Phương thức mới giao tiếp với máy tínhThử tưởng tượng một ngày nào đó bạn vào nhà hàng và chỉ cần gõ tay chọn lên thực đơn trên bàn là có thể gửi thông tin đặt các món ăn của mình vào nhà bếp mà không cần người phục vụ hay thiết bị nào khác.
Show
Bạn bước vào cửa hàng và chỉ cần chạm tay lên các món ăn trên thực đơn là đã gửi gọi xong thức ăn. Điều này thoạt nghe giống như trong truyện khoa học viễn tưởng nhưng có thể đây là phương pháp chúng ta giao tiếp với máy tính trong tương lai, nhờ công trình nghiên cứu toàn châu Âu do các chuyên gia Trường Đại học Cardiff thực hiện. Một nhóm nhà nghiên cứu này đang tìm tòi phương pháp sử dụng sóng âm thanh và sóng xúc giác nhằm truyền dữ liệu đến máy tính mà không cần đến bàn phím và các thiết bị khác. Ý tưởng gần giống như việc dùng màn hình cảm giác đã được ứng dụng ở một số nơi nhưng vẫn còn có khả năng mở rộng dùng cho hầu hết mọi bề mặt, và trong tương lai người ta hy vọng nhiều khả năng chỉ cần di chuyển tay trong không gian là có thể tạo ra vô vàn quá trình giao tiếp với máy tính. Công nghệ này được đặt tên là Các giao diện thính giác hữu hình cho quá trình tương tác giữa người và máy tính (Tai - Chi) đang được nghiên cứu tại Trung tâm Cơ khí chế tạo (MEC) của trường ĐH này. Tiến sĩ (TS) Ming Yang từ MEC giải thích phần lớn chúng ta giao tiếp với máy tính thông qua các giao diện hữu hình như bàn phím, chuột... và mặc dù những thứ này đã trở thành phổ biến, dễ sử dụng nhưng chúng cũng có những điều gây trở ngại nhất định. Chúng ta phải ở khoảng cách cho phép để dùng máy tính và các điều kiện khác như nhiệt độ, áp suất cũng ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của các loại thiết bị. Hiện thời đã có những hệ thống sử dụng thị giác và giọng nói kích hoạt cho việc giao tiếp với máy tính nhưng nhìn chung chúng vẫn chưa tạo nên sự tin cậy cần thiết. Và nghiên cứu này dựa trên nguyên tắc tương tác với bất kỳ vật thể nào tạo ra sóng âm trong và trên bề mặt của chúng. Khi một người chạm vào một vật, các linh kiện cảm ứng sẽ dò được ý nghĩa của âm thanh phát ra và gửi thông điệp đến máy tính từ xa. Như vậy, bằng cách hình dung và định ra đặc điểm của các cấu trúc thuộc thính giác cũng như xác định bằng cách nào chúng phản ứng lại khi bị chạm vào và bị di chuyển, một phương thức mới cho phép giao tiếp với các máy tính và thế giới máy tính có thể được phát triển. Công nghệ sẽ hướng đến khai thác cách thức để các vật thể như mặt bàn, bức tường và cửa sổ có thể trở thành những màn hình cảm giác ba chiều khổng lồ, hoạt động như giao diện giữa máy tính và người sử dụng. Cộng sự của TS Yang, Chris Matthews, lạc quan nói mọi vật thể có thể trở thành một “touch pad” (vật đệm cảm giác) và họ hy vọng sẽ phát triển công nghệ này để toàn bộ căn phòng trở thành một “touch pad”. Thật ra, kỹ thuật cảm ứng âm thanh đã được sử dụng từ trước trong ngành quân sự và công nghiệp nhưng nhóm nghiên cứu cho rằng chưa có kỹ thuật nào phù hợp với những trình ứng dụng đa truyền thông như của tai - chi. Một số sản phẩm ứng dụng kỹ thuật tương tự đã hiện hữu nhưng bị giới hạn phạm vi ứng dụng, chỉ trên các bề mặt thủy tinh phẳng với hạn chế nhất định về kích cỡ. Dự án tai - chi về công nghệ mới sẽ khắc phục được những hạn chế nêu trên. TS Yang nhấn mạnh mục tiêu của họ là làm cho công nghệ này tiếp cận được và mang tính khả thi cho tất cả. Một khi điều này thành hiện thực, phạm vi ứng dụng sẽ là vô hạn. JavaScript isn't enabled in your browser, so this file can't be opened. Enable and reload.
Hệ điều hành và người dùng thường xuyên phải giao tiếp để trao đổi thông tin trong quá trình làm việc. 1. Nạp hệ điều hành - Để làm việc với máy tính, hệ điều hành phải được nạp vào bộ nhớ trong. - Các bước nạp hệ điều hành: + Có đĩa khởi động. + Bật nguồn khi máy đang ở trạng thái tắt hoặc nhấn nút Reset nếu máy đang mở. - Khi bật nguồn, chương trình sẵn có trong ROM sẽ: + Kiểm tra bộ nhớ trong và các thiết bị đang được nối với máy tính. + Tìm chương trình khởi động trên đĩa khởi động, nạp vào bộ nhớ trong và kích hoạt nó. + Chương trình khởi động sẽ tìm các môđun cần thiết của hệ điều hành trên đĩa khởi động và nạp chúng vào bộ nhớ trong. 2. Cách làm việc với hệ điều hành Hệ điều hành và người dùng thường xuyên phải giao tiếp để trao đổi thông tin trong quá trình làm việc. Hệ thống yêu cầu cung cấp thông tin, thông báo cho người dùng biết kết quả thực hiện chương trình hoặc các bước thực hiện/ các lỗi gặp khi thực hiện chương trình, hướng dẫn các thao tác cần hoặc nên thực hiện trong từng trường hợp cụ thể. Người dùng có thể đưa yêu cầu hoặc thông tin vào hệ thống bằng hai cách sau: • Cách 1: Sử dụng các lệnh (Command); • Cách 2: Sử dụng các đề xuất do hệ thống đưa ra thường dưới dạng bảng chọn (Menu), nút lệnh (Button), cửa sổ (Window) chứa hộp thoại (Dialog box)... Cách 1: Sử dụng các lệnh (Command) - Ưu điểm là làm cho hệ thống biết chính xác công việc cần làm và do đó lệnh được thực hiện ngay lập tức. - Nhược điểm là người dùng phải nhớ câu lệnh và phải thao tác khá nhiều trên bàn phím để gõ câu lệnh đó. Ví dụ, trong hệ điều hành MS - DOS để xem trên thư mục gốc của đĩa A có nội dung gì và đưa ra danh sách tệp và thư mục sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái, ta gõ từ bàn phím câu lệnh: DIR A:\ /ON_| Cách 2: Sử dụng các đề xuất do hệ thống đưa ra thường dưới dạng bảng chọn (Menu), nút lệnh (Button), cửa sổ (Window) chứa hộp thoại (Dialog box)... - Người dùng thường làm việc với cửa sổ ở dạng văn bản (Hình 36) (gồm các nút chọn, hộp nhập văn bản, nút quản lí danh sách các mục chọn, nút lệnh...) hoặc dưới dạng các biểu tượng (icon) đặc trưng cho công việc hoặc kết hợp biểu tượng với dòng chú thích (Hình 37) - Người dùng không cần biết quy cách câu lệnh cụ thể (mặc dù luôn có những câu lệnh tương ứng) và cũng không cần biết trước là hệ thống có những khả năng chi tiết cụ thể nào. - Người dùng có thể dùng bàn phím hoặc chuột để xác định mục hoặc biểu tượng, nhờ đó dễ khai thác hệ thống hơn. 3. Ra khỏi hệ thống - Có ba chế độ chính để ra khỏi hệ thống đối với một số hệ điều hành hiện nay: + Tắt máy (Shut Down hoặc Turn Off); + Tạm ngừng (Standby); + Ngủ đông (Hibernate). • Shut Down (Turn Off): Chọn chế độ này, hệ điều hành sẽ dọn dẹp hệ thống và sau đó tắt nguồn (ở các máy có thiết bị tắt nguồn tự động) hoặc đưa ra thông báo cho người dùng biết khi nào có thể tắt nguồn. Chế độ này là cách tắt máy tính an toàn, mọi thay đổi trong thiết đặt Windows được lưu vào đĩa cứng trước khi nguồn được tắt (Hình 7). • Stand by: Chọn chế độ này để máy tạm nghỉ, tiêu thụ ít năng lượng nhất nhưng đủ để hoạt động trở lại ngay lập tức. Khi ở chế độ này, nếu xảy ra mất điện (nguồn bị tắt) các thông tin trong RAM sẽ bị mất. Vì vậy, trước khi tắt máy bằng Stand by, cần phải lưu công việc đang được thực hiện. • Hibernate: Chọn chế độ này để tắt máy sau khi lưu toàn bộ trạng thái đang làm việc hiện thời vào đĩa cứng. Khi khởi động lại, máy tính nhanh chóng thiêt lập lại toàn bộ trạng thái đang làm việc trước đó như các chương trình đang thực hiện và tài liệu còn mở... - Để an toàn cho hệ thống ta nên tắt máy tính bằng cách: Chọn nút Start góc trái bên dưới màn hình nền của Windows và chọn Shut Down (Turn Off); Chọn mục Shut Down (Turn Off) trên bảng chọn. Loigiaihay.com |