ty Thụy ĐIển bị suy yếu. Trong giai đoạn 1990-1993, tỷ lệ thấtnghiệp đã tăng cao từ 1,6% lên 8,2%. Tỷ lệ lao động có việc làm cũng giảm từ83,1% xuống 72,6% trong cùng một giai đoạn. Tài chính công cộng bị tổn thươngnặng. Thặng dư ngân sách đang từ 3% GDP năm 1990 đã rơi vào tình trạng thâmhụt ở mức 11% năm 1993Chính phủ Thụy Điển đã nhiều lần cải cách mô hình của mình trong giai đoạnkhủng hoảng như cải cách về hạn chế những lợi ích ốm đau, thanh toán bảo hiểm,cải cách thất nghiệp, giảm trợ cấp trẻ em, đưa ra hệ thống hưu trí mới,... Cùng vớiviệc cải cách hệ thống phúc lợi, những cải cách cơ cấu cũng được chính phủ tiếnthành trong thập kỷ 1990: luật cạnh tranh, luật lao động, vấn đề giá cả,...2.2. Đặc điểm của nhà nước phúc lợi Thụy ĐiểnXã hội Thụy Điển hoạt động không mạnh, chủ yêu là các hoạt động của Nhà thờ.Tuy nhiên các công đoàn đóng vai trò hết sức lớn trong đời sống chính trị cũngnhư kinh tế của đất nước, đặc biệt trong việc xây dựng và củng cố an sinh xã hội.Cho đến năm 2000, 80% lực lượng lao động là thành viên của các công đoàn. Cáctổ chức công đoàn Thụy Điển có vai trò tích cực trong việc đảm bảo an sinh xã hộicho người lao động, thể hiện qua việc đàm phán với nghiệp đoàn của các nhà sửdụng lao động nhằm đạt được sự tăng lương cho người lao động và tổ chức, quảnlý các quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Đặc điểm nổi bật của mối quan hệ Công đoàn vàNghiệp đoàn Các nhà sử dụng lao động là sự nhấn mạnh tính đoàn kết trong cáccuộc thương lượng về lương bổng và các quyền lợi dành cho người lao động. Cáccông đoàn của Thụy Điển có tính ôn hòa cao hơn so với Công đoàn ở các nướcchâu Âu khác. Hiện nay Thụy Điển có 3 tổ chức công đoàn lớn: LO (liên đoànCông đoàn Thụy Điển), TCO (Liên đoàn Công nhân cổ trắng), SACO (Liên đoàncác hiệp hội chuyên nghiệp Thụy Điển).Trong hệ thống an sinh xã hội của Thụy Điển, Nhà nước giữ một vai trò quan trọngtrong việc cung cấp các dịch vụ phúc lợi, tuy nhiên Nhà nước không tham gia vàoquá trình thương lượng về lương bổng trong hoạt động của thị trưởng lao động.Nói cách cách khác, Nhà nước chủ yếu là “đứng ngoài”, vai trò trung lập23Mô hình nhà nước phúc lợităng lên do sức khỏe kém, tai nạn lao động, tuổi già... Kết hợp với di cư hàng loạtthì gia đình và họ hàng không còn là chỗ dựa đáng tin cậy để đảm bảo an ninh kinhtế. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội là mội tất yếu. Thêm nữa, ViệtNam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, một hệthống an sinh xã hội đảm bảo sẽ giúp nước ta nâng cao vị thế trên quốc tế hơn.Do sự khác nhau về kinh tế cũng như văn hóa giữa Việt Nam và Thụy Điển, xâydựng một hệ thống an sinh xã hội mang tính phổ quát như của Thụy Điển có thể sẽlà quá sức với khả năng kinh tế của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, Việt Nam cóthể xây dựng cà thực hiện một số chính sách an sinh phù hợp, từ kinh nghiệm củaThụy Điển1. Việt Nam nên tham khảo phương châm "tất cả mọi người đều phải đóng góp vàoquỹ chung của an sinh xã hội, nhưng chỉ những ai gặp khó khăn mới được nhận hỗtrợ" của Thụy Điển để có nguồn thu vững chắc và cách chi phí đúng đắn cho hệthống an sinh xã hộiDân số Việt Nam hiện nay quá đông và lớn hơn nhiều so với số người thuộc đốitượng hưởng các chương trình phúc lợi ở Thụy Điển vào thời điểm khởi đầu. ThụyĐiển đánh thuế tất cả mọi người có thu nhập, tùy theo mức thu nhập khác nhau,còn ở Việt Nam, chỉ những cá nhân có thu nhập cao mới phải đóng thuế. Vì vậy tạinước ta, ít người đóng thuế còn nhiều người cần trợ giúp, nên thu chi khó cânbằng.2. Tạo dựng lòng tin là một điều kiện cần để mọi người tự giác và trung thực đóngthuế xây dựng an sinh xã hộiTrong hệ thống an sinh xã hội của Thụy Điển, bất cứ ai có thu nhập đều phải đóngthuế, và nhờ đó, họ có quyền hưởng dịch vụ xã hội khi cần với chi phí vừa phải,kết hợp với sự minh bạch và tình trạng tham nhũng không phổ biến, người đóngthuế thấy được lợi ích của việc đóng thuế.Khác với Thụy Điển, hiện nay Việt Nam còn nhiều trở ngại trong việc này.Để sửdụng các dịch vụ xã hội, thường thì họ phải trả mội số tiền tương đối lớn.Điều nàykết hợp với chất lượng dịch vụ kém khiến người đóng thuế không thấy bất cứ lựiích gì trong việc đóng thuế. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ đặt ra phải giải24Mô hình nhà nước phúc lợiquyết là tạo ra và duy trì tính minh bạch của hệ thống an sinh tập thể, xã hội vàchống tham nhũng3. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để đông đảo dân chúng nhận thức được rằngviệc xây dựng hệ thống an sinh tập thể, an sinh xã hội là cần thiết.4. Cần áp dụng thành công những tiến bộ công nghệ vào công cuộc xây dựng vàcủng cố nhà nước phúc lợi5. Gắn liền phát triển kinh tế với việc phân phối phúc lợi xã hội đầy đủ cho toàndânMột nền kinh tế phát triển là phải cân bằng được giữa tăng trưởng kinh tế và pháttriển xã hội. Các dịch vụ xã hội được coi trọng cũng thúc đẩy, làm cơ sở để nềnkinh tế tăng trưởng mạnh hơn và ngược lại.3.3: Những kiến nghị cho Việt Nam- Củng cố bộ máy nhà nước- Điều tiết thu nhập hợp lý- Chú trọng phát triển công nghệ thông tin- Đầu tư có hiệu quả cho công tác giáo dục đào tạo- Tăng cường dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe