Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc máy lần thời gian thực hiện

HQVN -

Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường là một chiến công to lớn của quân dân miền Bắc nói chung và của Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục tiến lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến công này đã đi vào lịch sử như một kỳ tích chiến đấu, làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật chống giặc giữ nước của dân tộc ta, đồng thời đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc máy lần thời gian thực hiện

Nghiên cứu thủy lôi địch để tìm phương pháp rà phá.

Trước thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh và quân các nước chư hầu của Mỹ vào miền Nam; đồng thời âm mưu mở rộng cuộc chiến tranh leo thang phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1967, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai trên chiến trường miền Nam và ngày càng đẩy mạnh việc đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Máy bay, tàu chiến Mỹ đêm ngày đánh phá các mục tiêu trên đất liền một cách điên cuồng, gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Đồng thời, chúng thả thủy lôi, bom từ trường xuống các bến cảng, cửa sông ven biển, các khu tập kết chuyển tải hàng hóa và các bến phà trên sông, biển miền Bắc. Chúng thả nhiều đợt, mỗi đợt thực hiện theo một phương thức mới, kết hợp nhiều loại thủy lôi, bom mìn, có sự cải tiến và mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.

Đợt một, từ ngày 26-2 đến 20-5-1967. Lúc đầu chúng thả 106 quả thủy lôi xuống 4 cửa sông lớn là sông Mã, sông Lam, sông Gianh và sông Nhật Lệ thuộc địa bàn Quân khu 4. Riêng ở Hải Phòng, chúng thả ở các luồng lạch xung quanh thành phố với ý đồ vừa thăm dò dư luận, vừa xem khả năng phản ứng của ta. Tiếp đó, chúng dùng máy bay A6A, AD6, F4, F7, F8… liên tục thả hàng ngàn quả thủy lôi MK- 50 (loại thủy lôi cảm ứng âm thanh) và MK-52 (loại thủy lôi cảm ứng từ trường), hình thành những tuyến chướng ngại trên khắp các cửa sông, biển miền Bắc.
Do đặc điểm các dòng sông ở miền Bắc có luồng chảy hẹp, uốn lượn ngoằn ngoèo và bị hỏa lực dày đặc của các lực lượng phòng không 3 thứ quân của ta đánh trả quyết liệt, nên máy bay địch không thể bay thấp để thả thủy lôi trúng luồng. Những quả thủy lôi rơi trúng luồng cũng ít phát huy tác dụng vì bị ta phát hiện, rà phá, tháo gỡ. Do vậy, trong đợt hai, từ tháng 6-1967 đến tháng 10-1968, địch đã sử dụng bom từ trường DST-36 để thay thế các loại thủy lôi. Đây là loại vũ khí rất nguy hiểm, có tác dụng chiến đấu cả ở trên cạn và dưới nước. Khi được thả từ máy bay xuống, bom từ trường chìm sâu dưới đất nên rất khó phát hiện và có phát hiện được cũng rất khó đưa lên, nhất là ở dưới nước, nên mức độ nguy hiểm của nó lớn hơn rất nhiều. Với âm mưu cắt đứt hoàn toàn các tuyến giao thông thủy bộ của ta, địch thả hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường DST-36 xen lẫn với bom phá dưới các cửa sông, bến phà, bến cảng, cửa biển. Những khu vực trọng điểm chúng thả với mật độ dày hơn. Trong cả hai đợt, từ tháng 2-1967 đến tháng 10-1968, đế quốc Mỹ thả 74.718 quả bom mìn các loại, trong đó có gần 7000 quả thủy lôi và bom từ trường phong tỏa 24 cửa sông, biển lớn nhỏ từ Cửa Tùng ( Vĩnh Linh) đến của Văn Úc (Hải Phòng). Riêng khu vực xung quanh cảng Hải Phòng chúng đã thả trên 1.500 quả, sông Gianh 2.000 quả, cửa Ròn 1.500 quả… Vào giai đoạn cuối địch thả những loại thủy lôi, bom từ trường đã được cải tiến như DST-36 Modl, DST-36 Mod2, DST- 36 Mod3 (chủ yếu là cải tiến đầu nổ MK42 theo các Modl1, Mod2, Mod3) để ta khó tháo gỡ, làm mất tác dụng chiến đấu của vũ khí thủy lôi, bom từ trường của chúng.

Nhằm làm gián đoạn giao thông giữa Hải Phòng, thành phố cảng lớn nhất của miền Bắc với các tỉnh, địch đã ném bom phá sập cầu Rào, cầu Niệm và thả dày đặc bom từ trường DST-36 xuống dưới lòng sông, bịt các cửa sông, bến phà xung quanh thương cảng, gây khó khăn cho vận chuyển hàng hóa viện trợ của nước ngoài vào cảng và từ cảng không thể chuyển đi nơi khác, với ý đồ biến thành phố cảng thành hòn đảo cô lập với nội địa. Không những thế, đế quốc Mỹ còn liên tục cho máy bay giám sát các tàu chở hàng của Liên Xô, Cu Ba và các nước XHCN anh em trên đường từ biển vào cảng Hải Phòng; chúng đã bắn tên lửa, rốc két vào hai tàu chở hàng của Liên Xô đang đậu ở Cảng, gây thiệt hại về vật chất và làm thương vong một số sỹ quan, thủy thủ của đội tàu, bất chấp sự phản đối của dư luận.

Để chủ động đối phó với nguy cơ địch sử dụng thủy lôi phong tỏa vùng biển miền Bắc, ngay từ đầu năm 1966, Đảng ủy Quân chủng Hải quân ra Nghị quyết lãnh đạo Quân chủng chủ động xây dựng kế hoạch chống địch phong tỏa đường thủy. Đến đầu tháng 4-1966, kế hoạch chống địch phong tỏa cơ bản hoàn thành và được Bộ Tư lệnh Quân chủng thông qua.
Ngày 1-6-1966, Thường vụ Quân ủy Trung ương xác định vấn đề chống phong tỏa các cảng là một nhiệm vụ cấp thiết và chỉ đạo Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân tích cực nghiên cứu kế hoạch, chuẩn bị đối phó.

HQVN

Sau một loạt hành động chống phá và khiêu khích (nã pháo vào các đảo và một số vùng bờ biển miền bắc, bắt ngư dân, tung biệt kích, thám báo vào sâu trong nội địa, dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ lấy cớ cho việc tăng cường và mở rộng chiến tranh...), từ đầu năm 1965, Mỹ sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc. Ðây là một bộ phận khăng khít của chiến lược chiến tranh cục bộ, hỗ trợ cho hoạt động của lục quân Mỹ trên chiến trường miền nam.

Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng lần thứ 11 (khóa III), tháng 3-1965, quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm  bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền nam.

Chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, các cơ quan Ðảng, Nhà nước và hệ thống chính quyền các cấp gấp rút chấn chỉnh, sắp xếp, kiện toàn về tổ chức; sửa đổi lề lối và tác phong làm việc, thực hiện đúng chức năng, giản tiện hóa các thủ tục hành chính, kịp thời giải quyết các vấn đề của cuộc sống và chiến đấu đặt ra. Chuyển hướng về kinh tế, miền bắc tập trung xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương; thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh hơn tốc độ bình thường, làm cho mỗi vùng, miền phát huy đầy đủ tiềm năng và khả năng hiện có, ổn định và giữ vững đời sống của nhân dân, đáp ứng hậu cần tại chỗ của cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và đất đối biển. Nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân cũng nhanh chóng đuợc tăng cường. Nhà nước quyết định thành lập một số binh đoàn chủ lực trang bị hiện đại và một số quân chủng mới. Quốc hội khoá III, kỳ họp thứ 2, thông qua Luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Tháng 5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh động viên một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngạch dự bị vào lực lượng vũ trang. Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm đặt kế hoạch động viên cục bộ và chỉ đạo quá trình thực hiện kế hoạch này theo phương hướng tăng cường khả năng quốc phòng miền bắc đến mức cần thiết, đáp ứng yêu cầu chiến trường, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế hậu phương thời chiến.

Từ khắp nơi trên miền bắc, các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Cử người đi đánh Mỹ", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... dấy lên mạnh mẽ, sôi nổi và rộng khắp ở mọi địa phương. Năm 1965, gần 290.000 thanh niên tình nguyện gia nhập quân đội. Chỉ một thời gian ngắn, 68.874 thanh niên và quân nhân chuyển ngành hoặc phục viên được tuyển vào quân đội, hàng chục nghìn người khác được gọi vào thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. So với đầu năm, đến cuối năm 1965, khối chủ lực miền bắc tăng gấp hai lần - từ 195.000 quân lên 400.000 quân. Các quân chủng, binh chủng cũng tăng nhanh về lực lượng và tăng cường về vũ khí, trang bị kỹ thuật. Ðến cuối năm 1965, quân số các quân chủng, binh chủng tăng gấp ba lần so với năm 1964, riêng Quân chủng Phòng không - Không quân, nhiều đơn vị được gấp rút xây dựng, trong đó có các đơn vị tên lửa phòng không, pháo phòng không, ra-đa cảnh giới, không quân tiêm kích. Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương cũng phát triển với tốc độ nhanh, được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, nhiều đại đội; dân quân, tự vệ hình thành hàng nghìn đơn vị trực chiến. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay và tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an, xung kích trong sản xuất và công tác ở những địa bàn địch thường xuyên đánh phá ác liệt.

Vùng ven biển, lực lượng phòng thủ bao gồm các đơn vị pháo binh bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ nhanh chóng được tăng cường. Ngoài ra, ở các làng xã vùng ven biển, hàng trăm đội tuần tra được tổ chức, tăng cường canh gác, kịp thời phát hiện và đập tan mọi hoạt động đột nhập, phá hoại của biệt kích, thám báo.

Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân..., theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh. Trên tuyến đường Trường Sơn, lực lượng vận tải quân sự phát triển thành đoàn hậu cần chiến lược, bảo đảm việc đánh địch, mở đường, vận chuyển và bảo đảm hành quân chi viện chiến trường.

Với quyết tâm cao, cơ cấu, tổ chức, bố trí lực lượng và thế trận hợp lý; với vũ khí, trang bị, phương tiện bảo đảm ngày càng được cải tiến và tăng cường; với nghị lực và sức sáng tạo được phát huy cao độ của con người Việt Nam, lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển và lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ba thứ quân miền bắc thật sự là nòng cốt phát động toàn dân tham gia chống chiến tranh phá hoại. Vì vậy, suốt những năm chiến tranh, phong trào toàn dân bắn máy bay, đánh tàu chiến Mỹ bằng mọi thứ vũ khí, ở mọi nơi và trong mọi lúc phát triển rộng khắp các địa phương. Tự vệ các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình; dân quân các làng bản, xóm thôn đều tổ chức các tổ bắn máy bay để vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khắp nơi, khẩu hiệu "Tay cày, tay súng", "Tay búa, tay súng" trở thành phương châm hành động của giai cấp công nhân, nông dân...

Bên cạnh phong trào đánh máy bay và tàu chiến, các địa phương còn phát động phong trào toàn dân tham gia bảo đảm giao thông vận tải, toàn dân giúp đỡ bộ đội, phục vụ chiến đấu, toàn dân làm công tác phòng không. Các đội thuyền nan, bè, mảng, xe thồ của nhân dân với phương thức vận chuyển thô sơ nhưng phù hợp, ngày đêm bền bỉ vận chuyển hàng hóa qua những vùng trọng điểm địch thường xuyên đánh phá.

Chỉ riêng việc phục vụ chiến đấu như tiếp đạn, kéo pháo, đào đắp công sự, cứu chữa và chăm sóc thương binh..., những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhân dân miền bắc đã đóng góp hàng trăm triệu ngày công. Tính ra, trung bình mỗi ngày, trên miền bắc, có tới 92.000 lao động theo nghĩa vụ thời chiến, chiếm tới 10,5% tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của miền bắc.

Trong điều kiện miền bắc phải liên tục động viên thanh niên vào lực lượng vũ trang, vào thanh niên xung phong; trên ruộng đồng, trong nhà máy, lao động nữ là chủ yếu. Những con số trên phản ánh nỗ lực cao của hậu phương lớn, chứng tỏ sự tham gia tích cực, rộng rãi và hiệu quả của quần chúng nhân dân, tạo ra lực lượng vật chất và tinh thần to lớn, góp phần quan trọng bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đương đầu và đánh trả liên tục, có hiệu quả nhiều thủ đoạn đánh phá, vô hiệu hóa nhiều loại vũ khí hiện đại của Mỹ.

Vì thế, dù chiến tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, tác động lên toàn bộ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... nhưng miền bắc vẫn vững vàng trong lửa đạn, ngẩng cao đầu đánh Mỹ, trừng trị đích đáng lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ trên vùng trời, vùng biển. Trong bốn năm, lưới lửa phòng không miền bắc bắn rơi 3.243 máy bay (có cả máy bay B52 và F111), bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến Mỹ.

Sản xuất, về cơ bản, không bị ngưng trệ mà tiếp tục được duy trì, hơn nữa, trên một số mặt như năng suất lúa, kinh tế địa phương... còn có bước phát triển. Ðời sống nhân dân, kể cả vùng tuyến lửa khu 4, không bị đảo lộn lớn. Dưới bom đạn đánh phá của kẻ thù, học sinh vẫn mũ rơm đội đầu, ngày đêm tới lớp. Gian khổ, thiếu thốn, mất mát, hy sinh, nhưng phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" xuất hiện và phát triển khắp nơi trên mọi nẻo đường chiến tranh.

Giữa những ngày Mỹ leo thang đánh phá, nhân dân ta vẫn tổ chức trọng thể lễ Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Ðại thi hào dân tộc Nguyễn Du (tháng 11-1965). Ðó là một biểu hiện về trình độ của một dân tộc văn minh, chứng tỏ tư thế của hậu phương lớn miền bắc thời đánh Mỹ.

Trên mặt trận bảo đảm giao thông, mặc dù toàn bộ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy, cầu cống, bến cảng, kho tàng thường xuyên bị uy hiếp, bị đánh phá, nhưng nhịp độ và khối lượng vận chuyển vẫn không ngừng tăng lên, đáp ứng kịp thời, liên tục và ngày càng đầy đủ yêu cầu của cuộc chiến trên hai miền nam, bắc.

Leo thang đánh phá miền bắc, mục tiêu hàng đầu của Mỹ là uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Thế nhưng, trải qua bốn năm chống chiến tranh phá hoại, quân dân miền bắc đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết một lòng, giáng trả đích đáng không quân, hải quân Mỹ, gây cho chúng những hao tổn nặng nề về người lái và máy bay, tàu chiến; làm suy giảm ý chí xâm lược của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ trong cuộc chiến tranh cục bộ.

Thắng lợi đó chứng tỏ trên thực tế sức mạnh và tính bền vững của một hậu phương được tổ chức chặt chẽ do chế độ ưu việt được thiết lập và củng cố vững chắc, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được chăm lo, mở rộng, tăng cường, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Trong khi đó, chính nước Mỹ bên kia bờ đại dương lại bị rung động, nội bộ chia rẽ bởi những thất bại ngày càng nặng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ðiều đó chứng tỏ, một dân tộc chiến đấu vì sự nghiệp chính nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản chân chính, toàn dân đoàn kết, xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, tiền tuyến kiên cường, bền lòng kháng chiến, thì nhất định chiến thắng kẻ thù xâm lược.

Ðại tá TS HỒ KHANG         
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)