Mối quan hệ giữa giáo dục và dạy học

 Chúng ta biết rằng, trong quá trình dạy học có sự biến đổi thường xuyên vốn kinh nghiệm của học sinh, biến đổi cả về số lượng và chất lượng của hệ thống tri thức, biến đổi và phát triển các năng lực người. Cùng với sự biến đổi đó, Trung tâm gia sư cho rằng trong quá trình dạy học những năng lực trí tuệ của học sinh cũng sẽ được phát triển.

Mối quan hệ giữa giáo dục và dạy học
Quan hệ giữa dạy học và phát triển trí tuệ

Trong quá trình nắm tri thức đó, học sinh phải xây dựng cho mình những hệ thống hành động trí tuệ sao cho phù hợp với hệ thống tri thức đó. Hệ thống hành động trí tuệ này được củng cố và khái quát tạo thành những kỹ năng của hoạt động trí tuệ. Nhờ những kỹ năng này, học sinh có khả năng di chuyển rộng rãi và thành thạo các phương pháp hoạt động trí tuệ từ đối tượng này sang đối tượng khác, nhận thức và biến đổi chúng. Khả năng di chuyển rộng rãi và thành thạo các phương pháp hoạt động trí tuệ đó được xem như một trong những điều kiện cơ bản của sự phát triển trí tuệ.

Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy Gia sư sư phạm cũng thấy rằng những mặt khác của năng lực trí tuệ như: Óc quan sát, trí nhớ, óc tưởng tượng của học sinh cũng được phát triển trong học tập. Cho nên, có thể nói dạy học là một trong những con đường cơ bản để giáo dục và phát triển trí tuệ một cách toàn diện.

Mối quan hệ giữa giáo dục và dạy học
Mối quan hệ giữa dạy học và phát triển trí tuệ

Hơn nữa, trong quá trình dạy học nói chung, học tập nói riêng không phải chỉ có một chức năng tâm lí riêng lẻ nào đó tham gia, mà nó là một hoạt động thống nhất của toàn bộ nhân cách cá nhân. Vì lẽ đó, dạy học không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực trí tuệ mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển các mặt khác của nhân cách như: nhu cầu nhận thức, hứng thú học tập, động cơ học tập, lòng ham hiểu biết, khát vọng tìm tòi....

Ngược lại, trí tuệ nói riêng và các chức năng tâm lý khác nói chung được phát triển lại có ảnh hưởng trở lại đến quá trình dạy học, quá trình lĩnh hội tri thức. Nhờ sự phát triển các năng lực trí tuệ, ở học sinh được nảy sinh những khả năng mới giúp cho họ nắm kiến thức tốt hơn, đảm bảo chất lượng của hoạt động học tập cao hơn.

Tóm lại, ta có thể nói rằng: Trong quá trình dạy học việc nắm vững tri thức và phát triển trí tuệ tác động qua lại hết sức chặt chẽ. Sự phát triển trí tuệ vừa là kết quả lại vừa là điều kiện của việc nắm vững tri thức của hoạt động học tập.

Trung tâm gia sư Đức Minh

XEM THÊM:

 ►  Làm gia sư

 ►  Liên hệ

 ►  Đăng ký tìm gia sư

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON BÀI GIẢNG (Lưu hành nội bộ) NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC (Dành cho sinh viên ngành ĐHGD Tiểu học) Tác giả: Nguyễn Thị Thùy Vân Nguyễn Thị Diễm Hằng 1 MỤC LỤC Trang CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC ................................... 4 1.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học................................................... 4 1.2. Những khái niệm cơ bản của giáo dục học............................................... 5 1.3. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt.............................................. 7 1.4. Chức năng và nhiệm vụ của giáo dục....................................................... 9 1.5. Cấu trúc của quá trình giáo dục ............................................................. 10 1.6. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục học ................. 13 1.7. Hệ thống các khoa học về giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục học với các khoa học khác ........................................................................................ 17 1.8. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục ................................... 19 CHƯƠNG 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH .................... 21 2.1. Sự phát triển nhân cách của con người................................................... 21 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách................................. 24 CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ................................ 29 HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN ............................................................ 29 3.1. Khái niệm mục đích, mục tiêu giáo dục và mối quan hệ giữa mục đích và mục tiêu giáo dục ......................................................................................... 29 3.2. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .......................... 31 3.3. Hệ thống giáo dục quốc dân................................................................... 40 CHƯƠNG 4. NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC............................................... 45 4.1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên tiểu học ..................... 45 4.2. Đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên tiểu học ..................... 48 4.3. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên tiểu học ........... 52 4.4. Các mối quan hệ công tác của người giáo viên tiểu học trong hoạt động sư phạm........................................................................................................ 57 4.5. Vấn đề bồi dưỡng, hoàn thiện nhân cách của người giáo viên tiểu học .. 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 61 2 LỜI NÓI ĐẦU Những vấn đề chung của giáo dục học là một trong những môn học then chốt của chương trình đào tạo đại cương ở các trường Đại học và Cao đẳng. Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của sinh viên thuộc ngành giáo dục tiểu học, chúng tôi biên soạn tập giáo trình này. Trong khi biên soạn, nhóm tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc nhiều tài liệu hiện có trong và ngoài nước, đồng thời mạnh dạn mở rộng, bổ sung nhiều vấn đề hiện đại mang tính cập nhật như: Vấn đề di truyền; vai trò, chức năng, nhiệm vụ người giáo viên mầm non, đặc điểm lao động sư phạm người giáo viên mầm non… cho nên giáo trình này là tài liệu tham khảo bổ ích đối với cán bộ giảng dạy, sinh viên thuộc ngành giáo dục tiểu học. Trong quá trình biện soạn giáo trình khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và độc giả Xin chân thành cảm ơn 3 CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC 1.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học Đối tượng của GDH là một trong những phạm trù cơ bản nhất của GDH. Nó trả lời cho câu hỏi: GDH nghiên cứu cái gì? Trong điều kiện KHKT và CN phát triển như vũ bão hiện nay đối tượng của các khoa học luôn luôn biến động và thường phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, tìm hiểu đối tượng GDH là cần thiết. Trước khi nghiên cứu đối tượng của GDH, ta hãy tìm hiểu đối tượng của khoa học nói chung. Đối tượng của khoa học là vùng, miền, lĩnh vực của thực tiễn khách quan mà khoa học đó nghiên cứu. Mỗi khoa học có một đối tượng riêng và trong việc quản lí hệ thống các lĩnh vực khoa học nó có kí hiệu riêng mà người ta gọi là mã số. Đối tượng của GDH là một vấn đề đã được trao đổi, thảo luận và biên soạn trong nhiều tài liệu khác nhau. Tuy nhiên, đến nay đối tượng của GDH được nhiều ngành thừa nhận đó là quá trình dạy học- giáo dục. Quá trình dạy học - giáo dục là một quá trình xã hội phức tạp, nhiều mặt và lâu dài. Đó là một khái niệm rất quan trọng và khó. Có thể xem quá trình dạy học- giáo dục là một hệ thống bao gồm những yếu tố sau: - Mục đích giáo dục - Nội dung giáo dục - Phương pháp giáo dục - Hình thức giáo dục - Phương tiện giáo dục - Kiểm tra và đánh giá trong giáo dục Quá trình dạy học - giáo dục diễn ra liên tục, bao gồm nhiều hoạt động, nhiều quá trình kế tiếp nhau: giờ học, năm học, cấp học... Mỗi quá trình có mục đích riêng ngày càng được nâng cao và vận động từ điểm xuất phát tới mục đích cuối cùng. Vận dụng mô hình trên đây cho các lứa tuổi và bậc học khác nhau (mầm non, phổ thông, đại học), ở các vùng đại lí khác nhau (thành thị, nông thôn, miền núi...), các quy mô khác nhau (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc...) ta sẽ có những mô hình dạy học- giáo dục cụ thể. Quá trình dạy học- giáo dục cũng có thể được tiếp cận dưới các quan điểm khoa học khác nhau: nhận thức luận, tâm lí học, xã hội học, điều khiển học, kinh tế học... Nếu quan niệm quá trình dạy học- giáo dục như trên thì phạm vi nghiên cứu bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn. Nhưng trước một đối tượng rộng lớn như vậy điều quan trọng là trong từng giai đoạn phải xác định được một số điểm trọng tâm nhằm làm cho việc tổ chức nghiên cứu có tính định hướng và tập trung, tránh tản mạn là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến hiệu quả giáo dục thấp. Mặt khác, dạy học- giáo dục là một hiện tượng xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, giáo dục học và khoa học nói chung đã ra đời từ nhiều thế kỷ. Nhưng hệ 4 thống tri thức giáo dục phát triển chậm, đến nay vẫn còn nghèo nàn, chưa giải quyết được nhiều vấn đề xã hội đặt ra. Điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm những giải pháp kiên quyết, tích cực, có hệ thống nhằm phát triển nhanh chóng hệ thống tri thức giáo dục học. 1.2. Những khái niệm cơ bản của giáo dục học 1.2.1. Một số khái niệm giáo dục học Khi nói đến hệ thống tri thức của một khoa học thì thành phần cơ bản và quan trọng nhất phải kể đến các khái niệm. Nói cách khác, khái niệm và phạm trù là những viên gạch tạo nên tri thức khoa học. Vì vậy, một đề tài, một công trình nghiên cứu thường được bắt đầu bằng việc tìm hiểu các khái niệm, phạm trù. Sau đây là một số kahí niệm giáo dục học mà chúng ta thường gặp: - Giáo dục, dạy học, giáo dưỡng, giáo dục (theo nghĩa hẹp); - Mục đích, nội dung, phương tiện, kết quả; - Đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, giáo dục lao động và hướng nghiệp; - Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học; - Giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy, giáo dục thường xuyên; - Giáo dục trên lớp, giáo dục ngoài lớp, ngoài trường; - Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội vv... Cùng với những khái niệm này, nhiều khái niệm triết học, văn hoá học, xã hội học, tâm lí học vv... cũng đã gia nhập vào hệ thống các khái niệm giáo dục học với những nội dung vừa mang tính chất chung vừa mang tính đặc thù, như: nhân cách và giáo dục nhân cách trong quá trình giáo dục, nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục, nhân tố sinh học và nhân tố xã hội trong giáo dục, các laọi hình hoạt động và các dạng giao lưu trong quá trình giáo dục, xã hội hoá con người, hệ thống giá trị và định hướng giá trị vv... 1.2.2. Những khái niệm cơ bản 1.2.2.1. Giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình tổ chức một cách có mục đích, kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm phát triển sức mạnh vật chất và tinh thần của thế hệ đang lớn lên, trên cơ sở giúp họ chiếm lĩnh những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài ngưòi. Việc tổ chức quá trình đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn, gọi là nhà giáo dục, nhà sư phạm đảm nhiệm, nói tổ chức chủ yếu quá trình đó gọi là nhà trường. Có thể thấy quá trình giáo dục gồm 3 thành phần cơ bản: thầy giáo, học sinh và tài liệu giáo khoa. Quá trình giáo dục không thể xảy ra nếu thiếu một trong 3 thành phần này. Trong khoa học và đời sống, ngoài khái niệm quá trình giáo dục ta còn gặp các khái niệm quá trình hình thành con người, quá trình xã hội hoá con người, quá trình hình thành nhân cách... 5 Quá trình hình thành con người rộng hơn quá trình giáo dục. Quá trình hình thành con người bao gồm các mặt: sinh học, tâm lí xã hội, giáo dục học... diễn ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong(bẩm sinh di truyền, kinh nghiệm, tính tích cực của chủ thể...) và các nhân tố bên ngoài (môi trường tự nhiên, xã hội). Quá trình hình thành con người chịu ảnh hưởng các tác động tự phát, ngẫu nhiên không kiểm soát được và của các tác động có mục đích, có tổ chức, kiểm soát được. Như vậy, quá trình hình thành con người là việc làm của toàn xã hội chứ không riêng của ngành giáo dục. Quá trình xã hội hoá con người là quá trình hình thành con người nhưng chỉ bao hàm các tác động do những nhân tố xã hội gây nên, vừa mang tính chất tự phát, ngẫu nhiên, vừa mang tính tự giác, có mục đích, có tổ chức. Theo nghĩa rộng, xã hội hoá con người là một quá trình hai mặt, bao gồm: một mặt cá nhân lĩnh hội kinh nghiệm xã hội bằng cách gia nhập môi trường xã hội, hệ thống các quan hệ xã hội, mặt khác cá nhân tích cực tham gia vào các mối liên hệ xã hội, bằng hoạt động sống của mình, bằng sự tham gia tích cực vào môi trường xã hội. Tuy về lí luận hai khái niệm qua strình giáo dục và quá trình hình thành con người được xác định tương đối rõ. Nhưng trong đời sống, trong hoạt động thực tiễn hiện nay khái niệm quá trình giáo dục thường được mở rộng ra. Nhất là trong điều kiện hiện đại, khi xã hội đòi hỏi phải giáo dục con người ở mọi nơi, mọi lúc, giáo dục thường xuyên, suốt đời...thì khái niệm quá trình giáo dục trước đây được mở rộng cũng là điều hợp lí. Đó là điều chú ý khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục học. 1.2.2.2. Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo) để phát triển nhưũng năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục. Thế mạnh của dạy học là hình thành hệ thống tri thức (bao gồm các khái niệm, phạm trù, quy luật, phương pháp nhận thức...) hình thành các kĩ năng và kĩ xảo chung và riêng, làm cơ sở cho việc hình thành năng lực chung, năng lực chuyên biệt và phẩm chất của người học. Bằng con đường nhận thức lí luận, những kinh nghiệm đồ sộ của xã hội loài người có thể được khái quát hoá và truyền thụ cho thế hệ đang lớn lên trong một thời gian ngắn và có hệ thống. Nhờ đó, họ có điều kiện để kế thừa và phát triển sức mạnh tinh thần và vật chất của bản thân và góp phần vào việc phát triển xã hội. đó là vai trò quan trọng đặc biệt của dạy học. 1.2.2.3. Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình hình thành niềm tin, lí tưởng, tình cảm, thái độ... Việc hình thành lí tưởng, niềm tin, thái độ... là thế mạnh của quá trình giáo dục và thường được tiến hành thông qua sinh hoạt tập thể, các hoạt động xã hội, lao động xã hội công ích, trong và ngoài nhà trường... Tóm lại, mối quan hệ giữa quá trình giáo dục (QTGD) theo nghĩa rộng, quá trình dạy học (QTDH) và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) có thể biểu diễn dưới sơ đồ sau: 6 QTGD (nghĩa rộng) = QTDH + QTGD (nghĩa hẹp) Lưu ý: - QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) đều có một mục đích chung là đào tạo con người phát triển toàn diện nhưng mỗi quá trình có một thế mạnh riêng. - QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) trong thực tế luôn gắn bó chặt chẽ với nhau rất ít trường hợp diễn ra một cách độc lập. - QTDH không chỉ làm nhiệm vụ hình thành hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Bởi vì khi các em đã nhận thức được vấn đề bao giờ cũng có thái độ với nó, dẫu thầy giáo có chú ý đến điều đó hay không. Tuy nhiên, thái độ của các em phụ thuộc rất lớn vào nghệ thuật trình bày vấn đề và thái độ của thầy giáo. - Trong thực tiễn dạy học hiện nay, nhà trường thường tập trung mọi nỗ lực của mình vào quá trình dạy học, ít chú ý đến quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) nghĩa là ít tổ chức sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội, hoạt động lao động công ích và lao động sản xuất..., ít chú ý đến việc học tập, rèn luyện trong đời sống, vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn, không có điều kiện rèn luyện ý chí, phẩm chất và năng lực ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên học sinh rất bỡ ngỡ khi bước vào cuộc sống. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng giáo dục hiện nay. Vì vậy, việc tách quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) ra khỏi quá trình dạy học là để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống nhà trường. 1.3. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt 1.3.1. Tại sao gọi giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt? Từ khi xuất hiện xã hội loài người, để có thể tồn tại và phát triển, trong lao động và trong cuộc sống hằng ngày, con người không ngừng tìm tòi và khám phá thế giới, tích luỹ kinh nghiệm lịch sử, xã hội. Nhờ đó loài người đã dần dần phát triển và nắm vững ngày càng nhiều quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan, tích luỹ, hệ thống hoá ngày càng nhiều kinh nghiệm phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt động. Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội, con người có nhu cầu truyền lại cho nhau những kinh nghiệm đã tích luỹ được. Thế hệ trước truyền đạt cho thế hệ sau vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, đến lượt mình thế hệ sau kế thừa và phát triển, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Chính nhu cầu này là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục. Ban đầu giáo dục diễn ra một cách tự phát theo lối quan sát, bắt chước nhưng về sau nó được diễn ra một cách tự giác, có kế hoạch, có ý thức, có nội dung, có phương pháp. Có thể khẳng định: Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã hội. Nó là một hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển vĩnh hằng cùng với sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của xã hội loài người.Việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm là nét đặc trưng cơ 7 bản của hoạt động giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội, là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là nhu cầu quan trọng của xã hội loài người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã có nhiều kiểu giáo dục liên tục phát triển. Mỗi kiểu giáo dục đều phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và hoàn cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó. Lịch sử giáo dục đã chứng minh giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là thành phần trong cơ cấu, thiết chế xã hội, gắn liền với sự thoả mãn nhu cầu phát triển và tiến bộ xã hội. 1.3.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục 1.3.2.1. Tính lịch sử - xã hội của giáo dục Mỗi chế độ xã hội khác nhau có mỗi nền giáo dục tương ứng. Mỗi nền giáo dục phản ánh yêu cầu và trình độ phát triển của xã hội. Do đó, giáo dục bao giờ cũng biến đổi không ngừng, bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể. Ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, giáo dục chủ yếu giành cho tầng lớp trên, đi học với mục đích thi cử làm quan. Giáo dục Việt Nam hiện nay nhằm đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. - Ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng với đặc trưng về mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức. Vì thế, không nên sao chép, áp đặt nguyên bản mô hình giáo dục của các nước phương Tây cho nền giáo dục Việt Nam hoặc cũng không nên giữ nguyên mô hình giáo dục đã hình thành trước đây áp dụng cho nền giáo dục hiện đại. 1.3.2.2. Tính giai cấp của giáo dục Trong xã hội có sự phân chia giai cấp thì giáo dục mang tính giai cấp vì giai cấp thống trị sử dụng giáo dục làm công cụ bảo vệ quyền lợi của mình, sử dụng giáo dục để truyền bá tư tưởng, đường lối, chủ trương của giai cấp đó. Mặt khác, giai cấp thống trị biến giáo dục thành phương tiện để đào tạo lớp người phục vụ xã hội. Tính giai cấp của giáo dục được thể hiện rõ nét ở mục đích, nội dung, nhiệm vụ và phương pháp đào tạo. Xã hội Việt Nam hiện nay có sự phân chia giai cấp. Giáo dục cũng mang tính giai cấp. Tuy nhiên, các giai cấp trong xã hội Việt Nam không mâu thuẫn về quyền lợi mà bình đẳng với nhau, tính giai cấp là tiếng nói chung của toàn xã hội. Nền giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện hài hoà nhân cách của mọi thành viên trong xã hội. 1.3.2.3. Tính kế thừa của giáo dục 8 Giáo dục bao giờ cũng có tính kế thừa. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau, kế thừa giữa các nền giáo dục vì đặc trưng của giáo dục là sự kế thừa kinh nghiệm, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đúc kết lại trong quá trình xây dựng và phát triển giáo dục theo lịch sử phát triển xã hội. Tính kế thừa của giáo dục đòi hỏi một mặt phải nghiên cứu, tiếp thu, phát triển những yếu tố tiến bộ, những kinh nghiệm quý báu của các nền giáo dục trước, mặt khác phải biết phê phán, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển mới của giáo dục, của xã hội. 1.4. Chức năng và nhiệm vụ của giáo dục 1.4.1. Chức năng của giáo dục 1.4.1.1. Chức năng kinh tế - sản xuất Trong điều kiện phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ tăng cường mối liên hệ giữa khoa học với sản xuất để biến khoa học thành một lực lượng sản xuất trực tiếp mà phải thực hiện sự tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và sản xuất. Hiệu quả của nền sản xuất vất chất phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển chung về mặt nhận thức và trình độ chuyên môn của người lao động. Trình độ học vấn và chuyên môn giúp cho người lao động có khả năng tiếp cận và vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào lao động để tác động đến việc hoàn thiện công cụ lao động, biến lao động thành hoạt động sáng tạo. Cho nên, quan hệ giữa trình độ của người lao động với năng xuất lao động đã được coi là quy luật cơ bản của nền sản xuất hiện đại. Trình độ chuyên môn của người lao động càng cao thì năng xuất lao động càng cao. Giáo dục đào tạo nhân lực cho tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển. Như vậy, giáo dục trực tiếp tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra sức lao động mới hơn, tinh vi hơn, khéo léo hơn để thay thế sức lao động cũ bằng cách phát triển những năng lượng chung và năng lực chuyên biệt của con người. Để thực hiện tốt chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục phải thoả mãn một số yêu cầu cơ bản sau: - Giáo dục phải gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế- sản xuất và thoả mãn các yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn cụ thể. - Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp. - Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh tình trạng thừa thầy thiếu thợ, đồng thời phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có phẩm chất tốt để thoả mãn các yêu cầu sản xuất hiện đại. 1.4.1.2. Chức năng chính trị - xã hội Giáo dục trực tiếp tác động tới cấu trúc xã hội, làm phân hoá các tầng lớp xã hội, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, làm thay đổi vị trí xã hội của mỗi người. Trong xã hội có giai cấp thì giáo dục là công cụ nhằm truyền bá quan điểm, đường lối của giai cấp thống trị để đảm bảo ổn định chính trị. 9 Giáo dục góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Thông qua việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá cho toàn dân và đào tạo nguồn nhân lực góp phần xoá đói, giảm nghèo, góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi cấu trúc lao động xã hội và tạo ra sự bình đẳng trong các tầng lớp dân cư. Góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh thần “do dân, vì dân”. 1.4.1.3. Chức năng tư tưởng - văn hoá Giáo dục có vai trò truyền bá hệ tư tưởng của xã hội, xây dựng lối sống mới, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho toàn xã hội. Mặt khác, giáo dục phát huy truyền thống tư tưởng, văn hoá tốt đẹp của dân tộc, của xã hội, xây dựng nền văn hoá mới, tư tưởng mới theo yêu cầu phát triển xã hội; đào tạo bồi dưỡng nhân tài cho xã hội; góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức, thế giới quan, ý thức hệ và chuẩn mực xã hội. Với chức năng này, giáo dục tiến hành nâng cao dân trí, đồng thời xoá bỏ các tàn dư văn hoá lạc hậu, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. 1.4.2. Nhiệm vụ của giáo dục học - Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục với nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong điều kiện mới, phát hiện các nhân tố mới mang tính quy luật trong sự phát triển giáo dục hiện nay (trong nội dung như các vấn đề giáo dục quốc tế, giáo dục môi trường; trong phương pháp như các vấn đề tự học, phát huy nội lực của người học) - Các vấn đề về hệ thống giáo dục quốc dân trong tiến trình đổi mới và phát triển những yêu cầu lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong công tác quản lý giáo dục - Nghiên cứu làm rõ vấn đề giáo dục giá trị trong điều kiện xã hội hiện đại, đó là cách tốt nhất góp phần hình thành nhân cách, giúp con người sáng tạo ra các giá trị mới. Các nhiệm vụ trên vừa có tính định hướng cho mọi hoạt động nghiên cứu, sáng tạo trong phạm vi giáo dục học, vừa có ý nghĩa thiết thực đối với quá trình điều chỉnh, hoàn thiện quá trình giáo dục. 1.5. Cấu trúc của quá trình giáo dục - Qúa trình giáo dục (sư phạm tổng thể) là sự thống nhất của hai quá trình bộ phận: quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Cả hai quá trình đều thực hiện chức năng chung của giáo dục trong việc hình thành nhân cách toàn diện. Song mỗi quá trình đều có chức năng trội của mình và dựa vào chức năng trội đó để thực hiện các chức năng khác nhau. Chức năng trội của quá trình dạy học là trau dồi học vấn, là truyền thụ và lĩnh hội một hệ thống tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và hành động. Chức năng trội của quá trình giáo dục là xây dựng một hệ thống niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, tính cách, thói quen, là hình thành những phẩm chất thế giới quan chính trị, đạo đức…của cá nhân. 10 - So sánh quá trình dạy học và giáo dục: Qúa trình dạy học Qúa trình giáo dục Có thế mạnh trong việc hình thành niềm tin, chuẩn mức, lý tưởng, động cơ, nguyên tắc hành vi đạo đức…nghĩa là ảnh hưởng của nó thiên về thái độ, cảm xúc, tâm hồn. Chương trình, kế hoạch dạy học được quy định chặt chẽ Về chức năng, nhiệm vụ Có thế mạnh trong việc hình thành các biểu tượng, khái niệm, định luật, lý thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo nghĩa là ảnh hưởng của nó thiên về trí tuệ, nhận thức. Nội dung giáo dục chỉ có tính định hướng: có thể là sinh hoạt văn hóa, chính trị, xã hội, lao động nghệ thuật, thể thao, du lịch…có tính chất quần chúng. Nội dung giáo dục được xác định chủ yếu dựa theo nhu cầu xã hội, nguyên vọng và hứng thú của tập học sinh ở từng lứa tuổi khác nhau. Người thầy kết hợp với học sinh và phụ huynh học sinh để lựa chọn các hoat động giáo dục nhằm đảm bảo yêu cầu giáo duc toàn diện. Về nội dung Về hình thức Về quản lý Khi dạy học, các hình thức Trong quá trình giáo dục thì thường được sử dụng là: giờ lên lớp, các hình thức thường được sử dụng là: sinh hoạt tập thể, hoạt xemine, thực hành thí nghiệm… động xã hội, tham quan, lao động xã hội – công ích… Người lãnh đạo quá trình dạy học Người lãnh đạo là đại diện của tập thể học sinh như lớp chủ yếu là thầy giáo. trưởng, cán bộ đoàn, đội với sự giúp đỡ của các thầy giáo chủ nhiệm. - Qúa trình giáo dục tổng thể cũng như quá trình giáo dục bộ phận đều được tạo nên bởi các yếu tố sau: * Mục đích, nhiệm vụ giáo dục Mục đích giáo dục có thể được coi là “đơn dặt hàng” của xã hôị đối với nền giáo dục về mẫu nhân cách người được giáo dục, mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp 11 ứng yêu cầu của xã hội về giáo dục con người lao động trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội. Để thực hịên tốt mục đích này, giáo dục phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo dục: giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo dục lao động. Những nhiệm vụ này liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và thâm nhập vào nhau. Mục đích và nhiệm vụ giáo dục được coi là yêú tố hàng đầu của quá trình giáo dục tổng thể hoặc bộ phận vì nó định hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ quá trình giáo dục này cũng như cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác. * Nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục bao gồm hệ thống những giá trị xã hội mà người được giáo dục cần tiếp nhận để phát triển nhân cách theo những yêu cầu mà xã hội đặt ra. Đó là hệ thống những giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa, khoa học, công nghệ…được lựa chọn trong kho tàng giá trị của nhân loại. Nội dung giáo dục, về cơ bản, được phản ánh trong chương trình và sách giáo khoa. Nó tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm đạt mục đích giáo dục đã định. * Phương pháp và phương tiện giáo dục Phương pháp và phương tiện giáo dục quy định những cách thức và những phương tiện hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hoàn thành nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đã định. Phương pháp và phương tiện giáo dục là hai yếu tố độc lập nhưng trong thực tiễn giáo dục, chúng luôn được thực hiện trong mối liên hệ biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau và tạo ra sức sống cho nhau. * Nhà giáo dục Nhà giáo dục cùng tập thể sư phạm của họ đóng vai trò định hướng, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh và đánh giá hoạt động nhận thức và tự giáo dục của người được giáo dục. Nói gọn lại, đó là vai trò chủ đạo của nhà giáo dục. *Người được giáo dục Người được giáo dục, cùng với tập thể của họ một mặt là đối tượng giáo dục, tiếp nhận sự tác động có định hướng của nhà giáo dục; mặt khác là chủ thể nhận thức, chủ thể tự giáo dục. Hai vai trò thống nhất với nhau, trong đó vai trò chủ thể là cơ bản nhất. *Kết quả giáo dục Kết quả giáo dục là trình độ phát triển nhân cách của người được giáo dục đạt được sau mỗi quá trình giáo dục nhất định và sau toàn bộ quá trình giáo dục. Đồng thời kết quả này cũng được coi là kết quả sinh động của sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục bộ phận và của quá trình giáo dục tổng thể. 12 Những yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và thống nhất với nhau. Ví dụ: mục đích, nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác; về phần mình các yếu tố khác lại phục vụ cho việc hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đề ra. Những yếu tố trên đây có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, thống nhất với môi trường kinh tế - xã hội và môi trường khoa học - công nghệ. Các môi trường đặt ra các yêu cầu cho quá trình giáo dục ngày càng cao, đòi hỏi quá trình giáo dục phải đào tạo ra những người công dân, những người lao động theo mẫu nhân cách nhất định, mặt khác, lại tạo điều kiện thuận lợi để quá trình này đạt đựơc những kết quả với chất lượng và hiệu quả cao. *Cả quá trình giáo dục tổng thể lẫn các quá trình giáo dục bộ phận và từng yếu tố của nó đều là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học 1.6. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục học 1.6.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học giáo dục * Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động xã hội bình thường trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung của xã hội. Vào thời kỳ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như: Khổng Tử (551 - 479 TCN); Xôcrát (469 - 399 TCN); Arixtôt (384 - 322 TCN); Platôn (427 347 TCN)... - Xôcơrát (469 - 399 TCN): là nhà giáo dục thực hành, ông quan niệm giáo dục phải giúp con người tìm thấy, tự khẳng định chính bản thân mình, vì thế tư tưởng của ông mang giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo dục ông nổi tiếng là nhà sáng tạo. Bao giờ ông cũng nêu câu hỏi để người học suy nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40 năm hoạt động, ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lí và sự can đảm trong việc bảo vệ chân lí… - Platôn (427 - 347 TCN): là học trò của Xôcơrát, ông đã có công sưu tập, ghi lại và xuất bản phần lớn các tác phẩm của Xôcơrát. Theo ông, việc giáo dục trước hết liên quan tới đạo đức, tâm lí học, xã hội học. Ông cho rằng, sống đạo đức trước hết là sống công bằng, một cá nhân được xem là công bằng khi nội tâm đảm bảo được sự thăng bằng giữa 3 yếu tố: dục vọng, sự can đảm và lý trí, nhưng “hành động của con người chỉ hợp lý nếu cái bụng và trái tim chịu sự phục tùng cái đầu”. Ông cũng cho rằng, con người và xã hội chỉ có thể đạt tới hạnh phúc bởi một nền giáo dục quốc gia. Mỗi con người phải được giáo dục như nhau ngay từ ngày đầu. Đây là quan điểm tiến bộ, song không phù hợp với thể chế của xã hội nô lệ. - Khổng Tử (551 – 479 TCN): là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của nhân loại. Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo nên những người nhân nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục, Khổng Tử đã sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông đã dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn đòi hỏi người 13 học phải tích cực suy nghĩ để nắm vững vấn đề; ông đòi hỏi người phải luyện tập, nề nếp và thói quen trong học tập, theo hướng “ôn cũ để biết cái mới”. Để gắn nội dung giáo dục với cuộc sống, ông còn dùng phương pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ những điều đã học vào thực tế hàng ngày… Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa học, triết học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày trong các tác phẩm triết học và khoa học nói chung… * Ở phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trò độc tôn của nhà thờ đã có ảnh hưởng rất rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng giáo dục nói riêng. Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc lập. Ở Tây Âu, vào thời kỳ Trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho thần học. Thời ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp và dung hòa lý trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tôn giáo, chính đó là sự thể hiện nguồn gốc nảy sinh ra triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ cũng định hướng và ở vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học. Đến thế kỷ XII - XIII ở Tây Âu đã hình thành ba loại trường: Trường tu viện; trường của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại trường này chỉ dạy giáo lý, kinh bản. Sau đó dạy thêm số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Bên cạnh trường tôn giáo có hệ thống giáo dục kị sĩ, với nội dung giáo dục “Bảy đức tính của kỵ sĩ”: Cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo, đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kị sĩ ở Tây Âu đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời. * Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất hiện, nhân loại bước vào thời đại Phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến xuất hiện, tạo nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng giáo dục tiến bộ: Vượt ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện - tôn giáo, hướng về chủ nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng con người cần được phát triển toàn diện. Chính bước quá độ từ chế độ phong kiến qua chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện những hệ thống tri thức mới ra đời, trong đó có nhiều khoa học tách ra khỏi triết học. Giáo dục học từ đây cũng tồn tại và phát triển như là một khoa học độc lập do công của nhà giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc Comenxki (1592 - 1670). Ông là nhà lý luận và là nhà tư tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ cập, việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà trường và nêu ra luận chứng chặt chẽ trong tác phẩm nổi tiếng: “Phép giảng dạy vĩ đại”. Rất nhiều nguyên tắc dạy học vẫn được sử dụng đến ngày nay như: Nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tính khoa học và tính hệ thống trong dạy học vv… đã được nêu bật trong tác phẩm ấy. Sau Comenxki, xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu giáo dục học, như Lốccơ (1632 1701), Rútxô (1712 - 1778),… trong đó phải kể đến Petxtalogi, ông đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của việc kết hợp lao động với học tập, nhấn mạnh tác dụng vai trò của trực 14 quan trong dạy học và giáo dục và vạch ra một hệ thống các phương pháp giáo dục chung. Cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tư bản, kinh tế - xã hội, văn hóa và khoa học phát triển rất nhanh, giáo dục đã được nâng cao. Tuy vậy, mâu thuẫn xã hội cũng đã xuất hiện và ngày càng gay gắt, tất cả đều được phản ánh rõ nét trong hệ tư tưởng, trong đời sống xã hội. * Vào nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự phát triển chung của khoa học, giáo dục học cũng đã phát triển và thể hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm lí luận giáo dục của giai cấp tư sản và lợi ích giáo dục của nhân dân. Nhiều nhà giáo dục tiến bộ, như A. Dixtécvéc (1790 - 1866), A. XanhXimông (1760 - 1837)… đã tiếp tục phát triển quan điểm giáo dục của Petxtalozi, họ không những kế thưa tư tưởng giáo dục tiến bộ của ông mà còn phát triển, làm phong phú thêm, xây dựng cơ sở cho các quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa về sau, nâng cao tầm tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong giáo dục. * Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX, giáo dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học, làm cho giáo dục học tiếp thu, kế thừa và phát huy được toàn bộ thành tựu của các tư tưởng giáo dục tiến bộ của nhân loại, gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của giáo dục với công cuộc đấu trành giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, mọi tệ nạn xã hội, góp phần tổ chức lại xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển những giá trị tinh hoa trong di sản giáo dục của nhân loại, học thuyết Mác - Lênin về giáo dục đã chứng minh một cách khoa học các vấn đề có tính quy luật trong giáo dục như: Sự hình thành con người, tính quy định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển của xã hội và vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp. Những luận điểm trên đã được xem là các quan điểm cơ bản, có vai trò định hướng cho mọi quá trình nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục, giúp cho giáo dục học ngày càng phong phú và phát triển sâu rộng như ngày nay. 1.6.2 Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học ở Việt Nam Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục nước ta trong thời gian qua, phân tích bối cảnh trong nước và ngoài nước, nhận định về thời cơ và thách thức đối với giáo dục trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực tiễn giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới - công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục(2005), Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã thể hiện những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục ở nước ta như sau: 1. Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối 15 với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù. 2. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách. 3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng. 4. Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng. 1.6.3. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học thế giới Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sự hình thành nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa… đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Xu thế phát triển giáo dục thế giới đã được UNESCO khái quát thành 21 điểm với các tư tưởng chủ yếu: - Giáo dục thường xuyên phải là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; giáo dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây dựng một xã hội học tập. Giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành người dạy và người kiến tạo nên sự tiến bộ văn hóa của bản thân - Giáo dục không chỉ dạy cho con người có học vấn mà phải thực hành, thực nghiệm để có tay nghề, vào đời không bỡ ngỡ. Phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, chú ý giáo dục hướng nghiệp để có thể lập thân, lập nghiệp - Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục tiêu lớn trong chiến lược giáo dục. Giáo dục phổ thông cơ sở phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách giáo dục. - Giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải thích nghi với người học chứ không phải áp đặt máy móc buộc người học tuân theo. 16 Các nước trên thế giới đang tiến hành cải cách giáo dục theo các hướng lớn sau: - Tăng cường giáo dục nhân văn - Công nghệ - thông tin - Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỹ năng, năng lực thực sự đóng góp vào sự phát triển xã hội. - Hiện đại hóa các phương pháp day học – giáo dục Nền giáo dục Việt Nam cũng đang trên con đường đổi mới nhằm đáp ứng với những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Các giải pháp chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay là: - Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục – đào tạo. - Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy - người học - Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất các trường học - Đổi mới công tác quản lý giáo dục - Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục * Các định hướng phát triển giáo dục trên thế giới và trong nước ở trên đã vạch ra cho Giáo dục học những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu: - Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học giáo dục - Nghiên cứu hoàn thiện các cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục trong giai đoạn mới, xác định mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự phát triển kinh tế - xã hội. - Nghiên cứu các vấn đề về đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học – giáo dục đáp ứng với sự phát triển thực tiễn - Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình dạy học – giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục… Tóm lại, tất cả các vấn đề trong Giáo dục học đều cần phải được nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện theo hướng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn, làm cho Giáo dục học góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nến giáo dục quốc dân đáp ứng với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội. 1.7. Hệ thống các khoa học về giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục học với các khoa học khác 1.7.1. Các khoa học về giáo dục - Lịch sử giáo dục học : Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải vận dụng “nguyên tắc lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy, lịch sử giáo dục học có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước hết đối với giáo dục học. Nhờ quán triệt quan điểm đối với các hiện tượng giáo dục (của các thời đại khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng đắn bản chất xã hội của giáo dục ở từng thời đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên tục của giáo dục. 17 Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt xuất, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục có giá trị trong nước và trên thế giới, giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi mới, bắt kịp xu thế của thời đại. - Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó cũng bao gồm nhiều phân môn khác nhau như: giáo dục học vườn trẻ, mẫu giáo, giáo dục học cho lứa tuổi đi học. Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành chuyên môn – nghề nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học kĩ thuật…). Tuy đối tượng phục vụ có khác nhau, nhưng các phân môn giáo dục học kể trên đều có cơ sở chung là lí luận giáo dục học đại cương, từ những kiến thức và kĩ năng này mà vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở những lĩnh vực khác nhau. - Ngành giáo dục học chuyên biệt (đặc biệt) cũng là một bộ phận của giáo dục học có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ có tật nguyền về thị giác, thính giác hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ. - Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ môn có vai trò quan trọng như : Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa, sinh, kĩ thuật, v.v..còn gọi là “lí luận dạy học bộ môn" Tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau nhưng các phân môn giáo dục học đều có cơ sở chung là giáo dục học đại cương, từ nhưũng kiến thức và kỹ năng này mà vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở các lĩnh vực khác nhau. 1.7.2. Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục học là một khoa học xã hội, nó có liên quan mật thiết với các khoa học, trước hết là với các khoa học xã hội. Giáo dục học có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học như đạo đức học, mỹ học, kinh tế học, văn học… * Với triết học Mác - Lê nin : Triết học Mác - Lê nin là nền tảng khoa học cho sự phát triển của khoa học giáo dục. Đồng thời có một số vấn đề mà cả hai ngành khoa học này cùng quan tâm nghiên cứu. Đó là các vấn đề : - Sự hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa và mục đích giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác. - Mối liên hệ giữa tập thể và cá nhân ... * Với đạo đức học: Đạo đức học giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề về công tác giáo dục đạo đức, thế giới quan, tư tưởng chính trị cho học sinh. * Với sinh lý học: Sinh lý học là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào những thành tựu của sinh lý học đặc biệt là 18 sinh lý học thần kinh cấp cao, về hoạt động của hai hệ thống tín hiệu, về sự phát triển và vận hành của các giác quan và hoạt động của chúng ... * Với tâm lý học: Tâm lý học cung cấp cho giáo dục học những tri thức khoa học về các cơ chế diễn biến và điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách con người theo lứa tuổi trong từng hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc tổ chức quá trình sư phạm. * Trong giai đoạn hiện nay, nhiều ngành khoa học khác như điều khiển học, tin học đang thâm nhập và được ứng dụng trong nghiên cứu về lí luận và thực tiễn giáo dục, tạo ra những cách thức tổ chức mới, phương pháp và phương tiện mới trong lĩnh vực giáo dục và dạy học. 6. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục (GV hướng dẫn)- Cơ sở phương pháp luận của Giáo dục học là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử áp dụng vào quá trình nghiên cứu các hiện tượng và qúa trình giáo dục. Nắm vững các quan điểm phương pháp luận nhà giáo dục có thể: - Nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện thông qua các nguồn tài liệu khác nhau. - Lựa chọn các phương pháp, phương tiện nghiên cứu, tuỳ theo tính chất, yêu cầu của vấn đề nghiên cứu: khảo sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm, thực nghiệm khoa học. - Áp dụng các thao tác tư duy khoa học để phát hiện tính quy luật, các yếu tố mới trong lý luận và thực tiễn giáo dục. Việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp cụ thể sẽ trình bày trong học phần Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục. 1.8. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm: + Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết + Phương pháp mô hình hóa - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: + Phương pháp quan sát + Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi + Phương pháp phỏng vấn + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục + Phương pháp thực nghiệm sư phạm + Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động + Phương pháp chuyên gia - Phương pháp sử dụng toán thống kê - 19 Câu hỏi ôn tập và thảo luận 1. Tại sao nói: Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt? Tính chất đặc biệt đó thể hiện ở những khía cạnh cơ bản nào? 2. Phân tích các chức năng cơ bản của giáo dục học. 3. Phân tích đối tượng nghiên cứu của giáo dục học. 4. Anh (chị) hãy phân biệt các khái niệm cơ bản của Giáo dục học. Thảo luận: Các chức năng của giáo dục học; xu hướng phát triển của Giáo dục học hiện nay. Liên hệ thực tiễn 20