Những ví dụ về sống không giản dị

Bài Làm:

Ví dụ:

Sự giản dịVí dụ
Giản dị trong lối sống sinh hoạtTrước khi đi ra ngoài, tắt hết điện trong nhà không sử dụng đến
Giản dị trong cách đối nhân xử thế, cách giao tiếpKhi gặp người lớn, em chào hỏi lễ phép
Giản dị trong lời nóiNói chuyện gần gũi, thân thiện với mọi người không phô trương, màu mè.
Giản dị trong suy nghĩKhi bạn sai, bạn xin lỗi, mình vui vẻ nhận lời và không để thù oán trong lòng

Giải Bài Tập Giáo Dục Công Dân 7 – Bài 1: Sống giản dị giúp HS giải bài tập, hiểu được những chuẩn mực đạo đức và pháp luật cơ bản, phổ thông, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi HS trong các quan hệ với bản thân, với người khác, với công việc và với môi trường sống:

Trả lời Gợi ý Bài 1 trang 4 sgk GDCD 7

Trả lời:

Bác mặc bộ quần áo Ka-ki, đội mũ vải đã bạc màu, chân đi dép cao su Bác ăn mặc giản dị không cầu kì, phù hợp với hoàn cảnh lúc đó.

+ Bác cười đôn hậu, vẫy tay chào đồng bào.

+ Thái độ thân mật như người cha hiền về với đàn con.

– Nhận xét: Thái độ chân tình, cởi mở của Bác đã xua tan tất cả những gì còn xa cách giữa Bác Hồ – Chủ tịch nước với nhân dân.

– Lời nói của Bác dễ hiểu, gần gũi thân thương với mọi người.

Trả lời:

– Sau khi giành được độc lập, Bác về sống với Thủ đô Hà Nội trong một ngôi nhà sàn làm bằng gỗ.

– Trong những bài viết, những lời kêu gọi Bác Hồ luôn dùng những từ ngữ dễ hiểu, dễ đọc để ai cũng có thể hiểu được.

– Vật dụng trong nhà Bác hết sức đơn sơ: giường mây, chiếu cói, chăn đơn…

– Bữa ãn cùa Bác đạm bạc, lúc nào cũng có rau, tương, cà (món ăn quê hương).

– Bác gần gùi với mọi người, kính trọng cụ già, thương đàn cháu nhỏ…

Trả lời:

– Không xa hoa lãng phí, phô trương.

– Không cầu kì kiểu cách.

– Không chạy theo nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài.

– Thẳng thắn, chân thật, chan hoà, vui vẻ, gần gũi, hoà hợp với mọi người trong cuộc sống hàng ngày.

Trả lời:

Giản dị là phẩm chất đạo đức cần có của mỗi người. Người sống giản dị sẽ được mọi người xung quanh yêu mến, cảm thông và giúp đỡ.

Những ví dụ về sống không giản dị

Trả lời:

Bức tranh (3) thể hiện đức tính giản dị. Bởi vì: Bức tranh (3) thể hiện đúng tác phong của người học sinh, trang phục nghiêm túc, phù hợp với lứa tuổi học sinh, tác phong nhanh nhẹn, vui tươi.

Hai bức tranh còn lại không phù hợp với lứa tuổi của học sinh: trang điểm son phấn, loè loẹt, mang giày cao gót, đeo kính râm, mặc áo phông, khi đến trường.

(1) Diễn đạt dài dòng, dùng nhiều từ cầu kì, bóng bẩy ;

(2) Lời nói ngắn gọn, dễ hiểu ;

(3) Nói năng cộc lốc, trống không ;

(4) Làm việc gì cũng sơ sài, qua loa ;

(5) Đối xử với mọi người luôn chân thành, cởi mở;

(6) Thái độ khách sáo, kiểu cách ;

(7) Tổ chức sinh nhật linh đình.

Trả lời:

Trong các câu trên, biểu hiện nói lên tính giản dị là:

– Lời nói ngắn gọn, dễ hiểu.

– Đôi xử với mọi người luôn chân thành, cởi mở.

Trả lời:

– Biểu hiện của tính giản dị:

+ Mặc dù nhà rất khá giả nhưng lúc nào Hạnh cũng ăn mặc giản dị, gần gũi, vui vẻ, chan hòa với các bạn.

+ Sinh nhật lần thứ 12, Đức tổ chức rất đơn giản song thật là vui vẻ, đầm ấm.

– Biểu hiện của tính không giản dị:

+ Gia đình Lộc cuộc sống khó khăn: bố về hưu, mẹ làm công nhân, song Lộc lúc nào cũng đua đòi chưng diện.

+ Nhi đòi mẹ tổ chức sinh nhật thật linh đình để mời bạn bè.

+ Phúc học giỏi nhưng rất ít khi Phúc gần gũi giúp đỡ những bạn học còn yếu.

Trả lời:

Những tấm gương sống giản dị xung quanh em như những bạn cùng lớp, bạn hàng xóm hay người bạn cũ mà em biết có lối sống giản dị và được mọi người yêu quý.

Trả lời:

– Quần áo gọn gàng, sạch sẽ, không ăn mặc áo quần trông lạ mắt so với mọi người.

– Tác phong tự nhiên, đi đứng đàng hoàng, không điệu bộ, kiểu cách.

– Nói năng lịch sự, có văn hoá, diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu.

– Giản dị là phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi người, vì thế ngày từ khi còn là học sinh chúng ta phải biết rèn luyện mình trong học tập, trong hành vi cư xử, trong quan hệ giao tiếp với cha mẹ, thầy cô giáo, với bạn bè.

– Thực hiện đúng nội quy của nhà trường đề ra, trang phục khi đến trường sạch sẽ, tươm tất, lịch sử, bảo vệ của Công’, không xa hoa lãng phí.

– Sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của gia đình mình.

Trả lời:

Tục ngữ:

– Tốt gỗ hơn tốt nước sơn

– Ăn lấy chắc, mặc lấy bền

– Ăn cần ở kiệm

Danh ngôn:

– Lời nói giản dị mà ý sâu xa là lời nói hay (Mạnh Tử).

– Phải luôn dùng lời lẽ, những thí dụ đơn giản thiết thực và dễ hiểu. Khi viết, khi nói phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được… (Hồ Chí Minh)

“Khiêm tốn bao nhiêu cũng chưa đủ

Tự kiêu một chút cũng là thừa”

   Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh sự nghiệp cứu nước vĩ đại, Bác đã để lại cho chúng ta một di sản văn chương vô cùng quý giá.

   Bác không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương và chưa bao giờ tự nhận mình là văn nghệ sĩ. Bác viết văn, làm thơ xuất phát từ nhận thức văn chương là vũ khí sắc bén chống quân thù và là phương tiện thuận lợi để tuyên truyền cách mạng.

   Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác đã trải qua nhiều hoàn cảnh sống và tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau. Tùy từng tình huống, từng nhiệm vụ chính trị mà Bác có cách viết cho phù hợp. Với lực lượng quần chúng cách mạng phần lớn là nông dân, công nhân, Bác đã chọn hình thức sáng tác quen thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ như ca dao, thơ lục bát... để lồng vào đó nội dung chính trị.

   Giản dị trong đời sống - đó là điều nổi bật trong phong cách của Hồ Chủ tịch . Bác cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết vì muốn cho nhân dân hiểu được, nhớ được và thực hiện được những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

   Trong qua trình vận động cách mạng, Bác làm nhiều bài ca dưới hình thức văn vần để giác ngộ quần chúng như Bài ca sợi chỉ, Bài ca binh lính, Bài ca đoàn kết... Bác viết thật mộc mạc, giản dị để người nghe, người đọc dễ tiếp thu và truyền bá cho nhau.

   Sau đây là một số ví dụ tiêu biểu:

   Sau khi về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, Bác đã viết nhiều câu thơ, bài thơ làm tài liệu giác ngộ, vận động quần chúng tham gia vào hội Việt Minh, đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật:

Muốn phá sạch nỗi bất bình, Dân cày phải kiếm Việt Minh mà vào.

   Hoặc:

Hỡi ai con cháu Hồng Bàng, Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau.

   Thơ Bác còn chỉ ra nguyên nhân khổ đau, bất hạnh của nông dân:

Dân ta không có ruộng cày, Bao nhiêu đất tốt về Tây đồn điền.

   Hay của giai cấp công nhân:

Công nhân sức mạnh nghề quen Làm ra của cải cho thiên hạ nhờ Mà mình quần rách áo xơ Tiền công thì bớt mà giờ thì thêm Lại còn đánh chửi tần phiền Cúp lương tháng trước, phạt tiền hôm qua.

   Bác thể hiện rõ nỗi khổ, nỗi nhục của kẻ lầm đường lạc lối cầm súng giặc bắn vào cha mẹ, anh em, bà con làng xóm:

Hai tay cầm khẩu súng dài, Ngắm đi ngắm lại, bắn ai bây giờ.

   Cuối năm 1946, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ cấu kết với nhau, cố tình xâm lược nước ta một lần nữa. Sau khi chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa được thành lập, với cương vị Chủ tịch, Bác đã làm bài thơ chúc mừng năm mới 1947, kêu gọi đồng bào quyết tâm kháng chiến để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do vừa giành được:

Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng. Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào! Sức ta đã mạnh, người ta đã đông. Trường kì kháng chiến, nhất định thắng lợi! Thống nhất độc lập, nhất định thành công.

   Xuân 1949 là mùa xuân tưng bừng khí thế trong bài thơ nổi tiếng của Bác:

Người người thi đua Ngành ngành thi đua, Ta nhất định thắng Địch nhất định thua; (Mừng xuân 1949)

   Cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp đã kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, chấn đông năm châu. Miền Bắc giải phóng, nhân dân nô nức bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương lớn của miền Nam - thành đồng Tổ quốc - đang ngày đêm trực tiếp đối đầu với quân xâm lược Mĩ và bè lũ tay sai.

   Bài thơ chúc Tết năm 1956 là lời Bác hô hào, động viên nhân dân cả nước đoàn kết một lòng đánh Mĩ:

Thân ái mấy lời chúc Tết: Toàn dân đoàn kết một lòng, Miền Bắc thi đua xây dựng Miền Nam giữ vững thành đồng, Quyết chí bền gan chiến đấu, Hòa bình, thống nhất thành công.

   Nhân dân Việt Nam mỗi khi Tết đến xuân về lại hân hoan, phấn khởi đón nghe thơ Bác vì đó chính là tâm tình, ý nguyện, là lí tưởng và khát vọng chiến thắng của toàn dân tộc.

   Mừng xuân 1969 là bài thơ chúc Tết cuối cùng Bác để lại cho đất nước, nhân dân:

Năm qua thắng lợi vẻ vang Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to Vì độc lập, vì tự do Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào. Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào! Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn!

   Thơ Bác chính là con người Bác, thật gần gũi, giản dị mà cũng thật sâu sắc, hào hùng. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:

Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ.

   Dân tộc Việt Nam sung sướng và hạnh phúc được chiến đấu dưới lá cờ vinh quang của Đảng, của Bác Hồ kính yêu!