Bs Trà Quang Ân - Khoa Cấp cứu Show Một chất có thể gây nên những tác dụng có hại trong cơ thể được gọi là chất độc. Các chất độc này có thể phân thành từng nhóm tùy theo sự sử dụng của con người (thức ăn và các chất phụ trợ, các hóa dược, các chất tẩy rửa và các chất làm đẹp) và các chất con người không sử dụng tới (các chất thải trong gia đình, các hóa chất công nghiệp, các thực vật không dùng để ăn hay làm hóa dược). Sự quá liều là sự nhiễm độc do dùng một lượng quá lớn chất sử dụng trực tiếp cho con người hay tiếp xúc với một lượng lớn chất không sử dụng trực tiếp với con người nhưng có thể có tác dụng độc (ngộ độc) hay không ? Nhiễm độc có thể là khu trú (mắt, da, phổi, đường tiêu hóa) hay toàn thân hoặc cả hai phụ thuộc vào liều lượng, sự hấp thu, độc lực, sự phân bố của độc chất và vào tính cảm thụ của con người. Sự hấp thụ và phân bố phụ thuộc vào chính độc chất (kích thích phân tử, ion hóa, tính hòa tan trong nước và mỡ, độ gắn với protein) và phụ thuộc vào cả hàng rào sinh học (cấu trúc màng tế bào, kích thước lỗ, hệ thống vận chuyển hóa chất) mà chất này phải đi qua. Tác dụng tại chỗ phụ thuộc vào các phản ứng không đặc hiệu như oxy- hóa, bản chất protein, làm khô hoặc hoạt tính dung môi. Mức độ nặng và khả năng phục hồi phụ thuộc vào liều (nồng độ), thời gian tiếp xúc, độc lực hóa chất, cách tiếp xúc và tình trạng diện tiếp xúc. Cơ bản chất, độ rộng và độ nặng cũng như khả năng phục hồi của tác dụng toàn thân phụ thuộc vào liều lượng, độc lực và kiểu chuyển hóa của chất, vào khả năng bảo tồn chức năng của cơ thể và những biến chứng thứ cấp (choáng, thiếu oxy tổ chức). Các thông số khác cũng ảnh hưởng đến sự ngộ độc là : bệnh có sẵn, sự tiếp xúc với chất độc từ trước (tức là sự cảm ứng hay ức chế men, tính dung nạp) và sự đáp ứng sinh học riêng biệt của từng cá thể, nồng độ độc chất tại tổ chức cũng như sự hấp thu, phân bố chuyển hóa và thải trừ (dược động học) của chất đó. Khi so với liều điều trị tác dụng độc của quá liều bắt đầu sớm hơn, nồng độ tối đa thời gian dài hơn. Tại Hoa Kỳ hằng năm ngộ độc cấp gây nên khoảng 5 triệu lần điều trị hoặc tư vấn y tế. Đường ngộ độc chủ yếu là đường tiêu hóa (79%), qua da (7%), mắt (6%), đường hô hấp (5%), và đường tiểu (0,3%). Trong 40% trường hợp, nguồn độc chất là do thuốc được các bác sỹ kê đơn. Những chất độc phố biển là: các chất tẩy rửa, thuốc giảm đau, mỹ phấm, cây cỏ, thuốc ho, thuốc cảm và khí hydrocacbon. Đại đa số ngộ độc là cấp tính, do tai nạn, xảy ra tại nhà, gây độc nhẹ hoặc không ngộ độc, chủ yếu xảy ra ở trẻ < 6 tuổi. Các tai nạn có thể là do dùng nhầm hóa chất nơi làm việc hay khi chơi, dán nhầm nhãn, đọc nhầm nhãn, nhận dạng nhầm hoặc không ghi nhận, dùng thuốc không được chỉ dẫn chu đáo, nhầm liều do y tá, cha mẹ hay thầy thuốc hay người lớn khác. Ngoại trừ dùng rượu khi vui hội họp, đại đa số ngộ độc hóa chất một cách có chủ ý đều là do ý định tử tự? Còn ngộ độc không có ý thường là do lạm dụng thuốc hướng thần hoặc dùng nhầm liều. Dù chỉ 4% ngộ độc cấp cứu phải nhập viên, chúng gây nên 5% trường hợp phải nằm tại khoa hồi sức và 30% trường hợp phải vào khoa tâm thần. Ý định tử tự chiếm đa số, chiếm 60 - 90% ngộ độc nặng hoặc tử vong. Đa số các trường hợp tử vong là do ngộ độc khí hydrocacbon và thường là được chết trước khi đến bệnh viện.Nhưng thuốc khác như thuốc chống trầm cảm, thuốc giảm đau, thuốc kích thích, thuốc tim mạch, thuốc an thần gây ngủ, thuốc chống hen là những thuốc hay gây tử vong. Các chất không có tính dược học gây những ngộ độc chí tử khác là hóa chất hữu cơ, rượu, glycol, chất tẩy rửa và hydrocacbon. Tin mới hơn: Tin cũ hơn: << Trang truớcTrang kế >> Lần cập nhật cuối lúc Thứ ba, 19 Tháng 1 2016 16:28
Bài được viết bởi Bác sĩ Lê Văn Bình - Bác sĩ Hồi sức tích cực Nhi - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Trẻ em luôn tò mò và khám phá thế giới của chúng bằng tất cả các giác quan, bao gồm cả vị giác. Do đó, ngôi nhà và môi trường xung quanh có thể là một nơi nguy hiểm khi trẻ vô tình ăn phải các chất độc. Mỗi năm, có hàng ngàn trẻ em phải nhập viện cấp cứu vì ngộ độc. Các hình thức ngộ độc thay đổi theo nhóm tuổi, loại vật chất tiếp xúc, tính chất và liều lượng của chất độc. Ngộ độc cấp (NĐC) là khi chất độc vào cơ thể trong một thời gian ngắn gây tổn thương các cơ quan và gây nguy hiểm cho cơ thể. Nếu điều trị không kịp thời sẽ gây tử vong. Hàng năm, có khoảng 6 triệu trẻ em trên thế giới bị ngộ độc do ăn uống. Trong đó, trẻ dưới 5 tuổi chiếm 60 - 80%. Ngộ độc có xu hướng gia tăng do việc sử dụng hóa chất và thuốc tùy tiện, tác nhân gây NĐC rất nhiều nên khó xác định. Trẻ dưới 5 tuổi có khả năng chống và thải độc còn hạn chế, do đó, khi bị ngộ độc thường phải cấp cứu. Khi bệnh nặng thì dễ gây tử vong. Tuy nhiên ngày nay, với tiến bộ về chẩn đoán và kỹ thuật hồi sức, tỷ lệ tử vong do NĐC ngày càng giảm. Việc chẩn đoán có thể dễ dàng dựa vào lời khai hoặc vật phẩm mang đến. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp rất khó khăn, ngay cả khi có kết quả xét nghiệm độc chất. Vì biểu hiện lâm sàng ngộ độc cấp của trẻ em có nhiều triệu chứng giống các nguyên nhân khác. Chẩn đoán xác định dựa vào: Hỏi bệnh, khám lâm sàng và xét nghiệm tìm độc chất. 2.1. Hỏi bệnhHỏi bệnh là việc làm rất quan trọng vì 90% trường hợp có thể dựa vào lời khai và vật phẩm gia đình mang đến để xác định nguyên nhân. Một số câu hỏi có thể đặt ra như:
90% trường hợp bác sĩ có thể xác định nguyên nhân ngộ độc cấp tính ở trẻ em dựa vào việc hỏi bệnh, thăm khám ban đầu. 2.2. Khám lâm sàng2.2.1. Đánh giá chức năng sống
2.2.2. Tìm triệu chứng dẫn đường
2.3. Xét nghiệm chẩn đoán
2.4. Đánh giá mức độ
2.5. Chẩn đoán hội chứng độc
Chẩn đoán dễ dàng: Dựa vào lời khai, tang vật. Chẩn đoán khó: Phải dựa vào hai trong ba tiêu chuẩn sau:
Khẩn trương và phối hợp các biện pháp chủ yếu:
4.2. Các biện pháp điều trị4.2.1. Xử trí cấp cứu
4.2.2. Gây nôn
Ngón tay, panh kẹp tăm bông kích thích họng. Uống Ipeca dung dịch 7 - 10%: Trẻ < 1 tuổi : 10 ml. Trẻ 1 - 10 tuổi: 15 ml. Trẻ > 10 tuổi: 30 ml. Sau 15 - 20 phút, đa số trẻ nôn, loại bỏ 30 - 40% chất khi ăn < 1 giờ. Có thể nhắc lại sau 20 phút. Apomorphin 0,01g/1ml tiêm da, liều từ 1/3 - 1/2 ống tuỳ tuổi, không dùng cho trẻ < 5 tuổi. 4.2.3. Rửa dạ dày
Phương pháp rửa dạ dày được chỉ định trong trường hợp người bệnh ngộ độc dưới 6 tiếng.
Dầu Paraffin, Magie sulfat (4 - 8 ml/kg), Sorbitol 2 ml/kg. Cẩn thận đối với trẻ < 2 tuổi vì có thể mất nước – điện giải. 4.2.5. Bài niệu nhiều
Uống nhiều nước. Dung dịch Glucoza 10% + dung dịch điện giải: 120-150 ml/kg hoặc 2 - 3 lít/m2 da/24 giờ. Mannitol 1g/kg, Lasix 1 - 2 mg/kg Gây kiềm hoá hoặc toan hoá nước tiểu: Kiềm hoá: Bicarbonat 14%o, Protopam. Toan hoá: Vitamin C, Clorua Amoni. 4.2.6. Lọc máu
4.2.7. Thay máuChỉ định cho bệnh nhân ngộ độc chất gây tan máu, ngộ độc tế bào gan: Nấm, axit salixilic. 4.3. Giải độc4.3.1. Không đặc hiệu
4.3.2. Giải độc đặc hiệu
Là phương pháp không đặc hiệu nhưng quan trọng vì quyết định tính mạng bệnh nhân. Bao gồm các biện pháp:
Hãy theo dõi trang web: Vinmec.com thường xuyên để cập nhật nhiều thông tin hữu ích khác. Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn XEM THÊM: |