Những điểm chung về nội dung giữa truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy

Đất nước ta có truyền thống văn hóa phong phú, với những tập quán tốt đẹp và văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. “Bánh chưng bánh giày” là một trong những truyền thuyết gắn liền với truyền thống của dân tộc và lịch sử dựng nước và giữ nước, nói về tục lệ gói bánh chưng bánh giày vào những ngày Tết. Đây là một trong những truyền thuyết thể hiện rất rõ văn hóa của đất nước ta.

Những điểm chung về nội dung giữa truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy

Vài nét về tác phẩm

Vua Hùng Vương thứ sáu có hai mươi người con trai, vua muốn tìm một người nối được chí của mình lên làm vua. Vua hạ lệnh, trong lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý mình vua sẽ truyền ngôi cho.

Các lang ai nấy đều tất bật sai người tìm của ngon vật lạ để dâng vua, chỉ có Lang Liêu là buồn nhất. Lang Liêu là người con thứ mười tám, chỉ quen với việc trồng trọt nên trong nhà chàng chẳng có gì ngoài lúa gạo, ngô khoai nên không biết dâng gì trong ngày lễ Tiên Vương. Một hôm có vị thần đến báo mộng cho chàng rằng hãy đem những hạt gạo quý giá mà chàng có dâng lên vua. Nghe lời thần, chàng đã chọn ra thứ gạo nếp ngon nhất để làm ra hai thứ bánh có hình vuông và hình tròn. Đến hôm lễ, vua rất hài lòng với mâm bánh của Lang Liêu, bèn đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh tròn là bánh dày tượng trưng cho trời. Vua dùng bánh của Lang Liêu để lễ Trời, Đất và Tiên Vương. Lang Liêu được lên làm vua. Kể từ đó, nhân dân ta có truyền thống làm bánh chưng, bánh dày trong ngày Tết.

Không nằm ngoài những đặc trưng của thể loại văn học dân gian, tuy nhiên, đây là một tác phẩm có nhiều tầng ý nghĩa hơn hẳn những tác phẩm khác khi gắn liền với những sự kiện lịch sử có thật của dân tộc, cũng như tinh thần cao cả của người Việt Nam buổi đầu dựng nước.

Ý nghĩa của tác phẩm

* Ca ngợi thành tựu của nông nghiệp những buổi đầu dựng nước và giữ nước.

Đất nước ta là một đất nước nông nghiệp với nền văn minh lúa nước ăn sâu vào trong nếp sống tinh thần của người dân Việt Nam từ thời xa xưa, người dân ta đã xây dựng đất nước bắt đầu từ một nền nông nghiệp có thể nói là nghèo nàn và kém phát triển, song, lại có sự tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt, ông cha ta rất coi trọng hạt gạo – lương thực chính của người dân Việt Nam, coi đó là hạt ngọc, tinh hoa của đất trời, ngay trong ca dao cũng có những câu thơ:

Trời mưa cho lúa thêm bông

Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền

Bởi vậy, đa số các tác phẩm thuộc văn học dân gian Việt Nam đều ít nhiều ca ngợi hạt gạo, thứ quà của đất trời đã nuôi dưỡng bao thế hệ. “Bánh chưng bánh giầy” cũng vậy, tác phẩm ca ngợi những thành tựu của nông nghiệp, cụ thể là chăn nuôi, săn bắn và trồng lúa, đặt nó lên trên tất cả các sản vật quý hiếm của thiên nhiên. Đặc biệt, dành sự kính trọng của mình cho hạt gạo, nguyên liệu chính làm nên những chiếc bánh chưng, bánh dày, hội tụ tinh hoa của đất trời. Bánh chưng, bánh giầy không chỉ là những món ăn đặc trưng cho ngày Tết Cổ truyền mà trong đó còn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của cả một nền văn minh lúa nước thời cổ đại.

*Thể hiện sự trân trọng của người Việt đối với những giá trị truyền thống tốt đẹp

Bánh chưng bánh dày là sản vật của nông nghiệp, giản dị và không có gì quý hiếm khi đặt cạnh những lễ vật khác, vô cùng quý giá và khó tìm. Song, lại thành công chiếm được sự chú ý của vua Hùng bởi chính cái tâm của người làm ra bánh, với những ý nghĩa sâu xa không phải người con nào cũng nghĩ được. Bánh chưng tượng trưng cho đất, được gói trong lá dong, biểu tượng cho sự đoàn kết một lòng của muôn loài, bánh dày tượng trưng cho bầu trời. Sáng tạo ra hai loại bánh này, Lang Liêu đã thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của mình đối với tổ tiên, cũng như sự biết ơn của nhân dân lao động đối với sự đối đãi của thiên nhiên trù phú đã mang đến đất, không khí, nguồn nước tuyệt vời để nuôi dưỡng những hạt gạo. 

Đây là lễ vật duy nhất thể hiện được cái tâm của người dâng sản vật, và đã chiến thắng mọi thứ quý giá khác. Bánh chưng, bánh giầy xuất hiện vào ngày Tết Nguyên Đán không chỉ là cách mà người nông dân Việt Nam thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đem lại cuộc sống ấm no cho con người mà nó còn thể hiện được đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thể hiện chữ hiếu của người con với cha mẹ.

Tác phẩm đã giải thích nguồn gốc của bánh chưng bánh dày, cho đến tận ngày nay, bánh chưng bánh dày vẫn là lễ vật không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên mỗi khi tết đến xuân về, khẳng định tấm lòng luôn biết ơn tổ tiên, ông cha ta cũng như tấm lòng hiếu thảo của thế hệ sau.

Thảo Nguyên

Danh sách những truyện cổ tích việt nam hay nhất: Truyền thuyết Thánh gióng, truyện cổ tích tấm cám, sọ dừa, truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh, truyền thuyết hồ hoàn kiếm, sự tích trầu cau, sự tích con rồng cháu tiên, truyền thuyết thành cổ loa, Cóc kiện trời, Sự tích Táo Quân, chú thỏ tinh khôn, Sự tích chùa Một cột, Chàng ngốc học khôn, Sự tích sấm sét, Sự tích hoa Mào gà, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, truyện cổ tích trí khôn của ta đây, Sự tích con chuồn chuồn, Sự tích Hòn Vọng Phu, Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy, sự tích cây khế, Sự tích Thánh làng Chèm, Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn, Sự tích hoa mười giờ, Sự tích chim Quốc, Sự tích công chúa Liễu Hạnh, Cây táo thần, thạch sanh,…

Tổng hợp các câu chuyện cổ tích thế giới hay và ý nghĩa nhất, truyện cổ grimm, truyện cổ Andersen, cổ tích thần kỳ: Nàng công chúa ngủ trong rừng, Alibaba và bốn mươi tên cướp, Nàng công chúa chăn ngỗng, Cô bé lọ lem, Chú bé tí hon, Ông lão đánh cá và con cá vàng, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ tích Bà chúa tuyết, Aladdin và cây đèn thần, Ba sợi tóc vàng của con quỷ, Hoàng tử ếch, Con quỷ và ba người lính, Cô bé quàng khăn đỏ,…

Trong truyện “Bánh chưng bán giầy” có nhiều những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu cho truyện dân gian, đó là những chi tiết nào?

Đều là truyền thuyết và là nguồn gốc của các loại bánh được nhắc đên trong 2 bài .

Câu hỏi hot cùng chủ đề

  • Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

    Mưa mùa xuân xôn xao, phơi phới. Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại, rơi như nhảy nhót. Hạt nọ tiếp hạt kia đan xuống mặt đất (...) Mặt đất đã kiệt sức bỗng thức dậy, âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp, trong lành. Đất trời lại dịu mềm, lại cần mẫn tiếp nhựa cho cây cỏ. Mưa mùa xuân đã mang lại cho chúng cái sức sống ứ dầy, tràn lên các nhánh lá mầm non. Và cây trả nghĩa cho mưa bằng cả mùa hoa thơm trái ngọt.

    (Tiếng mưa - Nguyễn Thị Thu Trang)

    1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt nào? (0,5 điểm)

    2. Xác định và chỉ ra một biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong văn bản? (1 điểm)

    3. Mưa mùa xuân đã đem đến cho muôn loài điều gì? (1 điểm)

    4. Dựa vào nội dung câu in đậm trên, là một người con em sẽ trả nghĩa cho cha mẹ, thầy cô như thế nào khi đang ngồi trên ghế nhà trường? (1,5 điểm)

    II. LÀM VĂN (6 điểm)

    Giờ ra chơi luôn đầy ắp tiếng cười, tiếng nói, hãy viết bài văn tả quang cảnh ra chơi sân trường em.

     Đáp án đề thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 6 năm 2020 - 2021

    I. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN (4 điểm)

1. Phương thức biểu đạt chính là miêu tả ( 0,5 điểm)

2. Xác định một biện pháp tu từ:

Học sinh xác định và chỉ ra một trong những biên pháp tu từ sau: (1 điểm)

- Nhân hóa:

-> Hạt nọ tiếp hạt kia đan xuống mặt đất.

-> Mặt đất đã kiệt sức bỗng thức dậy, âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp, trong lành.

-> Đất trời lại dịu mềm, lại cần mẫn tiếp nhựa cho cây cỏ.

- So sánh -> Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại, rơi như nhảy nhót.

- Ẩn dụ -> Và cây trả nghĩa cho mưa bằng cả mùa hoa thơm trái ngọt.

3. Mưa mùa xuân mang đến cho muôn loài:

Có thể trả lời 1 trong 2 ý sau:

Mưa mùa xuân mang đến cho muôn loài sự sống và sức sống mãnh liệt. (1 điểm)Mặt đất đã kiệt sức bỗng thức dậy, âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp, trong lành. Đất trời lại dịu mềm, lại cần mẫn tiếp nhựa cho cây cỏ. (0,5 điểm)Mưa mùa xuân đã mang lại cho chúng cái sức sống ứ dầy, tràn lên các nhánh lá mầm non. (0,5 điểm)

4. Em sẽ trả nghĩa cho cha mẹ, thầy cô khi đang ngồi trên ghế nhà trường:

Chăn chỉ học tập, đạt thành tích cao trong học tập. (0,75 điểm)Yêu thương, kính trọng, ngoan ngoãn, lễ phép. (0,75 điểm)

II. LÀM VĂN (6 điểm)

*Yêu cầu hình thức:

Trình bày đúng hình thức một bài văn, viết đúng thể loại văn miêu tả.Kết cấu chặc chẽ, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, ngữ pháp.

* Yêu cầu nội dung:

Mở bài:

Giới thiệu quang cảnh giờ ra chơi bổ ích, thú vị. (0,5điểm)
Thân bài: (5 điểm)

* Tả khái quát quang cảnh trước giờ ra chơi

 Sân trường vắng vẻ, có thầy giám thị đi lại, cô lao công quét dọn.Không gian chim chóc, nắng vàng…Tiếng chuông reo vang lên báo hiệu giờ ra chơiThầy cô kết thúc tiết học các bạn ùa ra sân chơi.

* Trong giờ ra chơi:

Học sinh ùa ra sân, thầy cô vào phòng giáo viên nghi ngơi.Sân trường rộn rã tiếng cười, mỗi nhóm học sinh chơi những trò chơi khác nhau: bóng rổ, cầu lông, đá bóng…Ghế đá có vài bạn ngồi trao đổi bài, nói chuyện cười rúc rích…Những chú chim trên cành hót ríu rít….Những con gió….Khôn mặt các bạn đã lấm tấm mồ hôi…

* Sau giờ ra chơi:

Tiếng chuông reo kết thúc giời ra chơiCác bạn học sinh nhanh chân vào lớp học.Sân trường vắng vẻ trở lại…

Kết bài: (0,5điểm)

Suy nghĩ của em về giờ ra chơi.
*Lưu ý: Tùy vào cách diễn đạt của HS để cho điểm phù hợp.