Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng việt, cù đình tú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.29 KB, 41 trang )

CHUYÊN ĐỀ

PHONG CÁCH HỌCVÀ ĐẶC ĐIỂM TU TỪ TIẾNG VIỆTNgười biên soạn: Th. S. Trịnh Đức Long

Trường CĐSP Đắk Lắk

BUÔN MA THUỘT 2011

CHƯƠNG I. DẪN LUẬN VỀ PHONG CÁCH HỌCI. Phong cách học là gì?1. Thuật ngữ+ Thời Cổ đại người Hy Lạp dùng từ ”Stylos” để chỉ chiếc que dùng để viết.+ Người Pháp sau này dùng từ “Style” ban đầu có nghĩa là nét chữ, sau đó chuyển nghĩathành bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ và văn thể. Cuối cùng có nghĩa là “Phong cách”+ Trên thế giới, các ngôn ngữ như : Anh, Pháp, Nga, Ðức… đều lấy từ nguyên có nguồn gốcở tiếng Latin : Stylus ( Stilus ) nghĩa là phong cách – kết hợp với một hậu tố có nghĩa là ngànhhọc để tạo thành thuật ngữ phong cách học.Ví dụ : Tiếng Pháp : Styl – istique;Tiếng Anh : Styl – istics; Tiếng Ðức : Styl – istikTiếng Nga : CmuL – ucmukaỞ Việt Nam trước đây, các nhà ngôn ngữ học thường dùng thuật ngữ Tu từ học. Ðiều này doảnh hưởng của tu từ học truyền thống. Về sau, do nhận thấy thuật ngữ phong cách học, mộtmặt có cách cấu tạo tương đồng với thuật ngữ của nhiều ngôn ngữ, mặt khác, có khả năng gợilên sự liên tưởng đúng đến nội dung rất cơ bản của ngành khoa học này, nghiên cứu về phongcách ngôn ngữ, nên các nhà ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã dùng thống nhất thuật ngữphong cách học.2. Phong cách học là gì?Phong cách học là một ngành khoa học bộ phận của ngôn ngữ học khảo sát quy luật sử dụngcác phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của một ngôn ngữ để tạo nên những lời nói có

hiệu quả xét về phương diện cách thức biểu đạt bắt nguồn từ nhu cầu diễn đạt ý tưởng nhằm

đạt một mục đích nào đó trong giao tiếp.II. Lịch sử hình thành phong cách học trên thế giới và Việt Nam1. Trên thế giới1.1. Phương Tây– Theo truyền thuyết, vào thế kỉ thứ V Tr.CN, ở đảo Sicie, hai nhà hùng biện là Corax vàTisias đã sáng tạo ra môn Tu từ học, nghiên cứu hoạt động ngôn từ với tư cách là diễn từ. Saunày, các nhà hùng biện Hi Lạp và La Mã dù có nhấn mạnh bộ phận này hay bộ phận khác củatu từ học, nhưng về đại thể vẫn giữ lại những nét chung tiêu biểu.– Ðến thế kỉ thứ IV- III Tr.CN, một số triết gia Hi Lạp và La Mã như: Platon (428-347),Democrite (460- 370), Aristote (384- 322)… đã hình thành môn học đặt tên là Rhêtorikê (Mĩ từpháp). Ðến thế kỉ thứ I Tr.CN, Virgile, nhà thơ La Mã, đề xuất ý kiến về sự phân chia cácphong cách diễn đạt. Nội dung của Mĩ từ pháp cổ đại gồm: Các phép mĩ từ (Figura) dùngtrong diễn đạt; Phong cách diễn đạt; Cơ cấu một bài văn. Mĩ từ pháp cổ đại đã có ảnh hưởnglớn đến ngôn từ hùng biện, đến nghệ thuật viết văn thời cổ đại và sau này truyền đi khắp châuÂu.– Ðầu thế kỉ XX, khoa học ngôn ngữ trên thế giới bước vào một thời kì mới, mở đầu bằng hệthống các luận điểm trong bài giảng của nhà ngôn ngữ học vĩ đại người Thụy Sĩ, Ferdinand deSaussure (1857-1913). Ông đã đào tạo nên nhiều nhà ngôn ngữ học tài giỏi mà hai trong số đólà Charles Bally và Alber Sechehaye.– Năm 1908, Albert Sechehaye cho xuất bản cuốn Phong cách học và ngôn ngữ học lí thuyết.Ông là người đầu tiên chỉ ra sự cần thiết phải xem phong cách học là một ngành độc lập củakhoa học ngữ văn.– Năm 1909, cuốn Khảo luận về phong cách học tiếng Pháp của Charles Bally ra đời; trongđó tác giả đề cập những vấn đề về đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu của phong

2

cách học. Charles Bally được coi như là người đề xướng và khai sinh cho ngành phong cáchhọc ở nước Pháp nói riêng và trên thế giới nói chung.

– Năm 1919, Leo Spilzer mở rộng sự quan tâm đến những thuộc tính phong cách của văn

bản, nhấn mạnh đến những luận điểm của Buffon Phong cách chính là con người và cho rằngsự kiện phong cách bao gồm cả phần tư duy và phần tình cảm. Khuynh hướng này được mệnhdanh là phong cách mới.– Suốt nửa đầu thế kỉ, các nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm nhiều đến các vấn đềngôn ngữ học đại cương, lí luận âm vị học, lí luận ngữ pháp mà ít quan tâm đến phong cáchhọc và chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ vào nửa sau thế kỉ XX.1.2. Phương Ðông– Vào thế kỉ thứ IV Tr .CN, Mặc Tử đã có những ý kiến bàn luận về sự biến hoá của lời nóitrong các văn cảnh khác nhau bằng khái niệm Thiên hành. Thực chất là bàn luận về sự hànhchức của các đơn vị ngôn ngữ trong thực tiễn nói năng. Thời Chiến Quốc, một số danh gia nhưHuệ Thi, Công Tôn Long cũng có những luận bàn về mối quan hệ giữa tên gọi và sự vật. Dùlập luận còn mang màu sắc ngụy biện nhưng họ đã dùng đến các biện pháp tu từ mà nay chúngta định danh là: so sánh, tương phản, ngoa dụ…– Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử, một đại biểu xuất sắc của phái Nho gia đã có những pháthiện mới khi bàn về tính ước lệ (quy ước) của tên gọi nói riêng và của ngôn ngữ nói chung:Ước lệ đã thành thói quen thì bảo là đúng; khác với thói quen thì bảo là không đúng. Ðiều nàycó liên quan đến khái niệm mà phong cách học dùng sau này, đó là khái niệm chuẩn mực.2. Ở Việt Nam2.1. Trong các quyển Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Ðôn cho biết các nhà tríthức Việt Nam như: Hoàng Ðức Lương (thế kỉ XV), Phùng Khắc Khoan (thế kỉ XVI), Lê HữuKiều (thế kỉ XVIII)… đã có những ý kiến bàn luận về cách luyện văn, luyện câu, luyện chữnghĩa trong văn chương.2.2. Từ cuối thế kỉ XIX đến khoảng trước 1964, nhiều học giả đã nghiên cứu, khảo sát vàkhái quát những vấn đề về ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng của tiếng Việt như: Trương Vĩnh Ký,Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Lê Văn Lý, Nguyễn Hiến Lê,…2.3. Năm 1964, quyển Giáo trình Việt ngữ ( tập III- phần Tu từ học ) của Ðinh Trọng Lạc rađời. Có thể xem giáo trình này đánh dấu sự xuất hiện thực sự của khoa học về phong cách họcở Việt Nam. Từ đó đến nay, rất nhiều quyển giáo trình mới về phong cách học được xuất bản.Tiêu biểu như : Phong cách học tiếng Việt (1982) của tập thể tác giả Cù Ðình Tú (chủ biên),

Lê Anh Hiền, Nguyễn Nguyên Trứ; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (1983) của

Cù Ðình Tú; Phong cách học tiếng Việt (1993) của Ðinh Trọng Lạc,…III. Đối tượng nhiệm vụ của phong cách học1. Đối tượng nghiên cứu của phong cách họcTrên những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa học nghiên cứu sự vận dụngngôn ngữ, nói khác đi, nó là khoa học về quy luật nói viết có hiệu lực. Sử dụng ngôn ngữ cóhiệu lực cao ở đây có nghĩa là: nói, viết đạt được tính chính xác cao, tính đúng đắn và tínhthẩm mĩ trong mọi phạm vi hoạt động của giao tiếp xã hội. Nói cách khác, ngôn ngữ được sửdụng có hiệu quả cao là ngôn ngữ phải thực hiện được tất cả chức năng xã hội của nó. Do nhấnmạnh về mặt này hay mặt khác đối với việc vận dụng ngôn ngữ mà các nhà nghiên cứu đã cónhững quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu.1.1. Đối tượng nghiên cứu của phong cách học là yếu tố biểu cảm của ngôn ngữ:Người đề xướng quan điểm này là Charles Bally. Theo ông phong cách học nghiên cứu cácsự kiện biểu đạt của ngôn ngữ trên quan điểm nội dung biểu cảm của chúng, nghĩa là sự biểuđạt các sự kiện tình cảm bằng ngôn ngữ và tác động của ngôn ngữ đối với tình cảm.Nhà từ điển học Tây Ban Nha, H .Casares cũng tán thành quan điểm này: Sự nghiên cứu vàđánh giá các yếu tố đi kèm theo phần thông báo trung hòa – logic thuần trí tuệ là đối tượng của

3

phong cách học. Ông cho rằng Phong cách học có nhiệm vụ tách ra các yếu tố phi quan niệm,đồng thời nghiên cứu các yếu tố phi quan niệm có trong biểu đạt.*Nhận xét: Quan điểm của Charles Bally và những người ủng hộ quan điểm này là đúngnhưng chưa đủ. Trong việc vận dụng ngôn ngữ, các yếu tố biểu cảm đóng một vai trò hết sứcquan trọng. Tài năng, sức hấp dẫn của người nói, người viết thể hiện một cách tập trung và rõnét trong việc vận dụng và sáng tạo các yếu tố biểu cảm. Thế nhưng trong giao tiếp, khôngphải lúc nào các yếu tố biểu cảm cũng có thể có mặt.Ví dụ: trong giao tiếp hành chính và khoa học không cần có sự tham gia của yếu tố biểu cảmCái quyết định tạo nên một lời nói có hiệu lực cao là ở chỗ lựa chọn các phương tiện ngônngữ phù hợp với thực tế giao tiếp. Chính vì thế, quan điểm này không được các nhà ngôn ngữ

học Việt Nam ủng hộ.

1.2. Đối tượng nghiên cứu phong cách học là các phong cách chức năng ngôn ngữMột số nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc như : Havranek, Jedlicka, Dolejel… xuất phát từ sự xácđịnh phạm trù chung nhất của phong cách học là phong cách ngôn ngữ, đã xem phong cáchngôn ngữ là đối tượng của phong cách học. Havranek cho rằng: Nghiên cứu thể văn là côngviệc khoa học về thể văn (phong cách) hoặc phong cách học. Còn Dolejel cho rằng phạm trùchung quan trọng nhất là phong cách học.* Nhận xét: Trong giao tiếp, phong cách chức năng ngôn ngữ là một trong những tiêu chuẩnđể đánh giá tính chất đúng đắn, tính có hiệu lực cao của lời nói. Mỗi cá nhân trong quá trìnhvận dụng ngôn ngữ, tự giác hay không tự giác đều phải theo một phong cách chức năng ngônngữ nhất định. Do vậy quan điểm của các nhà ngôn ngữ học trên là có cơ sở nhưng cũng chưađủ. Phong cách chức năng ngôn ngữ phải là một trong những nội dung quan trọng của phongcách học nhưng nếu xem đấy là nội dung duy nhất thì có phần cực đoan vì còn có vấn đề lựachọn và vận dụng các phương tiện ngôn ngữ biểu cảm cũng như cả các phương tiện ngôn ngữtrung hoà. Thực tế trong giao tiếp đều thực hiện ở một phong cách chức năng ngôn ngữ nàođó nhưng ta không thể rập khuôn theo một cách nói năng (dù thống nhất và phù hợp với PC)nếu đối tượng, tình huống giao tiếp thay đổi. Mỗi phong cách chức năng ngôn ngữ cũng lạitồn tại dưới những biến thể.Ví dụ: Phong cách khẩu ngữ có khẩu ngữ văn hoá và khẩu ngữ thông tục ứng với những hoàncảnh, đối tượng và mục đích giao tiếp khác nhau. Do vậy quan điểm này cũng không được cácnhà ngôn ngữ học Việt Nam ủng hộ.1.3. Đối tượng nghiên cứu phong cách học là quy luật lựa chọn các phương tiện ngôn ngữMột số nhà ngôn ngữ học Pháp và Liên Xô như: Julies, Maroujeau, K.Moren, R.G.Piotroski…xem việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ là đối tượng của phongcách học.Moren viết phong cách học là ngành ngữ văn độc lập, nghiên cứu những nguyên tắc lựa chọnvà sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu đạt một nội dung nhất định trong những hoàncảnh giao tiếp nhất định .* Nhận xét: Trong ngôn ngữ cũng như trong lời nói, luôn luôn có khả năng tồn tại những biếnthể cùng nghĩa. Do vậy, trong giao tiếp chúng ta đều phải làm công việc lựa chọn các biến thể

cùng nghĩa:

– Lựa chọn các biến thể cùng nghĩa để nói hoặc viết khi phát tin.– Lựa chọn những biến thể cùng nghĩa để hiểu khi nhận tin.Lựa chọn là một hoạt động thường xuyên trong giao tiếp. Nội dung của sự lựa chọn là: lựachọn các yếu tố biểu cảm và không biểu cảm, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và phươngpháp diễn đạt phù hợp với phong cách. Sự lựa chọn cách nói, cách hiểu như trên thường diễnra trong tiềm thức, một cách tự nhiên và đôi khi nếu không để ý, ta không nhận ra điều đó.Chỉ khi nào gặp phải trường hợp viết không ra ý, nói chẳng thành lời chúng ta mới thấy vấn đềnói, viết không phải dễ dàng và việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ đễ diễn đạt thật quantrọng biết bao. Thao tác lựa chọn này (cả thao tác kết hợp) diễn ra một cách trừu tượng. Trong

4

sáng tác văn chương, sự lựa chọn này rất quan trọng và bộc lộ rõ ràng hơn. Người nói càngthành thạo thao tác lựa chọn bao nhiêu, càng tập hợp được nhiều đơn vị ngôn ngữ tương đồngvà dị biệt để lựa chọn thì hiệu quả diễn đạt của họ càng cao bấy nhiêuỞ Việt Nam, quan điểm này được các nhà ngôn ngữ học ủng hộ. Thực tế giao tiếp cho ta thấykhi vận dụng ngôn ngữ mỗi cá nhân đều bị chi phối bởi quy luật này. Người nói luôn phải suynghĩ đến điều kiện và hậu quả cũng như kết quả của lời nói mình. Kho tàng tục ngữ của ta córất nhiều câu nói về kinh nghiệm nói, viết .Ví dụ:– Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.– Ăn có nhai, nói có nghĩ.– Bút sa gà chết.Khi nói, viết cần phải suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:– Nói, viết cho ai nghe? – Nói, viết về cái gì? – Nói, viết để làm gì?– Nói, viết như thế nào? – Nói, viết lúc nào?Có như thế mới có thể đạt hiệu quả cao khi giao tiếp. Và để trả lời các câu hỏi trên, chúng taphải lựa chọn ngôn từ cho phù hợp. Như thế, lựa chọn là hoạt động cơ bản nhất chi phối toànbộ quá trình vận dụng ngôn ngữ.

=> Đối tượng của phong cách học: Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học

nghiên cứu nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phươngtiện ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng tình cảm nhất định trong những phongcách chức năng ngôn ngữ nhất định.Lựa chọn để sử dụng các phương tiện ngôn ngữ đạt hiệu quả cao trong giao tiếp là một yêucầu tất yếu khi nói, viết. Khi lựa chọn sử dụng các phương tiện ngôn ngữ cần chú ý các thaotác lựa chọn:– Xác định nội dung biểu đạt– Xác định phong cách lời nói– Liên hội những hình thức biểu đạt cùng nghĩa– Thử nghiệm và lựa chọn những hình thức biểu đạt cùng nghĩa cần thiết– Kiểm tra lại văn bản hay phát ngôn đã lựa chọn2. Nhiệm vụ nghiên cứu của phong cách học2.1. Chỉ ra khả năng và hiệu lực biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ trong từng phongcách ngôn ngữ.2.2. Cách vận dụng các phương tiện ngôn ngữ để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp, đúngphong cách ngôn ngữ.Việc chỉ ra khả năng và hiệu lực biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ trong từng phongcách chức năng ngôn ngữ là rất quan trọng. Các phương tiện ngôn ngữ bao giờ cũng tồn tạidưới dạng lớn hơn một, tức dưới dạng những biến thể.Ví dụ: âm vị có các âm tố thể hiện; ý nghĩa từ vựng có các từ cùng nghĩa thể hiện; ý nghĩa ngữpháp có các dạng thức thể hiện.Trong thực tế giao tiếp có những cách nói cùng nghĩa xuất hiện rất linh động, đa dạng vàphong phú. Mỗi dạng biến thể này đều có những đặc điểm tu từ riêng đòi hỏi cần phải nắm rõ,hiểu đúng. Có như thế mới vận dụng phù hợp trong từng phát ngôn cụ thể.Phong cách học có liên quan mật thiết đến những vấn đề sau :– Xây dựng chuẩn mực ngôn ngữ, trong đó có chuẩn mực phong cách– Trau giồi ngôn ngữ– Giữ gìn sự trong sáng của tiếng nói dân tộcIV. Phong cách học với chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn mực phong cách

1.Chuẩn mực ngôn ngữ

1.1.Chuẩn mực ngôn ngữ là hệ thống các phương tiện biểu hiện tốt nhất, hợp lí nhất và đượcmọi người thừa nhận, cùng sử dụng để giao tiếp với nhau trong một thời kỳ nhất định; trở

5

thành những quy ước ngôn ngữ trong xã hội. Chuẩn mực ngôn ngữ được thể hiện trong cácphạm vi: Phát âm, chữ viết, dùng từ và đặt câu.Ví dụ:Phát âmChính tảDùng từ

Đặt câu

Chuẩn mựcCon trâu trắng nằm trong bụi treRượu, tra cứu, năng suất, quyên gópGội đầu, chẻ củiBằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổibật sự hy sinh to lớn của những người mẹ

Việt Nam

Không chuẩn mựcCon tâu tắng nằm tong bụi teRiệu, cha kíu, năng xuất. khuyên gópRửa đầu, thái củiVới nghệ thuật so sánh của tác giả đãlàm nổi bật sự hy sinh to lớn của

những người mẹ Việt Nam

1.2. Chuẩn mực ngôn ngữ phụ thuộc vào lịch sử, nó thể hiện những quy luật lịch sử của sự

phát triển của ngôn ngữ cũng như những khuynh hướng phát triển tiêu biểu của thời đại.Chuẩn mực ngôn ngữ là tập hợp những phương tiện ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu của xã hội,rút ra từ sự lựa chọn trong các yếu tố ngôn ngữ.VD: Chánh trị – Chính trị (Biến thể ngữ âm)1.3. Ðể lựa chọn tốt, tìm những yếu tố ngôn ngữ nhằm sử dụng phù hợp tất phải có sự sosánh nên chuẩn mang tính chất so sánh. Vì thế, không có biến thể, không có sự lựa chọn biếnthể thì không có sự so sánh và chuẩn. Giải quyết vấn đề biến thể là công việc của chuẩn mựcngôn ngữ. Chức năng của chuẩn chính là sự quy định và điều chỉnh cách sử dụng các biến thểngôn ngữ. Chuẩn mực ngôn ngữ chỉ trả lời câu hỏi dùng có đúng với ngôn ngữ văn hóa haykhông?. Chuẩn mực ngôn ngữ chỉ giải quyết vấn đề nên sử dụng các phương tiện ngôn ngữnào cho phù hợp với cái chung. Việc sử dụng ngôn ngữ như thế nào để đạt hiệu quả cao thìchuẩn mực ngôn ngữ không bàn đến.2. Chuẩn mực phong cách:2.1. Chuẩn mực phong cách là toàn bộ cách chỉ dẫn thể hiện tính quy luật bắt buộc ở một thờikì nhất định của một ngôn ngữ sao cho phù hợp với phong cách của hoạt động lời nói và vớicác kiểu và thể loại văn bản. Chuẩn mực phong cách gắn với phạm vi đặc trưng của hoạt độnglời nói, với một kiểu, một thể loại văn bản cụ thể. Chuẩn mực phong cách chỉ trả lời câu hỏi:Dùng có phù hợp với ngữ cảnh hay hoàn cảnh này không ?Ví dụ: Trong nói năng thân mật hàng ngày, dùng các từ như : Cây số, kí, cân, lạng, thước… làphù hợp, nhưng trong phong cách khoa học chúng ta phải dùng: Kilomet, kilogam, mét,…2.2. Chuẩn mực phong cách không thủ tiêu mà lợi dụng các biến thể, quy định phạm vi sửdụng cho từng biến thể để tận dụng khả năng diễn đạt của ngôn ngữ nhằm đáp ứng các yêu cầudiễn đạt ngày càng đa dạng, phức tạp, tinh tế của trí tuệ và tình cảm của con người.VD: Tiêu đề “Tràng giang” (thơ Huy Cận) biến âm của từ “trường giang”: sông dài)2.3. Sự biểu đạt được đánh giá là tốt theo quan điểm phong cách học trước hết phải là sự biểuđạt phù hợp với chuẩn mực ngôn ngữ trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; sự biểuđạt đó phải phù hợp với chuẩn mực phong cách chức năng ngôn ngữ. Không được mượn cớsáng tạo, bất chấp chuẩn mực, tạo nên những kiểu nói lập dị hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữtiếng Việt

Vd: no cơm áo, cười thênh thênh, cặp mắt đĩnh ngộ, đẹp dã man…

* Lưu ý: Trong thực tế sáng tác văn chương ta thường bắt gặp những cách nói có vẻ lệchchuẩn ngôn ngữ, nhưng đây là sự lệch chuẩn với dụng ý tu từ nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuậtcủa tác giả; Ở những nhà văn tài hoa, hiện tượng lệch chuẩn thành công góp phần tạo nên sựđộc đáo về nghệ thuật.Ví dụ:Một câu hỏi lớn. Không lời đáp ( Huy Cận)Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa (Xuân Diệu)Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng)V. Những khái niệm cơ bản của phong cách học

6

1. Ðặc điểm tu từ1.1. Điểm khác biệt giữa hệ thống tín hiệu ngôn ngữ và hệ thống tín hiệu khác ở chỗ cùngmột đối tượng, một nội dung thông báo nhưng ngôn ngữ có nhiều cách diễn đạt khác nhau.Nói cách khác, có nhiều hình thức biểu đạt cùng nghĩa để cùng chỉ một đối tượng, một thôngbáo nào đó. Trước tình hình này, người phát ngôn hay người thu ngôn đều cần phải cân nhắc,lựa chọn một hình thức biểu đạt nào đem lại hiệu quả tối ưu nhất. Nguyên nhân của hiện tượngnày là do:– Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa gắn với một cách thức nhìn nhận, một thái độ đánh giátình cảm nhất định.– Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa cũng lại gắn với một phạm vi nói, viết một phongcách chức năng ngôn ngữ nhất định.Vd: Hiện tượng sử dụng các từ gần nghĩa mang màu sắc phong cách: Tặng: Sắc thái thân mật, chân tình Biếu: Sắc thái lễ phép, kính trọng Hiến: Sắc thái thiêng liêng ,cao cả Thí: Sắc thái xem thường, coi khinhMỗi từ được chọn lựa sử dụng cho phù hợp trong từng hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp khác nhau.

1.2. Khái niệm đặc điểm tu từ được rút ra từ hiện tượng biểu đạt cùng nghĩa nói trên. Ðặc

điểm tu từ là phần nội dung biểu hiện bổ sung của tín hiệu ngôn ngữ khi tồn tại dưới hình thứcbiểu đạt cùng nghĩa (nội dung cơ sở). Phần này một mặt chỉ rõ thái độ đánh giá tình cảm củađối tượng được nói đến, một mặt chỉ rõ chức năng phong cách của tín hiệu ngôn ngữ. Có thểthấy rõ điều này khi so sánh đặc điểm tu từ của các từ xưng hô trong những câu thơ sau:Mình về với Bác đường xuôiThưa dùm Việt Bắc không nguôi nhớ NgườiNhớ ông Cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường( Việt Bắc – Tố Hữu)Tín hiệu Nội dung cơ sởngôn ngữ (thuần ý niệm)BÁCNGƯỜI

ÔNG CỤ

Chủ tịchHồ Chí Minh với

tư cách công dân

Nội dung biểu hiện bổ sung (ngoài ý niệm)Sắc thái biểu cảmThành kính, một cách thân thiết,ruột thịtThành kính một cách thiêngliêng, cao cảKính trọng một cách bình dân,

mộc mạc

Màu sắc phong cách
Khẩu ngữ dụng trong nhiều

phạm viGọt giũa dụng trong phạm vitrang nghiêmLời nói thông dụng của đồng

bào Việt Bắc

2. Màu sắc phong cách:2.1. Ngôn ngữ là một hệ thống gồm nhiều nguyên tắc, quy luật và ước lệ mà những ngườicùng sống chung trong một cộng đồng ngôn ngữ quy định. Do thói quen sử dụng trong quátrình hành chức, mỗi đơn vị ngôn ngữ thường gắn với một hoặc vài phạm vi giao tiếp nào đó.Chính những phạm vi được hình thành do thói quen mang tính truyền thống này mà cácphương tiện ngôn ngữ thu nhận cho mình cái dấu ấn riêng của môi trường nói vốn quen thuộcvới chúng. Dấu ấn về phạm vi sử dụng của các phương tiện ngôn ngữ được gọi là màu sắcphong cách. Vậy màu sắc phong cách của đơn vị ngôn ngữ là nội dung biểu hiện bổ sung chỉrõ giá trị chức năng của đơn vị ngôn ngữ, gợi cho ta liên tưởng đến phong cách chức năng,đến môi trường, phạm vi mà đơn vị ngôn ngữ thường được sử dụng.Ví dụ: Các đơn vị từ vựng như: Vác mặt, chí phải, bằng vai phải lứa, bằng anh bằngem…thường xuất hiện trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên mang màu sắc khẩu ngữ.

7

Các đơn vị từ vựng như: thừa lệnh, ủy quyền, quyết định, thực thi, đính kèm… thường xuấthiện trong phong cách hành chính…2.2. Màu sắc phong cách của các phương tiện ngôn ngữ thể hiện ở tất cả các cấp độ như:Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Căn cứ vào sự xuất hiện tự do hay hạn chế của các đơn vị ngônngữ khi xuất hiện trong các phong cách chức năng ngôn ngữ mà người ta chia ra làm hai loại:Ða phong cách và đơn phong cách.– Đơn vị ngôn ngữ nào có khả năng xuất hiện trong tất cả các phong cách được gọi là đơn vịcó màu sắc đa phong cách.

– Ðơn vị ngôn ngữ nào chỉ xuất hiện ở một hoặc vài phong cách chức năng ngôn ngữ nhất

định được gọi là đơn vị có màu sắc đơn phong cách.Ví dụ: – Các từ: cha mẹ, to lớn, sông núi, cây cỏ, … có phạm vi sử dụng khá rộng rãi, phù hợpvới nhiều phong cách ngôn ngữ, nên có màu sắc đa phong cách.– Các từ: phụ mẫu, vĩ đại, giang sơn, thảo mộc,… thường chỉ xuất hiện trong giao tiếp mangtính nghi thức, nên có màu sắc đơn phong cách.3. Sắc thái biểu cảm :3.1. Trong quá trình nhận thức, con người luôn luôn bày tỏ sự đánh giá, nhận xét của mìnhvề các đối tượng được đề cập. Sự đánh giá nhận xét này có thể được thể hiện bằng các phươngtiện ngôn ngữ hoặc các phương tiện ngoài ngôn ngữ. Trong việc thể hiện thái độ đánh giá tìnhcảm của mình bằng các phương tiện ngôn ngữ, không phải những đơn vị ngôn ngữ nào cũngmang sắc thái biểu cảm như khái niệm này. Nếu sự thể hiện tình cảm bằng những từ định danhtình cảm như : vui, buồn, yêu, ghét, đau đớn, phẫn nộ,… thì nó không tạo ra sắc thái biểu cảm(expressive colouring) như khái niệm mà ta đề cập ở đây. Sắc thái biểu cảm là nội dung biểuhiện bổ sung chỉ rõ thái độ đánh giá tình cảm của người nói đối với đối tượng được đề cập,được nhận thức trong các đơn vị ngôn ngữ.Ví dụ:Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênh (Lượm – Tố Hữu)Sắc thái biểu cảm của đoạn thơ trên được thể hiện qua các thông tin bổ sung từ các từ láy:loắt choắt, xinh xinh, thăn thoắt, nghênh nghênh biểu thị vẻ đẹp hồn nhiên trong sáng trẻ thơcủa chú bé liên lạc được thể hiện qua cái nhìn đầy âu yếm, thương yêu của tác giả.3.2. Sắc thái biểu cảm có thẻ là khẳng định, dương tính (tôn vinh, ca ngợi, tán dương, tựhào…). cũng có thể là phủ đinh, âm tính (chê bai, lên án, phẫn nộ, mỉa mai, giễu cợt…) có thểbiểu thị qua cách sử dụng từ ngữ, cấu trúc câu văn, giọng điệu ngôn ngữ…Vd: Giọng văn giễu nhại trong “Số đỏ” mỉa mai đả kích xã hội thượng lưu”“Còn lai lịch Phó Đoan kể ra nghe cũng hay hay. Hồi đương xuân bà bị lính Tây hiếp… Saucuộc hiếp trái phép đến ngày cuộc hiếp đúng luật, nghĩa là cuộc làm đám cưới. Người lính

ấy sau thành ông Phó Đoan. Ăn ở với nhau độ 10 năm, chết trung thành với nhà nước, chết

chung tình với vợ, chết như những người yêu vợ quá sức. Rồi bà lấy ông phán trẻ 2 năm sauthì ông chồng nội hóa cũng lăn ra chết. Vì lẽ chưa ai thấy có 3 nhân tình, nên những ngọnlưỡi rắn độc phao rằng những ngọn lửa tình do những kẻ chim bà không được đã khêu lên,bà bắt ông phán phải rập tất cả. Bà chính chuyên đến nỗi chồng bà kiệt lực, cạn sức phảitrốn xuống suối vàng”4. Phong cách chức năng ngôn ngữ4.1. Phong cách chức năng ngôn ngữĐây là một trong những vấn đề trung tâm và là một phạm trù cơ bản nhất của phong cáchhọc. Đây là một dạng tồn tại của ngôn ngữ dân tộc được định hình thành những dạng nhất địnhbởi quy luật lựa chọn và sử dụng các phương tiện biểu hiện do các nhân tố ngoài ngôn ngữ(hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp) chi phối vàquy định.

8

4.2. Những nhân tố tạo nên phong cách chức năng ngôn ngữPhong cách chức năng ngôn ngữ được tạo nên bởi hai nhân tố: nhân tố ngôn ngữ và nhân tốngoài ngôn ngữ.a. Nhân tố ngôn ngữ : Bao gồm các phương tiện ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, cúpháp. Các yếu tố này giữ vai trò là phương tiện biểu hiện, tức làm rõ diện mạo, cụ thể hóa diệnmạo của phong cách chức năng ngôn ngữ. Chính nhờ các phương tiện này mà chúng ta có thểkhảo sát các đặc trưng diễn đạt và đặc điểm ngôn ngữ của từng phong cách.b. Nhân tố ngoài ngôn ngữ : Có rất nhiều các nhân tố chi phối việc lựa chọn các phươngtiện ngôn ngữ khi giao tiếp. Ví dụ như hoàn cảnh của người nói (viết) và người đọc (nghe);hoàn cảnh xã hội; nói điều gì cho thích hợp; nói để làm gì và nhằm mục đích gì; tổ chức nộidung và cách thức nói năng như thế nào cho thích hợp; thời điểm giao tiếp…Nói cách khác, khinói năng, chúng ta phải xử lí hàng loạt các vấn đề như: Phát ngôn cho ai? Tình huống phátngôn như thế nào? Phát ngôn về cái gì? Phát ngôn để làm gì? Phát ngôn như thế nào? Tuynhiên, chúng ta thấy có ba nhân tố quan trọng nhất chi phối việc chúng ta lựa chọn các phương

tiện ngôn ngữ khi giao tiếp và cũng chính từ ba nhân tố này (tất nhiên cùng cả những nhân tố

có liên quan khác) đã góp phần hình thành nên các phong cách chức năng ngôn ngữ.Nhân tố ngoài ngôn ngữ bao gồm: Ðối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp và mục đíchgiao tiếp.– Ðối tượng giao tiếp: Ðối tượng tham gia giao tiếp là nhân tố quan trọng nhất có tác dụngquyết định đến việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ trong giao tiếp. Mỗi người trong giaotiếp bao giờ cũng xuất hiện với một tư cách, một cương vị nhất định mà mối quan hệ gia đìnhvà xã hội đã quy định. Nói cho ai nghe ? Viết cho ai đọc ? Người nghe là ai ? Tâm tư tình cảmthế nào, quan hệ với chúng ta ra sao? Trình độ học vấn, nghề nghiệp ?… Tất cả những điều đóta cần phải tìm hiểu khi tham gia giao tiếp, xác định rõ trước khi nói viết. Có như thế mới đạthiệu quả cao trong giao tiếp.VD: Tùy theo đối tượng giao tiếp mà tư lựa chọn đại từ nhân xưng cho phù hợp (Vai xã hội)– Hoàn cảnh giao tiếp: Giao tiếp xã hội hiện nay thường được xuất hiện và tồn tại ở haidạng: giao tiếp theo nghi thức và giao tiếp không theo nghi thức. Hoàn cảnh theo nghi thức làhoàn cảnh xã hội trong đó diễn ra hành vi giao tiếp bằng lời nói mang tính chất đúng đắn,nghiêm túc, hoàn chỉnh. Hoàn cảnh không theo nghi thức là hoàn cảnh xã hội trong đó diễn rahành vi giao tiếp mang tính chất tự nhiên, thoải mái, đôi khi tùy tiện. Do hoàn cảnh giao tiếpkhác nhau nên có những phương tiện ngôn ngữ phù hợp cho mỗi dạng. Giao tiếp có hoàn cảnhkhông theo nghi thức thì việc vận dụng các phương tiện ngôn ngữ không cần gọt giũa lắm, ítchú ý hay có ý thức hướng tới chuẩn mực, thường tự do thoải mái trong phát âm, ít khi chuẩnbị trước. Giao tiếp thuộc hoàn cảnh theo nghi thức thì việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữcó những yêu cầu và đòi hỏi ngược lại.VD: Sử dụng từ ngữ khi giao tiếp trong hội họp khác với trong sinh hoạt đời thường– Mục đích giao tiếp: Mục đích là cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được trong hoạt độngcó ý thức của con người. Mọi hành vi lời nói đều hướng tới một mục đích thực tiễn nhất địnhvà đều cần phải chọn một hình thức diễn đạt thích hợp. Cùng một nội dung giao tiếp nhưngnếu xuất phát từ những mục đích giao tiếp khác nhau như: thông báo, trao đổi, tác động, chứngminh, sai khiến hay thẩm mỹ… sẽ dẫn đến cách dùng từ, đặt câu và phương pháp diễn đạt khácnhau.VD: Cách sử dụng từ ngữ trong văn bản hành chính khác với văn bản biểu cảm

4.3. Phong cách ngôn ngữ và lời nói cá nhân:

– Trong nói năng, dù muốn hay không, mọi người đều nói, viết theo một phong cách ngônngữ nhất định. Tuy nhiên, việc vận dụng đó còn tuỳ thuộc vào năng lực ngôn ngữ của mỗingười, không phải ai cũng sử dụng phù hợp, đúng đắn, sâu sắc và tinh tế như nhau. Lời nói cánhân là kết quả của việc thực hiện phong cách ngôn ngữ của mỗi cá nhân ở trong thực tế. Lời

9

nói cá nhân vừa bao hàm cái chung, phong cách ngôn ngữ, vừa chứa đựng cái riêng, do cánhân sử dụng.– Phong cách chức năng ngôn ngữ là cái chung, cái trừu tượng tồn tại trong ý thức của mỗingười, còn lời nói cá nhân là cái riêng, cái cụ thể tồn tại trong những phát ngôn cụ thể. Mốiquan hệ giữa phong cách chức năng ngôn ngữ và lời nói cá nhân là mối quan hệ giữa cáichung và cái riêng, cái có tính logic và cái có tính lịch sử. Phong cách chức năng ngôn ngữkhông chỉ quy định lời nói cá nhân mà ngược lại nó còn được lời nói cá nhân nuôi dưỡng. Mỗibiến đổi của phong cách chức năng ngôn ngữ đều bắt đầu từ lời nói cá nhân. Xét cho cùng,mối quan hệ giữa phong cách chức năng ngôn ngữ và lời nói cá nhân được xây dựng và xácđịnh trên cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và lời nói.VII. Các phương pháp phân tích và nghiên cứu phong cách học1. Phép thế tu từ (Thử nghiệm tu từ)Phép thế tu từ là cách thay đổi một vài từ trong câu, một vài câu trong đoạn văn có ý nghĩatượng trưng để làm nổi bật giá trị của những từ và câu dùng trong nguyên tác.Vd: Xắn tay mở khóa động đàoRẽ mây thông tỏ lối vào thiên thai (Truyện Kiều – Nguyễn Du)( Xắn tay bẻ cái hàng ràoRẽ cây thông tỏ lối vào nhà Kim)2. Phép đối chiếu – so sánhPhép đối chiếu – so sánh là cách xếp đặt những sự kiện biểu đạt đồng nghĩa cạnh nhau đểlàm nổi bật những giá trị của sự kiện được đối chiếuVd: Đã tan tác những bóng thù hắc ám

Đã sáng lại trời thu tháng Tám (Tố Hữu)

(Bóng thù hắc ám đã tan tác, mùa thu tháng Tám đã sáng lại)3. Phép thống kê tu từ (phong cách học)Phép thống kê là phương pháp được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trong đó có thốngkê ngôn ngữ học. Phép thống kê tu từ là sự lựa chọn xếp đặt các đơn vị có nghĩa và màu sắc tutừ để nhận diện một phong cách chức năng hay phong cách biểu đạt của một phong cách cánhân, từ đó đưa ra nhận xét về giá trị.Vd: Để phân tích phong cách ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, ta có thể thống kê tần số sửdụng những đơn vị từ láy, từ tượng hình, tượng thanh xuất hiện ở cuối dòng thơ: Chín mõmmòm, hõm hòm hom, vỗ phập phòm, rơi lõm bõm, trơ toen hoẻn… những màu sắc đậm, nhữngđộng từ chỉ hành động mạnh mẽ (vấn đề thi pháp ngôn từ).4. Phép bình giá các giá trị (phân tích định tính)Các phép thay thế, đối chiếu – so sánh hay thống kê tu từ học thường được sử dụng để nhậndiện một phong cách ngôn ngữ nhưng mục đích cuối cùng là phải đưa ra những phán đoán giátrị (đặc biệt khi phân tích văn bản).– Giá trị biểu đạt: dựa vào phép thế, đối chiếu so sánh, thống kê tu từ để khẳng định đây làsự lựa chọn tối ưu các phương tiện của tiếng Việt. Giá trị biểu đạt trả lời câu hỏi: hay hoặckhông hay– Giá trị sử dụng: dựa vào hoàn cảnh giao tiếp để sử dụng các phương tiện tu từ cho lời nóicó hiệu quả. Giá trị sử dụng trả lời câu hỏi: Hợp hay không hợp?.Khi viết thường đặt ra nhữngyêu cầu: Viết để làm gì? viết cho ai? viết như thế nào?. Những yêu cầu đó chính là cơ sở để

xác định tiêu chí sử dụng đạt hiệu quả.

 
10

Chương II. CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠIA. Việc phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ1. Từ thời cổ đại Arixtốt cho đến thế kỷ XVIII giới nghiên cứu ngôn ngữ đã chú ý đến việc

phân loại phong cách ngôn ngữ thành 3 loại:

– Loại thượng đẳng : Ngôn ngữ quý tộc– Loại trung đẳng: Ngôn ngữ bình dân– Loại hạ đẳng : Ngôn ngữ hạ lưuTuy nhiên cách phân chia trên rất phiến diện, không phù hợp với tiếng Việt2. Việc phân loại phong cách ngôn ngữ khá đa dạng, có thể dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau:2.1. Phân loại theo đặc điểm sinh lý– Phong cách giới tính: Phong cách ngôn ngữ của nam giới và nữ giới– Phong cách lứa tuổi: Phong cách ngôn ngữ người già, trung niên, trẻ em…2.2. Phân loại theo quan điểm xã hội học– Phong cách ngôn ngữ giai cấp: phong cách ngôn ngữ bình dân, quý tộc, nông dân, tưsản..– Phong cách ngôn ngữ nghề nghiệp: ngôn ngữ thợ thuyền, binh lính, học sinh– Phong cách ngôn ngữ địa phương: ngôn ngữ thủ đô, tỉnh lẻ…2.3. Phân loại theo quan điểm nghệ thuật họcPhong cách ngôn ngữ trữ tình, chính luận, phong cách tả thực, lãng mạnĐây là tiêu chí phân loại tự nhiên không mang tính khoa học.3. Sự phân loại phong cách có tầm quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn là dựa vào tiêu chíchức năng xã hội của ngôn ngữ. Dựa trên tiêu chí này mới có thể cắt nghĩa vì sao khi sử dụngngôn ngữ phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định.B. Các phong cách tiếng Việt hiện đạiI. Phong cách khẩu ngữ1. Khái niệm1.1. Phong cách khẩu ngữ là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày,thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cánhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè, hàng xóm, đồngnghiệp, đồng hành,…1.2. Các dạng thức: Phong cách khẩu ngữ có các dạng thức biểu hiện như : chuyện trò, nhậtkí, thư từ. Trong đó chuyện trò thuộc hình thức hội thoại, nhật kí thuộc hình thức văn bản tựthoại và thư từ thuộc hình thức văn bản cách thoại. Tuy nhiên, có thể thấy ở phong cách này,

dạng nói là dạng giao tiếp chủ yếu.

Ở dạng này tất cả những nét riêng trong sự thể hiện như: đặc trưng, đặc điểm ngôn ngữđược bộc lộ rõ và hết sức tiêu biểu. Có điều cần phải chú ý là không phải dạng nói nào cũngthuộc Phong cách khẩu ngữ. Chỉ có những lời nói (chuyện trò) trong giao tiếp mang tínhkhông nghi thức mới thuộc phong cách khẩu ngữ. Ở phong cách này người ta còn chia làmhai dạng: Phong cách khẩu ngữ văn hoá và Phong cách khẩu ngữ thông tục. Ở mỗi dạng nàylại có sự thể hiện riêng cả về đặc trưng cũng như về đặc điểm ngôn ngữ. Do đó, mỗi phongcách chức năng ngôn ngữ không phải là một khuôn mẫu khô cứng.2. Chức năng và đặc trưng phong cách khẩu ngữ2.1. Chức năngPhong cách khẩu ngữ thực hiện chức năng trao đổi tư tưởng tình cảm và chức năng tạo tiếp.Những vấn đề mà phong cách khẩu ngữ đề cập không chỉ là những vấn đề cụ thể, đơn giản

11

trong đời sống tình cảm, sinh hoạt hàng ngày mà còn là những vấn đề trừu tượng, phức tạpnhư chính trị xã hội, khoa học, nghệ thuật, triết học,…2.2. Ðặc trưnga. Tính cá thểÐặc trưng này thể hiện ở chỗ khi giao tiếp, người nói bao giờ cũng thể hiện vẻ riêng vềthói quen ngôn ngữ của mình khi trao đổi, chuyện trò, tâm sự với người khác. Ngôn ngữ làcông cụ chung dùng để giao tiếp trong một cộng đồng nhưng ở mọi người có sự vận dụng vàthể hiện không giống nhau do nhiều nguyên nhân như: nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, tâm lí,tính cách, trình độ học vấn, văn hoá… Ðặc trưng này khiến cho sự thể hiện của phong cáchkhẩu ngữ cực kì phong phú, phức tạp, đa dạng.Vd: trong lời nói sinh hoạt hàng ngày, mỗi người có giọng nói, cách diễn đạt, dùng từ theocách riêng của mìnhb. Tính cụ thể:Ở phong cách khẩu ngữ, những cách nói trừu tượng, chung chung tỏ ra không thích hợp.Ðiều này do giao tiếp ở đây thường là giao tiếp hội thoại, sự tiếp nhận và phản hồi thông tin,

tình cảm cần phải tức thời và ngắn gọn. Ðặc trưng này đã giúp cho sự giao tiếp trong sinh hoạt

hàng ngày trở nên nhanh chóng, dễ dàng, ngay trong trường hợp phải đề cập đến những vấn đềtrừu tượng.Ví dụ:Tôi cười nhạt:– Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à? Anh chộp lấycâu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột:– Ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kĩ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào ÔngCụ. Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vìngười lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứngtài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưngcho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp mà cũng chỉ có đếnthằng Ðờ Gôn.Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến cũ của Pháp, còn đáng tiêu biểu bằng mấy ÐờGôn. Anh lắc đầu:– Bằng thế nào được Hồ Chí Minh!Và anh tiếp:– Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, ÔngCụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6tháng 3 thì đến chính thằng Mĩ cũng phải lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp Ông Giànổi. Thằng Pháp thì nghĩa lí gì? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mĩ xui thì làm gì Pháp dám trởmặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3? Mình cho nó như vậy là đã phúc đời nhà nó rồi. Ðáng lẽnó phải làm chằng chằng lấy chứ?(Đôi mắt – Nam Cao)c. Tính cảm xúcÐặc trưng này gắn chặt với tính cụ thể. Khi giao tiếp người ta luôn luôn bộc lộ thái độ tưtưởng, tình cảm của mình đối với đối tượng được nói đến. Những cách diễn đạt đầy màu sắctình cảm đã nảy sinh trực tiếp từ những tình huống cụ thể trong thực tế đời sống muôn màumuôn vẻ. Chính thái độ, tình cảm, cảm xúc làm thành nội dung biểu hiện bổ sung của lời nói,giúp người nghe có thể hiểu nhanh chóng, hiểu sâu sắc nội dung cơ bản và nhất là mục đích, ý

nghĩa của lời nói.

Ví dụ:Anh Mịch nhăn nhó nói:– Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấyđánh chết.

12

Ông Lí cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:– Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.– Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi, thì ông Nghị ghét con, cả nhà conkhổ.– Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?– Ðối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ connhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.– Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Ðứanào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù. ( Nguyễn Công Hoan)3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3.1. Ngữ âma. Khi nói năng người ta không có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm mà nói năng thoảimái, không những trong phát âm mà cả trong điệu bộ cử chỉ. Chính vì đặc điểm này mà chúngta thấy phong cách khẩu ngữ tồn tại rất nhiều những biến thể ngữ âm.b. Ngữ điệu trong phong cách khẩu ngữ mang dấu ấn riêng của cá nhân, có tính chất tựnhiên, tự phát. Trong một số trường hợp, ngữ điệu là nội dung thông báo chính chứ khôngphải là lời nói.Vd: Sự thay đổi giọng điệu thể hiện thái độ tình cảm của người nói3.2. Từ ngữ:a. Ðặc điểm nổi bật nhất của phong cách khẩu ngữ là thường dùng những từ mang tính cụthể, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm. Người ta thường dùng phép thế các từ gần nghĩa chonhau

Ví dụ:

– Chỉ hành động nói chứa đựng thái độ xấu: Giở giọng, mở miệng, quạc cái mồm– Chỉ hành động gây chia rẽ, xích mích: đâm thọc, thầy dùi, đâm bị thóc chọc bị gạo– Chỉ hành động đánh đau: Chẻ xác, no đòn, đánh ựa cơm, đánh sặc tiết, thượng cẳng chânhạ cẳng tayb. Khi gọi tên hàng ngày, người ta không thích dùng tên khai sinh vì cách gọi này thườngkém cụ thể, ít gợi cảm. Người ta tìm những cách đặt tên khác có khả năng gợi ra hình ảnh, đặcđiểm cụ thể riêng biệt thường có ở một cá nhân.Vd: Lão sứt môi, gã cổ vịt, thằng ba lé, lão tư râu…c. Những từ biểu thị các nhu cầu vật chất và tinh thần thông thường (như ăn, ở, đi lại, họchành, thể dục thể thao, chữa bệnh, mua bán, giao thiệp, vui chơi, giải trí, sinh hoạt trong giađình, trong làng xóm…) chiếm tỉ lệ lớn, có tần suất cao.d. Một số hiện tượng từ ngữ thường xuất hiện trong phong cách khẩu ngữ:– Có một lớp từ chuyên dùng cho phong cách khẩu ngữ mà rất ít dùng ở các phong cáchkhác. Ví dụ: Hết xảy, hết ý, số dách,tuyệt cú mèo, bỏ bố, bỏ mẹ, cút, chuồn… Những tiếngtục, tiếng lóng (cớm, chôm, mẹ kiếp…) cũng chỉ dùng ở phong cách này.– Sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt là láy tư. Ví dụ như: đỏng đa đỏng đảnh, nhí nha nhínhảnh, tầm bậy tầm bạ, lí la lí lắt… Có khi sử dụng kiểu láy chen như: khách đến thì ít màkhứa đến thì nhiều.– Sử dụng cách nói tắt. Ví dụ: Nhân khẩu ( khẩu); chán nản ( nản); bi quan (bi).– Sử dụng những kết hợp không có quy tắc. Ví dụ: Ðẹp (đẹp mê hồn, đẹp mê li rụng rốn,đẹp tàn canh giá lạnh, đẹp ve kêu, đẹp bá chấy…)– Thường dùng những từ tượng thanh, tượng hình.– Thường dùng cách nói ví von, so sánh, chuyển nghĩa ẩn dụ hoặc hoán dụ.3.3. Cú pháp– Cấu trúc cú pháp được sử dụng trong phong cách khẩu ngữ, câu đơn chiếm tỉ lệ lớn và cótần suất cao. Ðặc biệt, câu gọi tên ( như: câu cảm thán, câu chào hỏi, ứng xử…) được sử dụngnhiều.

13

– Ðặc điểm nổi bật ở phong cách này là tồn tại hai xu hướng trái ngược nhau. Một mặt, khẩungữ dùng kết cấu tỉnh lược, có khi tỉnh lược đến mức tối đa nói bằng sự để trống hoàn toàn,mặt khác, dùng các kết cấu cú pháp có xen những yếu tố dư, lặp lại, có khi dư thừa một cáchdài dòng lủng củng.Ví dụ về cách nói có xen nhiều yếu tố dư:Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông Lí:– Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêu. Lạythầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội.– Ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!– Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xinthầy hoãn cho đến lượt sau.– Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì ngườita đá bóng cho chó nó xem à? ( Nguyễn Công Hoan)3.4. Diễn đạt– Do được dùng trong sinh hoạt hàng ngày nên phong cách khẩu ngữ diễn đạt một cách tựdo, tuỳ tiện, phóng khoáng và phụ thuộc rất nhiều vào tâm lí, cảm hứng của người trong cuộc.Khuynh hướng diễn đạt cơ bản của phong cách này là cụ thể hóa, biểu cảm hóa sự diễn đạtVd: Thở ra đằng tai, bở hơi tai : MệtDa bọc xương : gầy– Phong cach khẩu ngữ được thực hiện trong hoàn cảnh giao tiếp trực tiếp, đề tài mang tínhtự phát, luôn thay đổi. Ðiều này dẫn đến tình trạng đề tài, đối tượng được đề cập trong phongcách khẩu ngữ ít khi tập trung, đứt đoạn, ý nọ xọ ý kia, thiếu tính liên tục.II. Phong cách khoa học1. Khái niệm1.1.Phong cách khoa học được dùng trong lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoahọc. Ðây là phong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu. Khácvới phong cách khẩu ngữ, phong cách khoa học chỉ tồn tại chủ yếu ở môi trường của nhữngngười làm khoa học chủ yếu xuất hiện ở dạng văn bản viết.1.2. Phong cách khoa học có ba biến thể: phong cách khoa học chuyên sâu, phong cách

khoa học giáo khoa và phong cách khoa học phổ cập.

2. Chức năng và đặc trưng2.1. Chức năngPhong cách khoa học có hai chức năng là: thông báo và chứng minh. Chính chức năngchứng minh tạo nên sự khu biệt giữa Phong cách khoa học với các phong cách khác. Văn bảnkhoa học không chỉ thuần thông báo nêu khái niệm về các sự kiện, sự vật tồn tại trong thực tếkhách quan mà còn phải chứng minh, làm tường minh ý nghĩa của các sự kiện ấy.2.2. Ðặc trưnga. Tính trừu tượng khái quátMục đích của khoa học là phát hiện ra các quy luật tồn tại trong các sự vật, hiện tượng nênphải thông qua trừu tượng hoá, khái quát hoá khi nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan.Trừu tượng hoá chính là con đường của nhận thức lí tính giúp ta thoát khỏi những nhận biết lẻtẻ, rời rạc ở giai đoạn cảm tính.b. Tính logic:Cách diễn đạt của phong cách khoa học phải biểu hiện năng lực tổng hợp của trí tuệ, phảituân theo quy tắc chặt chẽ từ tư duy logic hình thức đến tư duy logic biện chứng. Các nội dungý tưởng khoa học của người viết phải được sắp xếp trong mối quan hệ logic, tránh trùng lặphoặc mâu thuẫn; những khái quát, suy lí khoa học không được phủ định lại những tài liệu (cứliệu) làm cơ sở cho nó…Vd: “Sóng âm là những sóng cơ học dọc truyền trong môi trường vật chất, có tần số khoảng16Hz -2000Hz và gây ra cảm giác âm thanh trong tai con người. Sóng âm vừa có đặc tính vật

14

lý, vừa có đặc tính sinh lý. Xét về đặc tích vật lý, sóng âm, sóng siêu âm, sóng hạ âm khôngkhác gì sóng cơ học khác. dặc tính sinh lý của sóng âm phụ thuộc cấu tạo tai của conngười”(vật lý lớp 12)c. Tính chính xác – khách quanPhong cách khoa học không được phép tạo ra sự khác biệt giữa cái biểu đạt và cái được biểuđạt. Một văn bản khoa học chỉ có giá trị thực sự khi đưa đến người tiếp nhận những thông tin

chính xác về các phát hiện, phát minh khoa học. Muốn vậy, văn bản khoa học phải đảm bảo

tính một nghĩa. Nghĩa là nó không cho phép nhiều cách hiểu khác nhau hoặc hiểu một cáchmơ hồ. Chân lí khoa học luôn phụ thuộc vào các quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ýthức chủ quan của con người. Những từ ngữ biểu cảm, những ý kiến nhận định mang tính chủquan không thích hợp ở phong cách này.VD: vấn đề sử dụng thuật ngữ khoa học phải chính xác và nhất quán (Hình ảnh /Hình tượng)d. Tính trí tuệNgôn ngữ khoa học là ngôn ngữ của sự nhận thức trí tuệ, không dụng nạp yếu tố cảm xúctruyền cảm. Ngôn ngữ khoa học tuyết phục người đọc bằng hệ thống các luận điểm, luận cứ vàlập luận bằng phương pháp tư duy chặt chẽ chứ không phải bằng cảm giác và sự rung độngcủa con tim.3. Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ3.1. Ngữ âmKhi thông báo khoa học người ta thường có ý thức hướng đến chuẩn mực ngữ âm. Để tăngthêm sức thuyết phục của sự lập luận, có thể sử dụng ngữ điệu nhằm nhấn mạnh các luận điểmchính nhưng không được lạm dụng.3.2. Từ ngữ:– Sử dụng nhiều và chính xác những thuật ngữ khoa học chuyên ngành, từ ngữ sử dụngthường mang tính đơn nghĩa, hạn chế sử dụng từ ngữ tượng hình gợi tả.Vd: Ngữ âm, hình vị, âm tiết, hàm ngôn, nghĩa tường minh, biện pháp tu từ….– Những từ ngữ trừu tượng, trung hòa về sắc thái biểu cảm xuất hiện với tần số cao luônthích hợp với sự diễn đạt của phong cách này.– Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (người ta) và ngôi thứ nhất (ta, chúng ta, chúng tôi ) vớiý nghĩa khái quát được dùng nhiều.Ví dụ: Và như vậy, ta lại trở về với một cách hiểu xuất phát của từ phong cách mà không chỉlà ngôn ngữ hay hoạt động ngôn ngữ nghệ thuật hay phi nghệ thuật v.v… đó là: những đặctrưng hoạt động bằng lời nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường ngônngữ hay một cộng đồng có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ khác; nói cáchkhác nó là tổng số của những dấu hiệu khu biệt của các sự kiện lời nói trong giao tiếp, phảnánh một cấu trúc bên trong và một cơ chế hoạt động ngôn ngữ.

3.3. Cú pháp

– Phong cách khoa học sử dụng các hình thức câu hoàn chỉnh, kết cấu câu chặt chẽ, rõ ràngđể đảm bảo yêu cầu chính xác, một nghĩa và tránh cách hiểu nước đôi nước ba.– Các phát ngôn hàm chứa nhiều lập luận khoa học, thể hiện chất lượng tư duy logic cao.– Câu điều kiện – hệ quả và câu ghép được sử dụng nhiều tươn đương với mệnh đề logic.Nội dung của các phát ngôn đều minh xác. Sự liên hệ giữa các vế trong câu và giữa các phátngôn với nhau thể hiện những luận cứ khoa học chặt chẽ. Vì vậy, độ dư thừa trong các phátngôn nói chung là ít, mà cũng có thể nói là ít nhất, so với các phát ngôn khác.– Văn phong khoa học thường sử dụng những cấu trúc câu khuyết chủ ngữ, hoặc câu có chủngữ không xác định.Vd: “Đánh giá một nền văn học cũng như đánh giá một trào lưu nghệ thuật không thể căn cứvào số lượng mà phải căn cứ vào chất lượng. Vì nghệ thuật chân chính không dung nạp nhữngcái bình thường và tầm thường” (Tạp chí văn học)

15

III. Phong cách thông tấn báo chí1. Khái niệmPhong cách thông tấn báo chí được dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả nhữngvấn đề tin tức thời sự trên các lãnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, thể thao xảy ra trong đờisống (Thông tấn: có nghĩa là thu thập và biên tập tin tức để cung cấp cho các nơi.)– Phong cách thông tấn báo chí có các loại: văn bản cung cấp tin tức, văn bản phản ánh côngluận và văn bản thông tin – quảng cáo. Phong cách thông tấn tồn tại cả ba dạng: dạng nói (kênhnói được dùng ở các đài phát thanh); dạng hình và nói (kênh nói và hình được dùng ở đàitruyền hình); dạng viết ( kênh viết được dùng trên báo và tạp chí…).2. Chức năng và đặc trưng2.1. Chức năngPhong cách thông tấn báo chí có hai chức năng là thông báo và tác động.– Báo chí ra đời trước hết là do nhu cầu thông tin. Qua báo chí, người ta tiếp cận đượcnhanh chóng các vấn đề thời sự mà mình quan tâm. Do đó, phong cách thông tấn trước tiên

phải đáp ứng được chức năng này.

– Báo chí còn đảm nhận một nhiệm vụ to lớn khác là tác động đến dư luận làm cho ngườiđọc, người nghe, người xem hiểu được bản chất của sự thật để phân biệt cái đúng cái sai, cáithật, cái giả, cái nên ngợi ca, cái đáng phê phán để từ đó định hướng suy nghĩ và hành độngđúng.2.2. Ðặc trưnga.Tính thời sựThông tin phải truyền đạt kịp thời, nhanh chóng. Chỉ có những thông tin mới mẻ, cần thiếtmới hấp dẫn người đọc, người nghe. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu trao đổi và tiếp nhậnthông tin của con người ngày càng lớn. Báo chí sẽ thoả mãn nhu cầu thông tin đó của conngười, nhưng đồng thời người ta đòi hỏi đấy phải là những thông tin kịp thời, nóng hổi.b. Tính chân thực chính xácNhững thông tin báo chí cung cấp phải đảm bảo tính chính xác, tính chân thực. Người làmbáo không được xuyên tạc, bóp méo hiện thực cuộc sống, không được lồng ghép thiên kiếnchủ quan một cách tùy tiện trái với sự thật. Thông tin về sự việc hiện tượng phải cụ thể (Côngthức 6W (what, where, when, who, why, which)c. Tính chiến đấuBáo chí là công cụ đấu tranh chính trị của một nhà nước, một đảng phái, một tổ chức. Tất cảcông việc thu thập và đưa tin đều phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị đó. Tính chiến đấu làmột yếu tố không thể thiếu được trong quá trình tạo nên sự ổn định và phát triển của xã hộitrên mặt trận chính trị tư tưởng. Ðấy chính là các cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới; giữacái tiến bộ và lạc hậu; giữa tích cực và tiêu cực…“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”(Hồ Chí Minh)d. Tính hấp dẫn:Tin tức của báo, đài cần phải được trình bày và diễn đạt hấp dẫn để khêu gợi hứng thú củangười đọc, người nghe. Tính hấp dẫn được coi như là một trong những yếu tố quyết định sựsinh tồn của một tờ báo, tạp chí hay các đài phát thanh, truyền hình. Ðiều này đòi hỏi ở haimặt: nội dung và hình thức.– Về nội dung: Thông tin phải luôn luôn cập nhật mới, đề tài phong phú đa dạng.

– Về hình thức: Ngôn ngữ phải có sức thu hút, lôi cuốn người đọc, đặc biệt là ở các tiêu đề.

3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3.1. Ngữ âmVới các đài phát thanh và truyền hình trung ương, đòi hỏi khi đưa tin phải phát âm chuẩnmực. Với các đài phát thanh và truyền hình của địa phương hoặc khu vực, có thể sử dụng một

16

cách có chừng mực một số biến thể phát âm thuộc một phương ngôn nào đó, nơi mà đài phủsóng (tuy nhiên không lạm dụng âm địa phương).3.2. Từ ngữ– Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Do vậy, từ ngữ được dùng trong phong cáchthông tấn trước hết phải là từ ngữ toàn dân, có tính thông dụng cao. Tuy nhiên, ở mỗi thể loạicó sự thể hiện khác nhau:+ Từ ngữ trong các bản tin thời sự phần lớn là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạtđộng của bộ máy Nhà nước và các đoàn thể.Ví dụ: “Theo phóng viên TTXVN tại Nhật Bản, trong ngày làm việc thứ hai của chuyến thămNhật Bản, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư T.ƯÐảng, đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Na-ô-tô Can, tiếp Bộ trưởng Tài chính, Chủ tịchÐảng Cộng sản Nhật Bản, lãnh đạo Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Liên đoàncác tổ chức kinh tế Nhật Bản (KEIDANREN)”(Báo Nhân dân online).+ Từ ngữ các mẫu quảng cáo thường là tên các hàng hoá, các từ chỉ địa danh, nhândanh và các tính từ chỉ phẩm chất.Ví dụ: Với đội ngũ Kiến trúc sư trong nước và nước ngoài nhiều kinh nghiệm trong thiết kếvăn phòng, thi công nội thất văn phòng, QualiDecor đến nay đã hoàn thành nhiều dự án thiếtkế văn phòng đạt chất lượng, thẩm mỹ hoàn hảo nhất, mang lại được nhiều sự hài lòng chokhách hàng. Đến với chúng tôi, Quý khách hàng không chỉ hài lòng với chất lượng thiết kếvăn phòng, thi công văn phòng mà còn yên tâm với công việc lắp đặt và dịch vụ bảo hành, hậumãi sau đó.

Công ty Kiến trúc nội thất QualiDecor

Tên giao dịch quốc tế: QualiDecor Architect and Interior CompanyTên viết tắt: QUALIDECORĐịa chỉ: 53-55 Khuat Duy Tien, Thanh Xuan, HanoiVăn phòng: 043-5539523- 0932327588Website: www.noithatvanphong247.comwww.qualidecor.vn+ Từ ngữ trong các bài phỏng vấn, phóng sự thì thường là những từ ngữ chuyên dùngtrong lĩnh vực được tiến hành phỏng vấn hay phóng sự.Ví dụ: * Hội đồng văn hoá khi giới thiệu ông với giải thưởng Rockefeller III đã đánh giá vềbảo tàng do ông làm giám đốc là một trong những bảo tàng có ấn tượng nhất trong loại hìnhnày ở châu Á. Thưa ông, về phiïa chủ quan mình, chữ ấn tượng này nên hiểu như thế nào?TS Nguyễn Văn Huy: Có lẽ trước hết vì bảo tàng này giới thiệu một cách bình đẳng 54nền văn hoá của 54 dân tộc ở Việt Nam. Ðó là điều không phải ở đâu cũng làm được. Chủ thểcủa những nền văn hoá này được tôn trọng trong các cách giới thiệu từng thành tố văn hoá.Bảo tàng đã phản ánh một cách chân thật lịch sử, đời sống văn hoá và cuộc sống của các dântộc… ( Báo Tuổi trẻ CN )– Từ ngữ dùng thường có màu sắc biểu cảm. Có xu hướng đi tìm cái mới trong ý nghĩa củatừ. Ðiều này bộc lộ những khả năng tìm tòi, phát hiện những năng lực tiềm tàng ẩn chứa trongtừ hoặc trong các kết hợp mới mẻ có tính năng động dễ đi vào lòng người.Ví dụ: Hội chứng chiến tranh vùng Vịnh, tội ác xuyên quốc gia, cuộc chiến chống bệnh tật đóinghèo, quả bom dân số, chiến tranh lạnh, xa lộ thông tin, bùng nổ thông tin, cái chết trắng,bên bờ vực phá sản, liên minh ma quỷ…3.3. Cú pháp– Cấu trúc cú pháp thường lặp đi lặp lại một số kiểu nhất định. Trong đó, quảng cáo thườngsử dụng câu đơn; bài đưa tin thường sử dụng nhiều câu ghép hoặc câu đơn có kết cấu phứctạp; bài phỏng vấn phóng sự thì tùy lĩnh vực nó đi sâu mà cấu trúc cú pháp có thể đơn giản hayphức tạp, nhưng thường là hay sử dụng nhiều câu ghép và câu phức tạp.

17

Ví dụ: Theo Kyodo, trong cuộc họp ngay sau khi kết thúc Hội nghị thượng đỉnh G-8 ở

Okinawa ngày 23-7, Tổng thống Nga Vlađimia Putin và Thủ tướng Nhật Bản Yoshiro Mori đãthoả thuận rằng ông Putin sẽ đi thăm Nhật Bản từ 3 đến 5-9 để có các cuộc hội đàm về kếhoạch kí kết một hiệp ước hoà bình song phương. Nga và Nhật đã thiết lập quan hệ ngoại giaovào năm 1956 nhưng chưa kí hiệp ước hoà bình vì còn bất đồng về chủ quyền quần đảo Kurin.(Báo Tuổi trẻ )– Thường theo những khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn nhất định. Ðưa tin cókhuôn mẫu và công thức hành văn riêng; quảng cáo, phỏng vấn, phóng sự,…tuy khuôn mẫuvăn bản và công thức hành văn có khác nhau nhưng cũng đều có những quy định chuẩn vềnhững phương diện đó.– Trong các bài phóng sự điều tra, tiểu phẩm… những cấu trúc câu khẩu ngữ, câu trongphong cách văn chương như: câu hỏi, câu cảm thán, câu chuyển đổi tình thái, câu tỉnh lược,câu đảo trật tự các thành phần cú pháp cũng được khai thác sử dụng nhằm thực hiện chức năngriêng của mỗi thể loại.IV. Phong cách hành chính1. Khái niệm– Phong cách hành chính đuợc dùng trong hoạt động giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính.Ðây là hoạt động giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước,giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác. Phong cách hành chính thường tồn tạidưới dạng văn bản viết.– Phong cách hành chính thường dụng trong những dạng văn bản: Hiến pháp, luật, điều lệ,nội quy, Bằng khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại,đơn từ, hợp đồng, hóa đơn, biênnhận, tờ trình…2. Chức năng và đặc trưng2.1. Chức năngPhong cách hành chính có hai chức năng: thông báo và sai khiến. Chức năng thông báothể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường (văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh,hoá đơn, hợp đồng…). Chức năng sai khiến bộc lộ rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật,văn bản của cấp trên gởi cho cấp dưới, của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cánhân (nghị định, chỉ thị, thông báo, thông tư, chỉ thị, quyết định…).

2.2. Ðặc trưng

a. Tính chính xác – minh bạch về pháp lýVăn bản hành chính chỉ cho phép một cách hiểu. Nếu hiểu không thống nhất sẽ dẫn đếnviệc thi hành các văn bản hành chính theo những cách khác nhau. Tính chính xác này đòi hỏitừ dấu chấm câu đến từ ngữ, câu văn và kết cấu của văn bản. Nói cách khác, quan hệ giữa hìnhthức và nội dung biểu đạt là quan hệ 1-1. Ðặc trưng này đòi hỏi người tạo lập văn bản khôngđược dùng các từ ngữ, các kiểu cấu trúc ngữ pháp mơ hồ.Vd: Quy chế thi phải chuẩn xác từng câu chữ, sử dụng dấu câub. Tính nghiêm túc- khách quanTính khách quan gắn với chuẩn mực luật pháp nhằm để diễn đạt tính chất xác nhận, khẳngđịnh của những tài liệu này. Văn bản hành chính thuộc loại giấy tờ có quan hệ đến thể chếquốc gia, của xã hội có tổ chức cho nên sự diễn đạt ở đây phải luôn luôn thể hiện tính nghiêmtúc. Các văn bản như : hiến pháp, luật, quyết định, thông tư,… mang tính chất khuôn phép caocho nên không chấp nhận phong cách diễn đạt riêng của cá nhân. Ngay cả những văn bản hànhchính mang tính cá nhân cũng phải đảm bảo đặc trưng này.VD: Viết đơn khác với viết thưc. Tính khuôn mẫu của nhà nướcVăn bản hành chính được soạn thảo theo những khuôn mẫu nhất định do nhà nước quy định.Những khuôn mẫu này được gọi là thể thức văn bản hành chính. Thể thức đúng không nhữnglàm cho văn bản được sử dụng có hiệu quả trong hoạt động hiện hành của các cơ quan mà còn

18

làm cho văn bản có giá trị bền vững về sau. Tính khuôn mẫu thể hiện qua những quy định vềcấu trúc văn bản, dùng từ, hình thức trình bày văn bản…VD: Cấu trúc văn bản hành chính: Quyết địnhd. Tính hiệu lực thực thiVăn bản hành chính không phải nhằm mục đích thể hiện tình cảm mà sử dụng vào mục đíchthực thi quyền lực. Vì vậy văn bản không dung nạp yếu tố biểu cảm. Người viết không phảinhân danh cá nhân để bộc bạch tình cảm mà nhân danh nhà nước để ban hành chủ trương,

nhân danh công dân để thực hiện quyền công dân đối với cơ quan nhà nước. Do vậy trong văn

bản thường xuất hiện những cụm từ như: Căn cứ vào, nay quyết định, yêu cầu thực hiện, đềnghị, yêu cầu, mong được giải quyết…3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3.1. Ngữ âmKhi phát âm ở phong cách này phải hướng tới chuẩn mực ngữ âm, phát âm phải rõ ràng,chính xác. Khác với các loại phong cách khác, khi tồn tại ở dạng nói, phong cách hành chínhkhông phải là sự trình bày, diễn đạt theo văn bản đã viết hoặc soạn đề cương mà là đọc lại.Nghĩa là chúng không chịu một sự biến đổi nào bên trong. Ngữ điệu đọc hoàn toàn bị phụthuộc vào cấu trúc của nội dung văn bản.3.2. Từ ngữ– Những từ ngữ xuất hiện nhiều ở phong cách này là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạtđộng của bộ máy nhà nước và các đoàn thể, còn được gọi là từ hành chính. Loại từ này tạo nênvẻ trang trọng, nghiêm túc, đảm bảo thể chế của sự diễn đạt hành chính.– Có khuynh hướng dùng những từ ngữ thật chính xác đứng về mặt nội dung và những từngữ trung hoà hoặc những từ ngữ trang trọng đứng về mặt sắc thái biểu cảm. Những từ ngữnày góp phần biểu thị tính chất thể chế nghiêm chỉnh của các giấy tờ và văn kiện hành chính.– Từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ khá lớn.Ví dụ* Điều 1: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền,thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo.(Trích hiến pháp nước CNXHCN Việt Nam)3.3. Cú pháp– Dùng câu tường thuật là chủ yếu, các kiểu câu cảm thán, nghi vấn không thích hợp vớiyêu cầu thông tin của phong cách này.– Câu văn hành chính không chấp nhận sự mơ hồ. Tính thống nhất và chặt chẽ của các vănbản hành chính không cho phép sử dụng những câu trong đó quan hệ ngữ pháp giữa các thànhphần không rõ ràng khiến nội dung câu văn bị hiểu theo nhiều cách.– Câu văn hành chính không cho phép sự sáng tạo về ngôn ngữ của cá nhân, những yếu tốcảm xúc của cá nhân. Do yêu cầu cao về sự thống nhất theo thể thức hành chính nên một số

văn bản hành chính viết theo mẫu đã quy định thống nhất.

– Cú pháp của bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng chỉ được trình bày trong một câu.V. Phong cách chính luận1. Khái niệm– Phong cách chính luận dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp bày tỏ chínhkiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sựchính trị xã hội đương đại.– Phong cách chính luận thường sử dụng trong các dạng văn bản: Hịch, cáo, lời kêu gọi,tuyên ngôn, báo cáo chính trị, xã luận bình luận trên báo chí phát thanh truyền hình.2. Chức năng và đặc trưng2.1. Chức năng

19

– Chức năng thông báo nhằm truyền đạt cho mọi người nhận thức đúng các vấn đề thời sựchính trị xã hội, công bố chủ trương đường lối chính sách (đây là điểm giao thoa với phongcách báo chí).– Chức năng tác động nhằm tuyên truyền giáo dục, cổ vũ động viên mọi người hưởng ứng.Hai chức năng trên có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại ảnh hưởng nhau, thông báo đãbao hàm mục đích tác động, việc tác động có hiệu quả nhờ vào sự thông báo tường minh chânlý. Chính vì thực hiện các chức năng này mà ta thấy phong cách chính luận có điểm gặp gỡvới phong cách thông tấn báo chí, phong cách khoa học và cả phong cách văn chương.2.2. Ðặc trưnga. Tính bình giá công khaiNgười nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai một cách rõ ràng trực tiếp quan điểm,thái độ của mình đối vè những vấn đề chính trị xã hội. Ðây là đặc trưng khu biệt phong cáchchính luận với phong cách khoa học và phong cách văn chương. Nếu văn chương là bình giágián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những yếu tố cảm tính chủ quan thì chính luận bao giờcũng bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bìnhgiá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào đó.

b. Tính lập luận chặt chẽ

Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giảiquyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước, sự diễn đạt ở phong cách này đòi hỏi cótính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơsở những luận điểm, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên.Tính lập luận chặt chẽ thể hiện ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thứcngôn ngữ và mục đích biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chưáđựng nhiều hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt.Ví dụ: Nét sắc sảo trong cách lập luận của tuyên ngôn độc lậpc. Tính truyền cảmĐể thuyết phục người nghe, đọc, phong cách chính luận có tính truyền cảm mạnh mẽ, diễnđạt hùng hồn, sinh động có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí, cả bằngtình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa phong cách chính luận với khoahọc, thông tấn và khiến phong cách này gần với phong cách văn chương. Trong văn bản chínhluận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằmgây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa.3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3.1. Ngữ âmCó ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trongmít tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn ngườinghe.3.2. Từ ngữ– Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, công cụ riêng của phong cáchchính luận. phong cách này đòi hỏi khi dùng từ chính trị phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quanđiểm và tình cảm cách mạng của mình.Ví dụ: “Ai dám bảo cuộc Cách mạng tháng Tám của ta là cuộc đảo chính? Ðảo chính là haibọn thống trị trong nước hất cẳng nhau. Bọn này quật đổ bọn kia để lập chính phủ mới,nhưng căn bản chế độ cũ vẫn để nguyên. Ðằng này nhân dân bị áp bức nổi dậy tự giải phónggiành chính quyền, sao gọi là đảo chính?” (Trường Chinh)– Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở phong cách chính luận là

những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người ta phải dùng tất cả các

lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này.
20

– Khi cần bày tỏ sự đánh giá tình cảm của mình một cách mạnh mẽ đối với các vấn đề nêu ra,văn chính luận chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ khẩu ngữ, bởi vì đây là lớp từ giàu sắc thái ýnghĩa và sắc thái biểu cảm.Ví dụ: “Ai nói mà không làm, ai chỉ nghị quyết suông, ai theo đuôi quần chúng, ai ỳ ra nhưxe bò lên dốc, ai nhút nhát như bị quân thù bắt mất hồn, ai không dám hi sinh việc nhà choviệc Ðảng, phải kíp sửa đổi mà tiến lên” (Trường Chinh)3.3. Cú pháp– Do phải thực hiện chức năng thông báo, chứng minh và tác động nên phong cách chính luậndùng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cảmthán.– Câu văn chính luận thường dài, có kết cấu tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra được xác địnhchặt chẽ.– Ðể nhấn mạnh ý tưởng, gây sự chú ý ở người đọc, phong cách chính luận sử dụng nhiều lốinói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính liên tưởng và tương phản đểtăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình giá, phán xét.Ví dụ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhânnhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.”(Hồ Chí Minh)“Ðổi mới là con đường duy nhất đúng đắn của Ðảng ta, của nhân dân ta, để vượt qua mọikhó khăn to lớn, đi đến ổn định và phát triển. Ðổi mới tạo nên thế mới và sức lực mới, nhưmuà xuân làm bật dậy sức sinh sôi huyền diệu của thiên nhiên, đúng theo quy luật của sự pháttriển”. (Báo Nhân dân)VI. Phong cách văn chương1. Khái niệmPhong cách văn chương (còn gọi là phong cách ngôn ngữ nghệ thuật) được dùng trong sáng

tác văn chương. Phong cách này là dạng tồn tại toàn vẹn và sáng chói nhất của ngôn ngữ toàn

dân. Phong cách văn chương không có giới hạn về đối tượng giao tiếp, không gian và thờigian giao tiếp.2. Chức năng và đặc trưng2.1. Chức nănga. Phong cách ngôn ngữ văn chương có ba chức năng: thông báo, tác động, thẩm mĩ. Việcthực hiện chức năng của phong cách văn chương không bằng con đường trực tiếp mà bằngcon đường gián tiếp thông qua hình tượng văn chương. Các phương tiện ngôn ngữ được nhàvăn vận dụng một cách sáng tạo để xây dựng hình tượng.b. Khái niệm chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ văn chương có thể nhận biết qua 2 mối quanhệ:– Qụan hệ giữa ngôn ngữ văn chương với hình tượng văn chương: Ngôn ngữ văn chương làchất liệu, công cụ để xây dựng hình hượng văn chương (hình tượng nghệ thuật ngôn từ), ngônngữ mang tính tạo hình biểu cảmVd:Ôi những cánh đồng quê chảy máuDây thép gai đâm nát trời chiều (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)Những từ ngữ, hình ảnh: đồng quê chảy máu, thép gai đâm nát trời chiều phác họa hìnhtượng đất nước thân thương bị kẻ thù tàn phá hủy diệt; khơi gợi lòng căm thù giặc sâu sắc.– Quan hệ giữa ngôn ngữ văn chương với độc giả: Ngôn ngữ văn chương luôn tác động vàođộc giả, nó không chỉ mang ý nghĩa thông báo mà còn gợi nên những rung cảm thẩm mỹ mãnhliệt trong tâm hồn độc giả khi tiếp nhận văn chương.2.2. Ðặc trưnga. Tính hệ thống cấu trúc

21

Tác phẩm văn chương là một cấu trúc, chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn. Các thành tố nội dungtư tưởng, tình cảm,hình tượng và các thành tố ngôn ngữ diễn đạt chúng không những phụthuộc vào nhau mà còn phụ thuộc vào hệ thống nói chung.

Trong tác phẩm văn chương, có khi chỉ cần bỏ đi một từ hay thay bằng một từ khác là đủ

làm hỏng cả một câu thơ, phá tan nhạc điệu của nó, xoá sạch mối quan hệ của nó với hoàncảnh xung quanh. Từ nghệ thuật không sống đơn độc, tự nó, vì nó, từ nghệ thuật đứng trongđội ngũ, nó góp phần mình vào các từ đồng đội khác. Tính cấu trúc là điều kiện của cái đẹp.Một yếu tố ngôn ngữ chỉ có được ý nghĩa thẩm mĩ khi nằm trong tác phẩm. Chính là trên cáinền văn bản phù hợp mà từ ngữ có thể thay đổi ý nghĩa: cũ kĩ hay mới mẻ, dịu dàng hay thâmđộc, trang trọng hay hài hước…Do vậy khi phân tích tác phẩm văn học cần chú ý đến tính hệthống, phải đặt các chi tiết, hình ảnh, từ ngữ… trong chỉnh thể tác phẩm để cắt nghĩa.VD: Chi tiết bỏ quên cái áo trên cành hoa sen trong bài ca dao xin áo, chi tiết củi mội cànhkhô lạc mấy dòng trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận…b. Tính hình tượng– Ngôn ngữ văn chương được xem là công cụ cơ bản để xây dựng hình tượng văn học.Khi khảo sát, đánh giá ngôn ngữ văn chương phải xem xét ngôn ngữ ở đây đã góp phần xâydựng và thể hiện hình tượng văn học như thế nào. Khi giao tiếp ở phong cách khẩu ngữ, ngườita có thể dùng những từ ngữ bóng bẩy, văn hoa, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm nhưng hiệuquả ở đây còn tuỳ thuộc vào người nói là ai, nói trong hoàn cảnh nào và vì mục đích gì. Giaotiếp ở phong cách này, người phát ngôn có vai trò quyết định (VD: Miệng nhà quan có gang,có thép; Vai mang túi bạc kè kè. Nói ấm nói ớ, người nghe ầm ầm).Trong khi đó, ở phong cách văn chương, địa vị cao thấp, sang hèn của nhà văn nhà thơkhông đóng vai trò quyết định nhiều. Tính hình tượng của ngôn ngữ văn chương bắt nguồn từchỗ đó là ngôn ngữ của một chủ thể tư tưởng thẩm mĩ xã hội có tầm khái quát nhất định.Chính vì thế ngôn ngữ văn chương dễ đi vào lòng người, nó trở thành ngôn ngữ của muônngười.– Tính hình tượng trong phong cách văn chương thể hiện ở chỗ ngôn ngữ ở đây có khả năngtruyền đạt sự vận động, động tác nội tại của toàn bộ thế giới, cảnh vật, con người vào trong tácphẩm. Ngôn ngữ trong phong cách khẩu ngữ cũng có khả năng này nhưng nó không là điềubắt buộc. Trong văn chương, trái lại, đó là điều không thể thiếu. Ngôn ngữ văn chương phảilàm sống dậy các động tác, vận động đầy ý nghĩa của sự vật trong những thời khắc nhất định.Bất kỳ một phương tiện từ ngữ nào trong một văn cảnh nhất định đều có thể chuyển thành mộttừ ngữ nghệ thuật, nếu có thêm một nét nghĩa bổ sung nào đó.

Vd: Hình tượng sóng trong thơ Xuân Quỳnh

c.Tính cá thể hoá:Tính cá thể hoá được hiểu là dấu ấn phong cách tác giả trong tác phẩm văn chương. Dấu ấnphong cách tác giả là cái thuộc về đặc điểm bản thể, thuộc về điều kiện bắt buộc của ngôn ngữvăn chương. Sêkhôp nói: Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽkhông bao giờ là nhà văn cả. Lối nói riêng mà Sêkhôp gọi chính là phong cách tác giả. Xét vềmặt ngôn ngữ, phong cách tác giả thể hiện ở hai dấu hiệu:– Khuynh hướng ưa thích và sở trường sử dụng những loại phương tiện ngôn ngữ nào đócủa tác giả;– Sự sáng tạo ngôn ngữ của tác giả3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3.1. Ngữ âmTrong phong cách, những yếu tố ngữ âm như: âm, thanh, ngữ điệu, tiết tấu, âm điệu rất quantrọng. Có thể nói, tất cả những tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt đều được vận dụng một cáchnghệ thuật để đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ về mặt ngữ âm của người đọc, người nghe. Hầu nhưmọi biến thể của ngữ âm tiếng Việt đều được khai thác.Vd: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

22

Heo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Lng mưa xa khơi” (Tây tiến – Quang Dũng)“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới)2.2. Từ ngữ:Từ ngữ trong phong cách văn chương rất đa dạng, gồm cả từ phổ thơng và từ địa phương,biệt ngữ; từ hiện đại và từ lịch sử, từ cổ; từ khiếm nhã và từ trang nhã. Từ trong sinh hoạt bìnhthường chiếm tỉ lệ cao, song vẫn xuất hiện đủ các lớp từ văn hố, kể cả thuật ngữ khoa học.Ngun nhân là tác phẩm văn chương có chức năng phản ánh mọi khía cạnh của cuộc sốngmn màu mn vẻ. Nhờ sử dụng tồn bộ các phương tiện biểu hiện mà phong cách văn

chương ln ln chuyển đổi, biến động, ln ln đa dạng mới mẻ trong cách phơ diễn.

Khảo sát nét độc đáo, đặc sắc khi sử dụng từ ngữ trong sáng tác văn chương của nhà vănchính là tìm hiểu dấu hiệu phong cách nghệ thuật của nhà văn đó.Nguyễn Đức Đạt:”Văn như con người của nó.Văn thâm hậu thì con người trầm mà tĩnh, vănơn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa, văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản,văn hùng hồn thì con người của nó cường mà nhanh, văn un sâu thì con người của nó thuầnt mà đúng đắn”2.3. Cú pháp:Phong cách văn chương sử dụng hầu như tất cả các kiểu cấu trúc câu. Song cấu trúc câu đơnvẫn chiếm tỉ lệ cao.Phong cách văn chương thường sử dụng các loại câu mở rộng thành phần định ngữ, trạng

ngữ và các loại kết cấu tu từ như đảo ngữ, sóng đơi cú pháp, câu chuyển đổi tình thái…

 

23

Chương III. ĐẶC ĐIỂM TU TỪ CỦA CÁC LOẠI ĐƠN VỊ TRONG TIẾNG VIỆT—————KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM TU TỪ CỦA TỪ NGỮ TIẾNG VIỆTKhảo sát đặc điểm tu từ của từ ngữ tiếng Việt theo 2 hướng sau:– Hướng thứ nhất: Khảo sát đặc điểm tu từ của những tập hợp từ ngữ được phân loại theobình diện phong cách (lấy phong cách làm điểm tựa để phân loại và miêu tả đặc điểm tu từ củatừ ngữ)– Hướng thứ hai: Khảo sát đặc điểm tu từ của những tập hợp từ ngữ được phân loại theo quanđiểm ngữ pháp học, từ vựng học.I. Khảo sát đặc điểm tu từ của những lớp từ ngữ được phân loại theo bình diện phongcách1. Từ ngữ đa phong cáchTập hợp những từ ngữ được sử dụng chung cho tất cả các loại phong cách. từ ngữ đa phong

cách được phân bố trong phạm vi biểu thị sự vật, tính chất, hoạt động trạng thái quan hệ

1.1.Biểu thị sự vậtHiện tượng tự nhiên (trời, đất, trăng, sao…); Động, thực vật: (Gà, chó, cỏ, cây…); Đồ vật(bàn, ghế, xe cộ…); Đơn vị hành chính: (xã, huyện…)1.2. Biểu thị tính chấtMàu sắc (trắng, đen, xanh); mùi vị (mặn, ngọt, chua, cay); kích thước (dài, ngắn nông,sâu..); Hình dáng (vuông, tròn); Quy mô (to, nhỏ,béo, gầy); đánh giá (tốt, xấu, già, trẻ)1.3. Biểu thị hoạt độngVận động (đi, chạy, bay); tồn tại (sống, chết, mất, còn); hành động (làm, đánh, đóng. mở);sinh hoạt tình cảm (nói, cười, khóa, vui, buồn)1.4. Biểu thị trạng tháiThời gian (đã, đang, sẽ); đồng thời (cũng, vẫn, cứ, còn); mức độ (rất, hơi, lắm)1.5. Biểu thị quan hệVà, với, nhưng….1.6. Các quán ngữ:Tóm lại, ngoài ra, thật ra, sau cùng…=> Từ ngữ đa phong cách có 3 đặc điểm:– Dùng trong mọi phong cách tiếng việt– Được mọi người trong xã hội quen biết và sử dụng– Được dụng trong giai đoạn hiện nay.2. Từ ngữ đơn phong cáchTừ ngữ sử dụng thích hợp với một loại phong cách ngôn ngữ nào đó2.1. Từ khẩu ngữ tiếng Việt– Từ khẩu ngữ được dùng chủ yếu cho phong cách tự nhiên phục vụ cho nhu cầu nói năngsinh hoạt hàng ngày.– Đặc trưng nổi bật nhất của từ khẩu ngữ là tính miêu tả chi tiết và cụ thể và luôn gắn liềnvới cách nhìn nhận, thái độ đánh giá, tình cảm của người nói. từ khẩu ngữ giàu sắc thái biểucảm.

24

Xem thêm: Lớp Urban Dance Là Gì – Bạn Đã Biết Gì Về Nhảy Hiện Đại

Nỏ mồm, dẻo miệngĂn đònBạo phổiĐàn ông đàn angĂn cháo đái bátĐâm thọc

Ba cọc ba đồng

Nói nhiềuBị đánhLiều, không kiêng nểNữ giớiVô ơnGây mất đoàn kết

Thu nhập thấp

– Một số kiểu cấu tạo khẩu ngữ:+ Nguyên tắc cấu tạo chung của từ khẩu ngữ là thêm những yếu tố vào đơn vị từ đa phongcách để tạo nên đơn vị mới – Từ khẩu ngữVd: Ngon +ơ = ngon ơ; mốc + thếch = mốc thếch; cân + kéo = cân kéo; lo + méo mặt =loméo mặt..+ Bớt yếu tố ở đơn vị nguyên là từ đa phong cáchVd: Phê bình – phê, nhân khẩu – khẩu+ Biển âm, biến nghĩa của đơn vị nguyên là từ đa phong cáchVd: Vẫn – vưỡn; tất – tuốt;Nện (đất, đá) – nện (cho một trận); bôi (phấn son) – bôi (việc)– Từ khẩu ngữ rất cần thiết cho nhu cầu nói năng thân mật hàng ngày tạo nên sắc thái thânmật, thể hiện thái độ tình cảm cuả người nói. Từ khẩu ngữ là công cụ lợi hại để nhà văn miêutả tái tạo cuộc sống, khắc họa tính cách nhân vật

Vd; “Lý Cựu bưng bát rượu kề gần môi và gật gật gù gù:

Đây qua cầu rồi, cứ việc chén cho đẫy. Thằng Mới đâu? ông bảo mày lấy thêm rượu làmsao từ nãy đến giờ chưa thấy? Đừng láo, ông thì chẻ xác mày ra” (Ngô Tất Tố)2.2. Từ ngữ khoa học– Các ngành khoa học tự nhiên và xã hội ngoài việc sử dùng các từ ngữ đa phong cách làmcông cụ diễn đạt còn sử dụng một số lớp từ ngữ riêng để biểu thị khái niệm khoa học (thuậtngữ khoa học)Vd: hàm số, đạo hàm, tích phân (toán học); hàng hóa, lãi suất, giá trị thặng dư (kinh tế học)– Từ ngữ khoa học là công cụ riêng của văn bản khoa học, mang tính đơn nghĩa, không hàmchứa sắc thái biểu cảm.2.3. Từ ngữ chính trị– Những lớp từ ngữ thường được sử dụng trong văn bản chính luận, báo chí nhằm thực hiệnchức năng thông tin và tác động. Từ ngữ chính trị được phân bố trong các phạm vi sau:+ Nói về sinh hoạt đoàn thể: Hội nghị, thảo luận, sơ kết, tổng kết, tham luận…+ Nói về các tầng lớp xã hội, danh hiệu xã hội: Công nhân, nhân sĩ yêu nước, trí thức,chiến sĩ thi đua, anh hùng lao động.+ Phong trào tổ chức chính trị: Đảng, cánh tả, các nước không liên kết, ba dòng thác cáchmạng..+ Nói về hệ ý thức tư tưởng, đạo đức: Chủ nghĩa quốc tế vô sản, tinh thần làm chủ tập thể,đạo đức cách mạng…– Từ ngữ chính trị mang màu sắc phong cách chính luận góp phần tuyên truyền chính trị cóhiệu quả cao; mang sắc thái biểu cảm trung hòa.2.4. Từ ngữ hành chính:– Những lớp từ ngữ hành chính mang chức năng thông báo có tính pháp chế của phong cáchhành chính, những thể thức nghiêm chỉnh của hoạt động hành chính.– Từ ngữ hành chính tiếng Việt bao gồm:+ Tên các đơn vị tổ chức từ cơ sở đến trung ương, tên các chức vụ của tổ chức đó: Ủy bannhân dân tỉnh, quốc hội, Bộ giáo dục &đào tạo; Bộ trưởng, giám đốc, phó giáo sư…+ Tên gọi các văn bản hành chính: hiến pháp, luật giáo dục, chỉ thị, nghị quyết, thông tưliên bộ…

25

đạt một mục tiêu nào đó trong tiếp xúc. II. Lịch sử hình thành phong cách học trên quốc tế và Việt Nam1. Trên thế giới1. 1. Phương Tây – Theo thần thoại cổ xưa, vào thế kỉ thứ V Tr. CN, ở hòn đảo Sicie, hai nhà hùng biện là Corax vàTisias đã phát minh sáng tạo ra môn Tu từ học, nghiên cứu và điều tra hoạt động giải trí ngôn từ với tư cách là diễn từ. Saunày, các nhà hùng biện Hi Lạp và La Mã dù có nhấn mạnh vấn đề bộ phận này hay bộ phận khác củatu từ học, nhưng về đại thể vẫn giữ lại những nét chung tiêu biểu vượt trội. – Ðến thế kỉ thứ IV – III Tr. CN, 1 số ít triết gia Hi Lạp và La Mã như : Platon ( 428 – 347 ), Democrite ( 460 – 370 ), Aristote ( 384 – 322 ) … đã hình thành môn học đặt tên là Rhêtorikê ( Mĩ từpháp ). Ðến thế kỉ thứ I Tr. CN, Virgile, nhà thơ La Mã, yêu cầu quan điểm về sự phân loại cácphong cách diễn đạt. Nội dung của Mĩ từ pháp cổ đại gồm : Các phép mĩ từ ( Figura ) dùngtrong diễn đạt ; Phong cách diễn đạt ; Cơ cấu một bài văn. Mĩ từ pháp cổ đại đã có ảnh hưởnglớn đến ngôn từ hùng biện, đến thẩm mỹ và nghệ thuật viết văn thời cổ đại và sau này truyền đi khắp châuÂu. – Ðầu thế kỉ XX, khoa học ngôn từ trên quốc tế bước vào một thời kì mới, mở màn bằng hệthống các vấn đề trong bài giảng của nhà ngôn ngữ học vĩ đại người Thụy Sĩ, Ferdinand deSaussure ( 1857 – 1913 ). Ông đã giảng dạy nên nhiều nhà ngôn ngữ học tài năng mà hai trong số đólà Charles Bally và Alber Sechehaye. – Năm 1908, Albert Sechehaye cho xuất bản cuốn Phong cách học và ngôn ngữ học lí thuyết. Ông là người tiên phong chỉ ra sự thiết yếu phải xem phong cách học là một ngành độc lập củakhoa học ngữ văn. – Năm 1909, cuốn Khảo luận về phong cách học tiếng Pháp của Charles Bally sinh ra ; trongđó tác giả đề cập những yếu tố về đối tượng người dùng, nội dung, giải pháp điều tra và nghiên cứu của phongcách học. Charles Bally được coi như là người đề xướng và khai sinh cho ngành phong cáchhọc ở nước Pháp nói riêng và trên quốc tế nói chung. – Năm 1919, Leo Spilzer lan rộng ra sự chăm sóc đến những thuộc tính phong cách của vănbản, nhấn mạnh vấn đề đến những vấn đề của Buffon Phong cách chính là con người và cho rằngsự kiện phong cách gồm có cả phần tư duy và phần tình cảm. Khuynh hướng này được mệnhdanh là phong cách mới. – Suốt nửa đầu thế kỉ, các nhà ngôn ngữ học trên quốc tế chăm sóc nhiều đến các vấn đềngôn ngữ học đại cương, lí luận âm vị học, lí luận ngữ pháp mà ít chăm sóc đến phong cáchhọc và chỉ thực sự tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ vào nửa sau thế kỉ XX. 1.2. Phương Ðông – Vào thế kỉ thứ IV Tr. CN, Mặc Tử đã có những quan điểm bàn luận về sự biến hoá của lời nóitrong các văn cảnh khác nhau bằng khái niệm Thiên hành. Thực chất là bàn luận về sự hànhchức của các đơn vị chức năng ngôn từ trong thực tiễn nói năng. Thời Chiến Quốc, một số ít danh gia nhưHuệ Thi, Công Tôn Long cũng có những luận bàn về mối quan hệ giữa tên gọi và sự vật. Dùlập luận còn mang sắc tố ngụy biện nhưng họ đã dùng đến các giải pháp tu từ mà nay chúngta định danh là : so sánh, tương phản, ngoa dụ … – Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử, một đại biểu xuất sắc của phái Nho gia đã có những pháthiện mới khi bàn về tính ước lệ ( quy ước ) của tên gọi nói riêng và của ngôn từ nói chung : Ước lệ đã thành thói quen thì bảo là đúng ; khác với thói quen thì bảo là không đúng. Ðiều nàycó tương quan đến khái niệm mà phong cách học dùng sau này, đó là khái niệm chuẩn mực. 2. Ở Việt Nam2. 1. Trong các quyển Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Ðôn cho biết các nhà tríthức Nước Ta như : Hoàng Ðức Lương ( thế kỉ XV ), Phùng Khắc Khoan ( thế kỉ XVI ), Lê HữuKiều ( thế kỉ XVIII ) … đã có những quan điểm bàn luận về cách luyện văn, luyện câu, luyện chữnghĩa trong văn chương. 2.2. Từ cuối thế kỉ XIX đến khoảng chừng trước 1964, nhiều học giả đã nghiên cứu và điều tra, khảo sát vàkhái quát những yếu tố về ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng của tiếng Việt như : Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Lê Văn Lý, Nguyễn Hiến Lê, … 2.3. Năm 1964, quyển Giáo trình Việt ngữ ( tập III – phần Tu từ học ) của Ðinh Trọng Lạc rađời. Có thể xem giáo trình này ghi lại sự Open thực sự của khoa học về phong cách họcở Nước Ta. Từ đó đến nay, rất nhiều quyển giáo trình mới về phong cách học được xuất bản. Tiêu biểu như : Phong cách học tiếng Việt ( 1982 ) của tập thể tác giả Cù Ðình Tú ( chủ biên ), Lê Anh Hiền, Nguyễn Nguyên Trứ ; Phong cách học và đặc thù tu từ tiếng Việt ( 1983 ) củaCù Ðình Tú ; Phong cách học tiếng Việt ( 1993 ) của Ðinh Trọng Lạc, … III. Đối tượng trách nhiệm của phong cách học1. Đối tượng điều tra và nghiên cứu của phong cách họcTrên những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa học nghiên cứu và điều tra sự vận dụngngôn ngữ, nói khác đi, nó là khoa học về quy luật nói viết có hiệu lực hiện hành. Sử dụng ngôn từ cóhiệu lực cao ở đây có nghĩa là : nói, viết đạt được tính đúng chuẩn cao, tính đúng đắn và tínhthẩm mĩ trong mọi khoanh vùng phạm vi hoạt động giải trí của tiếp xúc xã hội. Nói cách khác, ngôn từ được sửdụng có hiệu suất cao cao là ngôn từ phải triển khai được tổng thể công dụng xã hội của nó. Do nhấnmạnh về mặt này hay mặt khác so với việc vận dụng ngôn từ mà các nhà nghiên cứu đã cónhững quan điểm khác nhau về đối tượng người dùng điều tra và nghiên cứu. 1.1. Đối tượng nghiên cứu và điều tra của phong cách học là yếu tố biểu cảm của ngôn từ : Người đề xướng quan điểm này là Charles Bally. Theo ông phong cách học nghiên cứu và điều tra cácsự kiện miêu tả của ngôn từ trên quan điểm nội dung biểu cảm của chúng, nghĩa là sự biểuđạt các sự kiện tình cảm bằng ngôn từ và ảnh hưởng tác động của ngôn từ so với tình cảm. Nhà từ điển học Tây Ban Nha, H. Casares cũng đống ý quan điểm này : Sự điều tra và nghiên cứu vàđánh giá các yếu tố đi kèm theo phần thông tin trung hòa – logic thuần trí tuệ là đối tượng người tiêu dùng củaphong cách học. Ông cho rằng Phong cách học có trách nhiệm tách ra các yếu tố phi ý niệm, đồng thời điều tra và nghiên cứu các yếu tố phi ý niệm có trong miêu tả. * Nhận xét : Quan điểm của Charles Bally và những người ủng hộ quan điểm này là đúngnhưng chưa đủ. Trong việc vận dụng ngôn từ, các yếu tố biểu cảm đóng một vai trò hết sứcquan trọng. Tài năng, sức mê hoặc của người nói, người viết biểu lộ một cách tập trung chuyên sâu và rõnét trong việc vận dụng và phát minh sáng tạo các yếu tố biểu cảm. Thế nhưng trong tiếp xúc, khôngphải khi nào các yếu tố biểu cảm cũng hoàn toàn có thể xuất hiện. Ví dụ : trong tiếp xúc hành chính và khoa học không cần có sự tham gia của yếu tố biểu cảmCái quyết định hành động tạo nên một lời nói có hiệu lực hiện hành cao là ở chỗ lựa chọn các phương tiện đi lại ngônngữ tương thích với trong thực tiễn tiếp xúc. Chính do đó, quan điểm này không được các nhà ngôn ngữhọc Nước Ta ủng hộ. 1.2. Đối tượng điều tra và nghiên cứu phong cách học là các phong cách công dụng ngôn ngữMột số nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc như : Havranek, Jedlicka, Dolejel … xuất phát từ sự xácđịnh phạm trù chung nhất của phong cách học là phong cách ngôn từ, đã xem phong cáchngôn ngữ là đối tượng người dùng của phong cách học. Havranek cho rằng : Nghiên cứu thể văn là côngviệc khoa học về thể văn ( phong cách ) hoặc phong cách học. Còn Dolejel cho rằng phạm trùchung quan trọng nhất là phong cách học. * Nhận xét : Trong tiếp xúc, phong cách công dụng ngôn từ là một trong những tiêu chuẩnđể nhìn nhận đặc thù đúng đắn, tính có hiệu lực hiện hành cao của lời nói. Mỗi cá thể trong quá trìnhvận dụng ngôn từ, tự giác hay không tự giác đều phải theo một phong cách công dụng ngônngữ nhất định. Do vậy quan điểm của các nhà ngôn ngữ học trên là có cơ sở nhưng cũng chưađủ. Phong cách công dụng ngôn từ phải là một trong những nội dung quan trọng của phongcách học nhưng nếu xem đấy là nội dung duy nhất thì có phần cực đoan vì còn có yếu tố lựachọn và vận dụng các phương tiện đi lại ngôn từ biểu cảm cũng như cả các phương tiện đi lại ngôn ngữtrung hoà. Thực tế trong tiếp xúc đều thực thi ở một phong cách công dụng ngôn từ nàođó nhưng ta không hề rập khuôn theo một cách nói năng ( dù thống nhất và tương thích với PC ) nếu đối tượng người dùng, trường hợp tiếp xúc đổi khác. Mỗi phong cách công dụng ngôn từ cũng lạitồn tại dưới những biến thể. Ví dụ : Phong cách khẩu ngữ có khẩu ngữ văn hoá và khẩu ngữ thông tục ứng với những hoàncảnh, đối tượng người tiêu dùng và mục tiêu tiếp xúc khác nhau. Do vậy quan điểm này cũng không được cácnhà ngôn ngữ học Nước Ta ủng hộ. 1.3. Đối tượng nghiên cứu và điều tra phong cách học là quy luật lựa chọn các phương tiện đi lại ngôn ngữMột số nhà ngôn ngữ học Pháp và Liên Xô như : Julies, Maroujeau, K.Moren, R.G.Piotroski. .. xem việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện đi lại miêu tả của ngôn từ là đối tượng người tiêu dùng của phongcách học. Moren viết phong cách học là ngành ngữ văn độc lập, nghiên cứu và điều tra những nguyên tắc lựa chọnvà sử dụng các phương tiện đi lại ngôn từ nhằm mục đích diễn đạt một nội dung nhất định trong những hoàncảnh tiếp xúc nhất định. * Nhận xét : Trong ngôn từ cũng như trong lời nói, luôn luôn có năng lực sống sót những biếnthể cùng nghĩa. Do vậy, trong tiếp xúc tất cả chúng ta đều phải làm việc làm lựa chọn các biến thểcùng nghĩa : – Lựa chọn các biến thể cùng nghĩa để nói hoặc viết khi phát tin. – Lựa chọn những biến thể cùng nghĩa để hiểu khi nhận tin. Lựa chọn là một hoạt động giải trí liên tục trong tiếp xúc. Nội dung của sự lựa chọn là : lựachọn các yếu tố biểu cảm và không biểu cảm, lựa chọn các phương tiện đi lại ngôn từ và phươngpháp diễn đạt tương thích với phong cách. Sự lựa chọn cách nói, cách hiểu như trên thường diễnra trong tiềm thức, một cách tự nhiên và nhiều lúc nếu không chú ý, ta không nhận ra điều đó. Chỉ khi nào gặp phải trường hợp viết không ra ý, nói chẳng thành lời tất cả chúng ta mới thấy vấn đềnói, viết không phải thuận tiện và việc lựa chọn các phương tiện đi lại ngôn từ đễ diễn đạt thật quantrọng biết bao. Thao tác lựa chọn này ( cả thao tác phối hợp ) diễn ra một cách trừu tượng. Trongsáng tác văn chương, sự lựa chọn này rất quan trọng và thể hiện rõ ràng hơn. Người nói càngthành thạo thao tác lựa chọn bao nhiêu, càng tập hợp được nhiều đơn vị chức năng ngôn từ tương đồngvà dị biệt để lựa chọn thì hiệu suất cao diễn đạt của họ càng cao bấy nhiêuỞ Nước Ta, quan điểm này được các nhà ngôn ngữ học ủng hộ. Thực tế tiếp xúc cho ta thấykhi vận dụng ngôn từ mỗi cá thể đều bị chi phối bởi quy luật này. Người nói luôn phải suynghĩ đến điều kiện kèm theo và hậu quả cũng như hiệu quả của lời nói mình. Kho tàng tục ngữ của ta córất nhiều câu nói về kinh nghiệm tay nghề nói, viết. Ví dụ : – Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho thỏa mãn nhu cầu nhau. – Ăn có nhai, nói có nghĩ. – Bút sa gà chết. Khi nói, viết cần phải tâm lý và vấn đáp các câu hỏi sau : – Nói, viết cho ai nghe ? – Nói, viết về cái gì ? – Nói, viết để làm gì ? – Nói, viết như thế nào ? – Nói, viết khi nào ? Có như thế mới hoàn toàn có thể đạt hiệu suất cao cao khi tiếp xúc. Và để vấn đáp các câu hỏi trên, chúng taphải lựa chọn ngôn từ cho tương thích. Như thế, lựa chọn là hoạt động giải trí cơ bản nhất chi phối toànbộ quy trình vận dụng ngôn từ. => Đối tượng của phong cách học : Phong cách học là một bộ phận của ngôn từ họcnghiên cứu nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu suất cao lựa chọn, sử dụng hàng loạt các phươngtiện ngôn từ nhằm mục đích biểu lộ một nội dung tư tưởng tình cảm nhất định trong những phongcách công dụng ngôn từ nhất định. Lựa chọn để sử dụng các phương tiện đi lại ngôn từ đạt hiệu suất cao cao trong tiếp xúc là một yêucầu tất yếu khi nói, viết. Khi lựa chọn sử dụng các phương tiện đi lại ngôn từ cần chú ý quan tâm các thaotác lựa chọn : – Xác định nội dung miêu tả – Xác định phong cách lời nói – Liên hội những hình thức miêu tả cùng nghĩa – Thử nghiệm và lựa chọn những hình thức diễn đạt cùng nghĩa thiết yếu – Kiểm tra lại văn bản hay phát ngôn đã lựa chọn2. Nhiệm vụ nghiên cứu và điều tra của phong cách học2. 1. Chỉ ra năng lực và hiệu lực hiện hành diễn đạt của các phương tiện đi lại ngôn từ trong từng phongcách ngôn từ. 2.2. Cách vận dụng các phương tiện đi lại ngôn từ để đạt hiệu suất cao cao trong tiếp xúc, đúngphong cách ngôn ngữ. Việc chỉ ra năng lực và hiệu lực hiện hành miêu tả của các phương tiện đi lại ngôn từ trong từng phongcách tính năng ngôn từ là rất quan trọng. Các phương tiện đi lại ngôn từ khi nào cũng tồn tạidưới dạng lớn hơn một, tức dưới dạng những biến thể. Ví dụ : âm vị có các âm tố biểu lộ ; ý nghĩa từ vựng có các từ cùng nghĩa biểu lộ ; ý nghĩa ngữpháp có các dạng thức biểu lộ. Trong thực tiễn tiếp xúc có những cách nói cùng nghĩa Open rất linh động, phong phú vàphong phú. Mỗi dạng biến thể này đều có những đặc thù tu từ riêng yên cầu cần phải nắm rõ, hiểu đúng. Có như thế mới vận dụng tương thích trong từng phát ngôn đơn cử. Phong cách học có tương quan mật thiết đến những yếu tố sau : – Xây dựng chuẩn mực ngôn từ, trong đó có chuẩn mực phong cách – Trau giồi ngôn từ – Giữ gìn sự trong sáng của lời nói dân tộcIV. Phong cách học với chuẩn mực ngôn từ và chuẩn mực phong cách1. Chuẩn mực ngôn ngữ1. 1. Chuẩn mực ngôn từ là mạng lưới hệ thống các phương tiện đi lại biểu lộ tốt nhất, phải chăng nhất và đượcmọi người thừa nhận, cùng sử dụng để tiếp xúc với nhau trong một thời kỳ nhất định ; trởthành những quy ước ngôn từ trong xã hội. Chuẩn mực ngôn từ được bộc lộ trong cácphạm vi : Phát âm, chữ viết, dùng từ và đặt câu. Ví dụ : Phát âmChính tảDùng từĐặt câuChuẩn mựcCon trâu trắng nằm trong bụi treRượu, tra cứu, hiệu suất, quyên gópGội đầu, chẻ củiBằng thẩm mỹ và nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổibật sự quyết tử to lớn của những người mẹViệt NamKhông chuẩn mựcCon tâu tắng nằm tong bụi teRiệu, cha kíu, năng xuất. khuyên gópRửa đầu, thái củiVới nghệ thuật và thẩm mỹ so sánh của tác giả đãlàm điển hình nổi bật sự quyết tử to lớn củanhững người mẹ Việt Nam1. 2. Chuẩn mực ngôn từ phụ thuộc vào vào lịch sử dân tộc, nó biểu lộ những quy luật lịch sử dân tộc của sựphát triển của ngôn từ cũng như những khuynh hướng tăng trưởng tiêu biểu vượt trội của thời đại. Chuẩn mực ngôn từ là tập hợp những phương tiện đi lại ngôn từ tương thích với nhu yếu của xã hội, rút ra từ sự lựa chọn trong các yếu tố ngôn từ. VD : Chánh trị – Chính trị ( Biến thể ngữ âm ) 1.3. Ðể lựa chọn tốt, tìm những yếu tố ngôn từ nhằm mục đích sử dụng tương thích tất phải có sự sosánh nên chuẩn mang đặc thù so sánh. Vì thế, không có biến thể, không có sự lựa chọn biếnthể thì không có sự so sánh và chuẩn. Giải quyết yếu tố biến thể là việc làm của chuẩn mựcngôn ngữ. Chức năng của chuẩn chính là sự pháp luật và kiểm soát và điều chỉnh cách sử dụng các biến thểngôn ngữ. Chuẩn mực ngôn từ chỉ vấn đáp câu hỏi dùng có đúng với ngôn ngữ văn hóa haykhông ?. Chuẩn mực ngôn từ chỉ xử lý yếu tố nên sử dụng các phương tiện đi lại ngôn ngữnào cho tương thích với cái chung. Việc sử dụng ngôn từ như thế nào để đạt hiệu suất cao cao thìchuẩn mực ngôn từ không bàn đến. 2. Chuẩn mực phong cách : 2.1. Chuẩn mực phong cách là hàng loạt cách hướng dẫn biểu lộ tính quy luật bắt buộc ở một thờikì nhất định của một ngôn từ sao cho tương thích với phong cách của hoạt động giải trí lời nói và vớicác kiểu và thể loại văn bản. Chuẩn mực phong cách gắn với khoanh vùng phạm vi đặc trưng của hoạt độnglời nói, với một kiểu, một thể loại văn bản đơn cử. Chuẩn mực phong cách chỉ vấn đáp thắc mắc : Dùng có tương thích với ngữ cảnh hay thực trạng này không ? Ví dụ : Trong nói năng thân thiện hàng ngày, dùng các từ như : Cây số, kí, cân, lạng, thước … làphù hợp, nhưng trong phong cách khoa học tất cả chúng ta phải dùng : Kilomet, kilogam, mét, … 2.2. Chuẩn mực phong cách không thủ tiêu mà tận dụng các biến thể, pháp luật khoanh vùng phạm vi sửdụng cho từng biến thể để tận dụng năng lực diễn đạt của ngôn từ nhằm mục đích phân phối các yêu cầudiễn đạt ngày càng phong phú, phức tạp, tinh xảo của trí tuệ và tình cảm của con người. VD : Tiêu đề “ Tràng giang ” ( thơ Huy Cận ) biến âm của từ “ trường giang ” : sông dài ) 2.3. Sự diễn đạt được nhìn nhận là tốt theo quan điểm phong cách học trước hết phải là sự biểuđạt tương thích với chuẩn mực ngôn từ trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp ; sự biểuđạt đó phải tương thích với chuẩn mực phong cách công dụng ngôn từ. Không được mượn cớsáng tạo, mặc kệ chuẩn mực, tạo nên những kiểu nói lập dị trọn vẹn lạ lẫm với ngôn ngữtiếng ViệtVd : no cơm áo, cười thênh thênh, cặp mắt đĩnh ngộ, đẹp dã man … * Lưu ý : Trong trong thực tiễn sáng tác văn chương ta thường phát hiện những cách nói có vẻ như lệchchuẩn ngôn từ, nhưng đây là sự lệch chuẩn với dụng ý tu từ nhằm mục đích bộc lộ ý đồ nghệ thuậtcủa tác giả ; Ở những nhà văn tài hoa, hiện tượng kỳ lạ lệch chuẩn thành công xuất sắc góp thêm phần tạo nên sựđộc đáo về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ví dụ : Một câu hỏi lớn. Không lời đáp ( Huy Cận ) Tôi sung sướng. Nhưng hấp tấp vội vàng 50% ( Xuân Diệu ) Một tiếng chim kêu sáng cả rừng ( Khương Hữu Dụng ) V. Những khái niệm cơ bản của phong cách học1. Ðặc điểm tu từ1. 1. Điểm độc lạ giữa mạng lưới hệ thống tín hiệu ngôn từ và mạng lưới hệ thống tín hiệu khác ở chỗ cùngmột đối tượng người tiêu dùng, một nội dung thông tin nhưng ngôn từ có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Nói cách khác, có nhiều hình thức miêu tả cùng nghĩa để cùng chỉ một đối tượng người tiêu dùng, một thôngbáo nào đó. Trước tình hình này, người phát ngôn hay người thu ngôn đều cần phải xem xét, lựa chọn một hình thức miêu tả nào đem lại hiệu suất cao tối ưu nhất. Nguyên nhân của hiện tượngnày là do : – Mỗi hình thức miêu tả cùng nghĩa gắn với một phương pháp nhìn nhận, một thái độ đánh giátình cảm nhất định. – Mỗi hình thức diễn đạt cùng nghĩa cũng lại gắn với một khoanh vùng phạm vi nói, viết một phongcách tính năng ngôn từ nhất định. Vd : Hiện tượng sử dụng các từ gần nghĩa mang màu sắc phong cách :  Tặng : Sắc thái thân thiện, chân tình  Biếu : Sắc thái lễ phép, kính trọng  Hiến : Sắc thái thiêng liêng, cao quý  Thí : Sắc thái xem thường, coi khinhMỗi từ được lựa chọn sử dụng cho tương thích trong từng thực trạng, đối tượng người tiêu dùng tiếp xúc khác nhau. 1.2. Khái niệm đặc thù tu từ được rút ra từ hiện tượng kỳ lạ miêu tả cùng nghĩa nói trên. Ðặcđiểm tu từ là phần nội dung bộc lộ bổ trợ của tín hiệu ngôn từ khi sống sót dưới hình thứcbiểu đạt cùng nghĩa ( nội dung cơ sở ). Phần này một mặt chỉ rõ thái độ nhìn nhận tình cảm củađối tượng được nói đến, một mặt chỉ rõ tính năng phong cách của tín hiệu ngôn từ. Có thểthấy rõ điều này khi so sánh đặc thù tu từ của các từ xưng hô trong những câu thơ sau : Mình về với Bác đường xuôiThưa dùm Việt Bắc không nguôi nhớ NgườiNhớ ông Cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải đẹp tươi lạ lùng ( Việt Bắc – Tố Hữu ) Tín hiệu Nội dung cơ sởngôn ngữ ( thuần ý niệm ) BÁCNGƯỜIÔNG CỤChủ tịchHồ Chí Minh vớitư cách công dânNội dung biểu lộ bổ trợ ( ngoài ý niệm ) Sắc thái biểu cảmThành kính, một cách thân thương, ruột thịtThành kính một cách thiêngliêng, cao cảKính trọng một cách tầm trung, mộc mạcMàu sắc phong cáchKhẩu ngữ dụng trong nhiềuphạm viGọt giũa dụng trong phạm vitrang nghiêmLời nói thông dụng của đồngbào Việt Bắc2. Màu sắc phong cách : 2.1. Ngôn ngữ là một mạng lưới hệ thống gồm nhiều nguyên tắc, quy luật và ước lệ mà những ngườicùng sống chung trong một hội đồng ngôn từ lao lý. Do thói quen sử dụng trong quátrình hành chức, mỗi đơn vị chức năng ngôn từ thường gắn với một hoặc vài khoanh vùng phạm vi tiếp xúc nào đó. Chính những khoanh vùng phạm vi được hình thành do thói quen mang tính truyền thống cuội nguồn này mà cácphương tiện ngôn từ thu nhận cho mình cái dấu ấn riêng của môi trường tự nhiên nói vốn quen thuộcvới chúng. Dấu ấn về khoanh vùng phạm vi sử dụng của các phương tiện đi lại ngôn từ được gọi là màu sắcphong cách. Vậy sắc tố phong cách của đơn vị chức năng ngôn từ là nội dung bộc lộ bổ trợ chỉrõ giá trị tính năng của đơn vị chức năng ngôn từ, gợi cho ta liên tưởng đến phong cách công dụng, đến môi trường tự nhiên, khoanh vùng phạm vi mà đơn vị chức năng ngôn từ thường được sử dụng. Ví dụ : Các đơn vị chức năng từ vựng như : Vác mặt, chí phải, bằng vai phải lứa, bằng anh bằngem … thường Open trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên mang sắc tố khẩu ngữ. Các đơn vị chức năng từ vựng như : thừa lệnh, ủy quyền, quyết định hành động, thực thi, đính kèm … thường xuấthiện trong phong cách hành chính … 2.2. Màu sắc phong cách của các phương tiện đi lại ngôn từ biểu lộ ở toàn bộ các Lever như : Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Căn cứ vào sự Open tự do hay hạn chế của các đơn vị chức năng ngônngữ khi Open trong các phong cách tính năng ngôn từ mà người ta chia ra làm hai loại : Ða phong cách và đơn phong cách. – Đơn vị ngôn từ nào có năng lực Open trong toàn bộ các phong cách được gọi là đơn vịcó sắc tố đa phong cách. – Ðơn vị ngôn từ nào chỉ Open ở một hoặc vài phong cách tính năng ngôn từ nhấtđịnh được gọi là đơn vị chức năng có sắc tố đơn phong cách. Ví dụ : – Các từ : cha mẹ, to lớn, sông núi, cây cối, … có khoanh vùng phạm vi sử dụng khá thoáng đãng, phù hợpvới nhiều phong cách ngôn từ, nên có sắc tố đa phong cách. – Các từ : phụ mẫu, vĩ đại, giang sơn, thảo mộc, … thường chỉ Open trong tiếp xúc mangtính nghi thức, nên có sắc tố đơn phong cách. 3. Sắc thái biểu cảm : 3.1. Trong quy trình nhận thức, con người luôn luôn bày tỏ sự nhìn nhận, nhận xét của mìnhvề các đối tượng người dùng được đề cập. Sự nhìn nhận nhận xét này hoàn toàn có thể được bộc lộ bằng các phươngtiện ngôn từ hoặc các phương tiện đi lại ngoài ngôn từ. Trong việc biểu lộ thái độ nhìn nhận tìnhcảm của mình bằng các phương tiện đi lại ngôn từ, không phải những đơn vị chức năng ngôn từ nào cũngmang sắc thái biểu cảm như khái niệm này. Nếu sự bộc lộ tình cảm bằng những từ định danhtình cảm như : vui, buồn, yêu, ghét, đau đớn, phẫn nộ, … thì nó không tạo ra sắc thái biểu cảm ( expressive colouring ) như khái niệm mà ta đề cập ở đây. Sắc thái biểu cảm là nội dung biểuhiện bổ trợ chỉ rõ thái độ nhìn nhận tình cảm của người nói so với đối tượng người tiêu dùng được đề cập, được nhận thức trong các đơn vị chức năng ngôn từ. Ví dụ : Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênh ( Lượm – Tố Hữu ) Sắc thái biểu cảm của đoạn thơ trên được bộc lộ qua các thông tin bổ trợ từ các từ láy : loắt choắt, xinh xinh, thăn thoắt, nghênh nghênh bộc lộ vẻ đẹp hồn nhiên trong sáng trẻ thơcủa chú bé liên lạc được biểu lộ qua cái nhìn đầy âu yếm, yêu quý của tác giả. 3.2. Sắc thái biểu cảm có thẻ là chứng minh và khẳng định, dương thế ( tôn vinh, ca tụng, tán dương, tựhào … ). cũng hoàn toàn có thể là phủ đinh, âm tính ( chê bai, lên án, phẫn nộ, mỉa mai, giễu cợt … ) có thểbiểu thị qua cách sử dụng từ ngữ, cấu trúc câu văn, giọng điệu ngôn từ … Vd : Giọng văn giễu nhại trong “ Số đỏ ” mỉa mai đả kích xã hội thượng lưu ” “ Còn lai lịch Phó Đoan kể ra nghe cũng hay hay. Hồi đương xuân bà bị lính Tây hiếp … Saucuộc hiếp trái phép đến ngày cuộc hiếp đúng luật, nghĩa là cuộc làm đám cưới. Người línhấy sau thành ông Phó Đoan. Ăn ở với nhau độ 10 năm, chết trung thành với chủ với nhà nước, chếtchung tình với vợ, chết như những tình nhân vợ quá sức. Rồi bà lấy ông phán trẻ 2 năm sauthì ông chồng nội hóa cũng lăn ra chết. Vì lẽ chưa ai thấy có 3 nhân tình, nên những ngọnlưỡi rắn rết phao rằng những ngọn lửa tình do những kẻ chim bà không được đã khêu lên, bà bắt ông phán phải rập toàn bộ. Bà chính chuyên đến nỗi chồng bà kiệt lực, cạn sức phảitrốn xuống suối vàng ” 4. Phong cách công dụng ngôn ngữ4. 1. Phong cách công dụng ngôn ngữĐây là một trong những yếu tố TT và là một phạm trù cơ bản nhất của phong cáchhọc. Đây là một dạng sống sót của ngôn từ dân tộc bản địa được định hình thành những dạng nhất địnhbởi quy luật lựa chọn và sử dụng các phương tiện đi lại bộc lộ do các tác nhân ngoài ngôn từ ( thực trạng tiếp xúc, đối tượng người tiêu dùng tiếp xúc, mục tiêu tiếp xúc, nội dung tiếp xúc ) chi phối vàquy định. 4.2. Những tác nhân tạo nên phong cách công dụng ngôn ngữPhong cách chức năng ngôn từ được tạo nên bởi hai tác nhân : tác nhân ngôn từ và nhân tốngoài ngôn từ. a. Nhân tố ngôn từ : Bao gồm các phương tiện đi lại ngôn từ như : ngữ âm, từ vựng, cúpháp. Các yếu tố này giữ vai trò là phương tiện đi lại bộc lộ, tức làm rõ diện mạo, cụ thể hóa diệnmạo của phong cách công dụng ngôn từ. Chính nhờ các phương tiện đi lại này mà tất cả chúng ta có thểkhảo sát các đặc trưng diễn đạt và đặc thù ngôn từ của từng phong cách. b. Nhân tố ngoài ngôn từ : Có rất nhiều các tác nhân chi phối việc lựa chọn các phươngtiện ngôn từ khi tiếp xúc. Ví dụ như thực trạng của người nói ( viết ) và người đọc ( nghe ) ; thực trạng xã hội ; nói điều gì cho thích hợp ; nói để làm gì và nhằm mục đích mục tiêu gì ; tổ chức triển khai nộidung và phương pháp nói năng như thế nào cho thích hợp ; thời gian tiếp xúc … Nói cách khác, khinói năng, tất cả chúng ta phải xử lí hàng loạt các yếu tố như : Phát ngôn cho ai ? Tình huống phátngôn như thế nào ? Phát ngôn về cái gì ? Phát ngôn để làm gì ? Phát ngôn như thế nào ? Tuynhiên, tất cả chúng ta thấy có ba tác nhân quan trọng nhất chi phối việc tất cả chúng ta lựa chọn các phươngtiện ngôn từ khi tiếp xúc và cũng chính từ ba tác nhân này ( tất yếu cùng cả những nhân tốcó tương quan khác ) đã góp thêm phần hình thành nên các phong cách công dụng ngôn từ. Nhân tố ngoài ngôn từ gồm có : Ðối tượng tiếp xúc, thực trạng tiếp xúc và mục đíchgiao tiếp. – Ðối tượng tiếp xúc : Ðối tượng tham gia tiếp xúc là tác nhân quan trọng nhất có tác dụngquyết định đến việc lựa chọn các phương tiện đi lại ngôn từ trong tiếp xúc. Mỗi người trong giaotiếp khi nào cũng Open với một tư cách, một cương vị nhất định mà mối quan hệ gia đìnhvà xã hội đã lao lý. Nói cho ai nghe ? Viết cho ai đọc ? Người nghe là ai ? Tâm tư tình cảmthế nào, quan hệ với tất cả chúng ta thế nào ? Trình độ học vấn, nghề nghiệp ? … Tất cả những điều đóta cần phải tìm hiểu và khám phá khi tham gia tiếp xúc, xác lập rõ trước khi nói viết. Có như thế mới đạthiệu quả cao trong tiếp xúc. VD : Tùy theo đối tượng người dùng tiếp xúc mà tư lựa chọn đại từ nhân xưng cho tương thích ( Vai xã hội ) – Hoàn cảnh tiếp xúc : Giao tiếp xã hội lúc bấy giờ thường được Open và sống sót ở haidạng : giao tiếp theo nghi thức và tiếp xúc không theo nghi thức. Hoàn cảnh theo nghi thức làhoàn cảnh xã hội trong đó diễn ra hành vi tiếp xúc bằng lời nói mang đặc thù đúng đắn, trang nghiêm, hoàn hảo. Hoàn cảnh không theo nghi thức là thực trạng xã hội trong đó diễn rahành vi tiếp xúc mang đặc thù tự nhiên, tự do, nhiều lúc tùy tiện. Do thực trạng giao tiếpkhác nhau nên có những phương tiện đi lại ngôn từ tương thích cho mỗi dạng. Giao tiếp có hoàn cảnhkhông theo nghi thức thì việc vận dụng các phương tiện đi lại ngôn từ không cần gọt giũa lắm, ítchú ý hay có ý thức hướng tới chuẩn mực, thường tự do tự do trong phát âm, ít khi chuẩnbị trước. Giao tiếp thuộc thực trạng theo nghi thức thì việc sử dụng các phương tiện đi lại ngôn ngữcó những nhu yếu và yên cầu ngược lại. VD : Sử dụng từ ngữ khi tiếp xúc trong hội họp khác với trong hoạt động và sinh hoạt đời thường – Mục đích tiếp xúc : Mục đích là cái vạch ra làm đích nhằm mục đích đạt cho được trong hoạt độngcó ý thức của con người. Mọi hành vi lời nói đều hướng tới một mục tiêu thực tiễn nhất địnhvà đều cần phải chọn một hình thức diễn đạt thích hợp. Cùng một nội dung tiếp xúc nhưngnếu xuất phát từ những mục tiêu tiếp xúc khác nhau như : thông tin, trao đổi, ảnh hưởng tác động, chứngminh, sai khiến hay thẩm mỹ và nghệ thuật … sẽ dẫn đến cách dùng từ, đặt câu và giải pháp diễn đạt khácnhau. VD : Cách sử dụng từ ngữ trong văn bản hành chính khác với văn bản biểu cảm4. 3. Phong cách ngôn từ và lời nói cá thể : – Trong nói năng, dù muốn hay không, mọi người đều nói, viết theo một phong cách ngônngữ nhất định. Tuy nhiên, việc vận dụng đó còn tuỳ thuộc vào năng lượng ngôn từ của mỗingười, không phải ai cũng sử dụng tương thích, đúng đắn, thâm thúy và tinh xảo như nhau. Lời nói cánhân là tác dụng của việc thực thi phong cách ngôn từ của mỗi cá thể ở trong thực tiễn. Lờinói cá thể vừa bao hàm cái chung, phong cách ngôn từ, vừa tiềm ẩn cái riêng, do cánhân sử dụng. – Phong cách tính năng ngôn từ là cái chung, cái trừu tượng sống sót trong ý thức của mỗingười, còn lời nói cá thể là cái riêng, cái đơn cử sống sót trong những phát ngôn đơn cử. Mốiquan hệ giữa phong cách công dụng ngôn từ và lời nói cá thể là mối quan hệ giữa cáichung và cái riêng, cái có tính logic và cái có tính lịch sử dân tộc. Phong cách tính năng ngôn ngữkhông chỉ lao lý lời nói cá thể mà ngược lại nó còn được lời nói cá thể nuôi dưỡng. Mỗibiến đổi của phong cách tính năng ngôn từ đều khởi đầu từ lời nói cá thể. Xét cho cùng, mối quan hệ giữa phong cách công dụng ngôn từ và lời nói cá thể được kiến thiết xây dựng và xácđịnh trên cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa ngôn từ và lời nói. VII. Các giải pháp nghiên cứu và phân tích và nghiên cứu và điều tra phong cách học1. Phép thế tu từ ( Thử nghiệm tu từ ) Phép thế tu từ là cách đổi khác một vài từ trong câu, một vài câu trong đoạn văn có ý nghĩatượng trưng để làm điển hình nổi bật giá trị của những từ và câu dùng trong nguyên tác. Vd : Xắn tay mở khóa động đàoRẽ mây thông tỏ lối vào thiên thai ( Truyện Kiều – Nguyễn Du ) ( Xắn tay bẻ cái hàng ràoRẽ cây thông tỏ lối vào nhà Kim ) 2. Phép so sánh – so sánhPhép so sánh – so sánh là cách xếp đặt những sự kiện diễn đạt đồng nghĩa tương quan cạnh nhau đểlàm điển hình nổi bật những giá trị của sự kiện được đối chiếuVd : Đã tan tác những bóng thù hắc ámĐã sáng lại trời thu tháng Tám ( Tố Hữu ) ( Bóng thù hắc ám đã tan tác, mùa thu tháng Tám đã sáng lại ) 3. Phép thống kê tu từ ( phong cách học ) Phép thống kê là chiêu thức được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trong đó có thốngkê ngôn ngữ học. Phép thống kê tu từ là sự lựa chọn xếp đặt các đơn vị chức năng có nghĩa và sắc tố tutừ để nhận diện một phong cách công dụng hay phong cách diễn đạt của một phong cách cánhân, từ đó đưa ra nhận xét về giá trị. Vd : Để nghiên cứu và phân tích phong cách ngôn từ thơ Hồ Xuân Hương, ta hoàn toàn có thể thống kê tần số sửdụng những đơn vị chức năng từ láy, từ tượng hình, tượng thanh Open ở cuối dòng thơ : Chín mõmmòm, hõm hòm hom, vỗ phập phòm, rơi lõm bõm, trơ toen hoẻn … những sắc tố đậm, nhữngđộng từ chỉ hành vi can đảm và mạnh mẽ ( yếu tố thi pháp ngôn từ ). 4. Phép bình giá các giá trị ( nghiên cứu và phân tích định tính ) Các phép sửa chữa thay thế, so sánh – so sánh hay thống kê tu từ học thường được sử dụng để nhậndiện một phong cách ngôn từ nhưng mục tiêu ở đầu cuối là phải đưa ra những phán đoán giátrị ( đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu và phân tích văn bản ). – Giá trị miêu tả : dựa vào phép thế, so sánh so sánh, thống kê tu từ để chứng minh và khẳng định đây làsự lựa chọn tối ưu các phương tiện đi lại của tiếng Việt. Giá trị diễn đạt vấn đáp thắc mắc : hay hoặckhông hay – Giá trị sử dụng : dựa vào thực trạng tiếp xúc để sử dụng các phương tiện đi lại tu từ cho lời nóicó hiệu suất cao. Giá trị sử dụng vấn đáp thắc mắc : Hợp hay không hợp ?. Khi viết thường đặt ra nhữngyêu cầu : Viết để làm gì ? viết cho ai ? viết như thế nào ?. Những nhu yếu đó chính là cơ sở đểxác định tiêu chuẩn sử dụng đạt hiệu suất cao.    10C hương II. CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠIA. Việc phân loại phong cách công dụng ngôn ngữ1. Từ thời cổ đại Arixtốt cho đến thế kỷ XVIII giới nghiên cứu và điều tra ngôn từ đã quan tâm đến việcphân loại phong cách ngôn từ thành 3 loại : – Loại thượng đẳng : Ngôn ngữ quý tộc – Loại trung đẳng : Ngôn ngữ tầm trung – Loại hạ đẳng : Ngôn ngữ hạ lưuTuy nhiên cách phân loại trên rất phiến diện, không tương thích với tiếng Việt2. Việc phân loại phong cách ngôn từ khá phong phú, hoàn toàn có thể dựa theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau : 2.1. Phân loại theo đặc thù sinh lý – Phong cách giới tính : Phong cách ngôn từ của phái mạnh và phái đẹp – Phong cách lứa tuổi : Phong cách ngôn từ người già, trung niên, trẻ nhỏ … 2.2. Phân loại theo quan điểm xã hội học – Phong cách ngôn từ giai cấp : phong cách ngôn từ tầm trung, quý tộc, nông dân, tưsản .. – Phong cách ngôn từ nghề nghiệp : ngôn từ thợ thuyền, binh lính, học viên – Phong cách ngôn từ địa phương : ngôn từ thủ đô hà nội, tỉnh lẻ … 2.3. Phân loại theo quan điểm thẩm mỹ và nghệ thuật họcPhong cách ngôn ngữ trữ tình, chính luận, phong cách tả thực, lãng mạnĐây là tiêu chuẩn phân loại tự nhiên không mang tính khoa học. 3. Sự phân loại phong cách có tầm quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn là dựa vào tiêu chíchức năng xã hội của ngôn từ. Dựa trên tiêu chuẩn này mới hoàn toàn có thể cắt nghĩa vì sao khi sử dụngngôn ngữ phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định. B. Các phong cách tiếng Việt hiện đạiI. Phong cách khẩu ngữ1. Khái niệm1. 1. Phong cách khẩu ngữ là phong cách được dùng trong tiếp xúc hoạt động và sinh hoạt hàng ngày, thuộc thực trạng tiếp xúc không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cánhân nhằm mục đích để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân trong gia đình, bè bạn, hàng xóm, đồngnghiệp, sát cánh, … 1.2. Các dạng thức : Phong cách khẩu ngữ có các dạng thức bộc lộ như : chuyện trò, nhậtkí, thư từ. Trong đó chuyện trò thuộc hình thức hội thoại, nhật kí thuộc hình thức văn bản tựthoại và thư từ thuộc hình thức văn bản cách thoại. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể thấy ở phong cách này, dạng nói là dạng tiếp xúc đa phần. Ở dạng này tổng thể những nét riêng trong sự bộc lộ như : đặc trưng, đặc thù ngôn ngữđược thể hiện rõ và rất là tiêu biểu vượt trội. Có điều cần phải chú ý quan tâm là không phải dạng nói nào cũngthuộc Phong cách khẩu ngữ. Chỉ có những lời nói ( chuyện trò ) trong tiếp xúc mang tínhkhông nghi thức mới thuộc phong cách khẩu ngữ. Ở phong cách này người ta còn chia làmhai dạng : Phong cách khẩu ngữ văn hoá và Phong cách khẩu ngữ thông tục. Ở mỗi dạng nàylại có sự bộc lộ riêng cả về đặc trưng cũng như về đặc thù ngôn từ. Do đó, mỗi phongcách công dụng ngôn từ không phải là một khuôn mẫu khô cứng. 2. Chức năng và đặc trưng phong cách khẩu ngữ2. 1. Chức năngPhong cách khẩu ngữ thực thi công dụng trao đổi tư tưởng tình cảm và công dụng tạo tiếp. Những yếu tố mà phong cách khẩu ngữ đề cập không chỉ là những yếu tố đơn cử, đơn giản11trong đời sống tình cảm, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày mà còn là những yếu tố trừu tượng, phức tạpnhư chính trị xã hội, khoa học, nghệ thuật và thẩm mỹ, triết học, … 2.2. Ðặc trưnga. Tính cá thểÐặc trưng này bộc lộ ở chỗ khi tiếp xúc, người nói khi nào cũng bộc lộ vẻ riêng vềthói quen ngôn từ của mình khi trao đổi, chuyện trò, tâm sự với người khác. Ngôn ngữ làcông cụ chung dùng để tiếp xúc trong một hội đồng nhưng ở mọi người có sự vận dụng vàthể hiện không giống nhau do nhiều nguyên do như : nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, tâm lí, tính cách, trình độ học vấn, văn hoá … Ðặc trưng này khiến cho sự biểu lộ của phong cáchkhẩu ngữ cực kỳ đa dạng và phong phú, phức tạp, phong phú. Vd : trong lời nói hoạt động và sinh hoạt hàng ngày, mỗi người có giọng nói, cách diễn đạt, dùng từ theocách riêng của mìnhb. Tính đơn cử : Ở phong cách khẩu ngữ, những cách nói trừu tượng, chung chung tỏ ra không thích hợp. Ðiều này do tiếp xúc ở đây thường là tiếp xúc hội thoại, sự tiếp đón và phản hồi thông tin, tình cảm cần phải tức thời và ngắn gọn. Ðặc trưng này đã giúp cho sự tiếp xúc trong sinh hoạthàng ngày trở nên nhanh gọn, thuận tiện, ngay trong trường hợp phải đề cập đến những vấn đềtrừu tượng. Ví dụ : Tôi cười nhạt : – Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ rằng đến hỏng à ? Anh chộp lấycâu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột : – Ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kĩ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ rằng chỉ vì tôi tin vào ÔngCụ. Tôi cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến lúc bấy giờ chỉ ăn vìngười chỉ huy cừ. Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứngtài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưngcho trào lưu giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp mà cũng chỉ có đếnthằng Ðờ Gôn. Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến cũ của Pháp, còn đáng tiêu biểu vượt trội bằng mấy ÐờGôn. Anh phủ nhận : – Bằng thế nào được Hồ Chí Minh ! Và anh tiếp : – Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, ÔngCụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mĩ cũng phải khước từ : nó cho rằng không thể nào bịp Ông Giànổi. Thằng Pháp thì nghĩa lí gì ? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mĩ xui thì làm gì Pháp dám trởmặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3 ? Mình cho nó như vậy là đã phúc đời nhà nó rồi. Ðáng lẽnó phải làm chằng chằng lấy chứ ? ( Đôi mắt – Nam Cao ) c. Tính cảm xúcÐặc trưng này gắn chặt với tính đơn cử. Khi tiếp xúc người ta luôn luôn thể hiện thái độ tưtưởng, tình cảm của mình so với đối tượng người tiêu dùng được nói đến. Những cách diễn đạt đầy màu sắctình cảm đã phát sinh trực tiếp từ những trường hợp đơn cử trong trong thực tiễn đời sống muôn màumuôn vẻ. Chính thái độ, tình cảm, xúc cảm làm thành nội dung bộc lộ bổ trợ của lời nói, giúp người nghe hoàn toàn có thể hiểu nhanh gọn, hiểu thâm thúy nội dung cơ bản và nhất là mục tiêu, ýnghĩa của lời nói. Ví dụ : Anh Mịch nhăn nhó nói : – Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấyđánh chết. 12 Ông Lí cau mặt, phủ nhận, giơ roi tuy nhiên to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa : – Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi. – Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi, thì ông Nghị ghét con, cả nhà conkhổ. – Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à ? – Ðối với ông Nghị, con là chỗ nô lệ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ connhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói. – Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Ðứanào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù. ( Nguyễn Công Hoan ) 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3. 1. Ngữ âma. Khi nói năng người ta không có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm mà nói năng thoảimái, không những trong phát âm mà cả trong điệu bộ cử chỉ. Chính vì đặc thù này mà chúngta thấy phong cách khẩu ngữ sống sót rất nhiều những biến thể ngữ âm. b. Ngữ điệu trong phong cách khẩu ngữ mang dấu ấn riêng của cá thể, có đặc thù tựnhiên, tự phát. Trong 1 số ít trường hợp, ngôn từ là nội dung thông tin chính chứ khôngphải là lời nói. Vd : Sự biến hóa giọng điệu bộc lộ thái độ tình cảm của người nói3. 2. Từ ngữ : a. Ðặc điểm điển hình nổi bật nhất của phong cách khẩu ngữ là thường dùng những từ mang tính cụthể, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm. Người ta thường dùng phép thế các từ gần nghĩa chonhauVí dụ : – Chỉ hành vi nói tiềm ẩn thái độ xấu : Giở giọng, mở miệng, quạc cái mồm – Chỉ hành vi gây chia rẽ, xích mích : đâm thọc, thầy dùi, đâm bị thóc chọc bị gạo – Chỉ hành vi đánh đau : Chẻ xác, no đòn, đánh ựa cơm, đánh sặc tiết, thượng cẳng chânhạ cẳng tayb. Khi gọi tên hàng ngày, người ta không thích dùng tên khai sinh vì cách gọi này thườngkém đơn cử, ít quyến rũ. Người ta tìm những cách đặt tên khác có năng lực gợi ra hình ảnh, đặcđiểm đơn cử riêng không liên quan gì đến nhau thường có ở một cá thể. Vd : Lão sứt môi, gã cổ vịt, thằng ba lé, lão tư râu … c. Những từ bộc lộ các nhu yếu vật chất và tinh thần thông thường ( như ăn, ở, đi lại, họchành, thể dục thể thao, chữa bệnh, mua và bán, tiếp xúc, đi dạo, vui chơi, hoạt động và sinh hoạt trong giađình, trong làng xóm … ) chiếm tỉ lệ lớn, có tần suất cao. d. Một số hiện tượng kỳ lạ từ ngữ thường Open trong phong cách khẩu ngữ : – Có một lớp từ chuyên dùng cho phong cách khẩu ngữ mà rất ít dùng ở các phong cáchkhác. Ví dụ : Hết xảy, hết ý, số dách, tuyệt cú mèo, bỏ bố, bỏ mẹ, cút, chuồn … Những tiếngtục, tiếng lóng ( cớm, chôm, mẹ kiếp … ) cũng chỉ dùng ở phong cách này. – Sử dụng nhiều từ láy và đặc biệt quan trọng là láy tư. Ví dụ như : đỏng đa đỏng đảnh, nhí nha nhínhảnh, tầm bậy tầm bạ, lí la lí lắt … Có khi sử dụng kiểu láy chen như : khách đến thì ít màkhứa đến thì nhiều. – Sử dụng cách nói tắt. Ví dụ : Nhân khẩu ( khẩu ) ; chán nản ( nản ) ; bi quan ( bi ). – Sử dụng những phối hợp không có quy tắc. Ví dụ : Ðẹp ( đẹp mê hồn, đẹp mê li rụng rốn, đẹp tàn canh giá lạnh, đẹp ve kêu, đẹp bá chấy … ) – Thường dùng những từ tượng thanh, tượng hình. – Thường dùng cách nói ví von, so sánh, chuyển nghĩa ẩn dụ hoặc hoán dụ. 3.3. Cú pháp – Cấu trúc cú pháp được sử dụng trong phong cách khẩu ngữ, câu đơn chiếm tỉ lệ lớn và cótần suất cao. Ðặc biệt, câu gọi tên ( như : câu cảm thán, câu chào hỏi, ứng xử … ) được sử dụngnhiều. 13 – Ðặc điểm điển hình nổi bật ở phong cách này là sống sót hai xu thế trái ngược nhau. Một mặt, khẩungữ dùng cấu trúc tỉnh lược, có khi tỉnh lược đến mức tối đa nói bằng sự để trống trọn vẹn, mặt khác, dùng các cấu trúc cú pháp có xen những yếu tố dư, tái diễn, có khi dư thừa một cáchdài dòng lủng củng. Ví dụ về cách nói có xen nhiều yếu tố dư : Bác Phô gái, êm ả dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông Lí : – Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêu. Lạythầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội. – Ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị ! – Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xinthầy hoãn cho đến lượt sau. – Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như vậy. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì ngườita đá bóng cho chó nó xem à ? ( Nguyễn Công Hoan ) 3.4. Diễn đạt – Do được dùng trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày nên phong cách khẩu ngữ diễn đạt một cách tựdo, tuỳ tiện, phóng khoáng và phụ thuộc vào rất nhiều vào tâm lí, cảm hứng của người trong cuộc. Khuynh hướng diễn đạt cơ bản của phong cách này là cụ thể hóa, biểu cảm hóa sự diễn đạtVd : Thở ra đằng tai, bở hơi tai : MệtDa bọc xương : gầy – Phong cach khẩu ngữ được thực thi trong thực trạng tiếp xúc trực tiếp, đề tài mang tínhtự phát, luôn đổi khác. Ðiều này dẫn đến thực trạng đề tài, đối tượng người tiêu dùng được đề cập trong phongcách khẩu ngữ ít khi tập trung chuyên sâu, đứt đoạn, ý nọ xọ ý kia, thiếu tính liên tục. II. Phong cách khoa học1. Khái niệm1. 1. Phong cách khoa học được dùng trong nghành điều tra và nghiên cứu, học tập và thông dụng khoahọc. Ðây là phong cách ngôn từ đặc trưng cho các mục tiêu diễn đạt trình độ sâu. Khácvới phong cách khẩu ngữ, phong cách khoa học chỉ sống sót hầu hết ở môi trường tự nhiên của nhữngngười làm khoa học đa phần Open ở dạng văn bản viết. 1.2. Phong cách khoa học có ba biến thể : phong cách khoa học nâng cao, phong cáchkhoa học giáo khoa và phong cách khoa học phổ cập. 2. Chức năng và đặc trưng2. 1. Chức năngPhong cách khoa học có hai công dụng là : thông tin và chứng tỏ. Chính chức năngchứng minh tạo nên sự khu biệt giữa Phong cách khoa học với các phong cách khác. Văn bảnkhoa học không chỉ thuần thông tin nêu khái niệm về các sự kiện, sự vật sống sót trong thực tếkhách quan mà còn phải chứng tỏ, làm tường minh ý nghĩa của các sự kiện ấy. 2.2. Ðặc trưnga. Tính trừu tượng khái quátMục đích của khoa học là phát hiện ra các quy luật sống sót trong các sự vật, hiện tượng kỳ lạ nênphải trải qua trừu tượng hoá, khái quát hoá khi nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Trừu tượng hoá chính là con đường của nhận thức lí tính giúp ta thoát khỏi những phân biệt lẻtẻ, rời rạc ở quá trình cảm tính. b. Tính logic : Cách diễn đạt của phong cách khoa học phải bộc lộ năng lượng tổng hợp của trí tuệ, phảituân theo quy tắc ngặt nghèo từ tư duy logic hình thức đến tư duy logic biện chứng. Các nội dungý tưởng khoa học của người viết phải được sắp xếp trong mối quan hệ logic, tránh trùng lặphoặc xích míc ; những khái quát, suy lí khoa học không được phủ định lại những tài liệu ( cứliệu ) làm cơ sở cho nó … Vd : ” Sóng âm là những sóng cơ học dọc truyền trong thiên nhiên và môi trường vật chất, có tần số khoảng16Hz – 2000H z và gây ra cảm xúc âm thanh trong tai con người. Sóng âm vừa có đặc tính vật14lý, vừa có đặc tính sinh lý. Xét về đặc tích vật lý, sóng âm, sóng siêu âm, sóng hạ âm khôngkhác gì sóng cơ học khác. dặc tính sinh lý của sóng âm phụ thuộc vào cấu trúc tai của conngười ” ( vật lý lớp 12 ) c. Tính đúng chuẩn – khách quanPhong cách khoa học không được phép tạo ra sự độc lạ giữa cái miêu tả và cái được biểuđạt. Một văn bản khoa học chỉ có giá trị thực sự khi đưa đến người đảm nhiệm những thông tinchính xác về các phát hiện, ý tưởng khoa học. Muốn vậy, văn bản khoa học phải đảm bảotính một nghĩa. Nghĩa là nó không được cho phép nhiều cách hiểu khác nhau hoặc hiểu một cáchmơ hồ. Chân lí khoa học luôn phụ thuộc vào vào các quy luật khách quan, không phụ thuộc vào vào ýthức chủ quan của con người. Những từ ngữ biểu cảm, những quan điểm đánh giá và nhận định mang tính chủquan không thích hợp ở phong cách này. VD : yếu tố sử dụng thuật ngữ khoa học phải đúng mực và đồng điệu ( Hình ảnh / Hình tượng ) d. Tính trí tuệNgôn ngữ khoa học là ngôn từ của sự nhận thức trí tuệ, không dụng nạp yếu tố cảm xúctruyền cảm. Ngôn ngữ khoa học tuyết phục người đọc bằng mạng lưới hệ thống các vấn đề, luận cứ vàlập luận bằng chiêu thức tư duy ngặt nghèo chứ không phải bằng cảm xúc và sự rung độngcủa con tim. 3. Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ3. 1. Ngữ âmKhi thông tin khoa học người ta thường có ý thức hướng đến chuẩn mực ngữ âm. Để tăngthêm sức thuyết phục của sự lập luận, hoàn toàn có thể sử dụng ngôn từ nhằm mục đích nhấn mạnh vấn đề các luận điểmchính nhưng không được lạm dụng. 3.2. Từ ngữ : – Sử dụng nhiều và đúng mực những thuật ngữ khoa học chuyên ngành, từ ngữ sử dụngthường mang tính đơn nghĩa, hạn chế sử dụng từ ngữ tượng hình gợi tả. Vd : Ngữ âm, hình vị, âm tiết, hàm ngôn, nghĩa tường minh, giải pháp tu từ …. – Những từ ngữ trừu tượng, trung hòa về sắc thái biểu cảm Open với tần số cao luônthích hợp với sự diễn đạt của phong cách này. – Các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba ( người ta ) và ngôi thứ nhất ( ta, tất cả chúng ta, chúng tôi ) vớiý nghĩa khái quát được dùng nhiều. Ví dụ : Và như vậy, ta lại quay trở lại với một cách hiểu xuất phát của từ phong cách mà không chỉlà ngôn từ hay hoạt động giải trí ngôn từ nghệ thuật và thẩm mỹ hay phi nghệ thuật và thẩm mỹ v.v… đó là : những đặctrưng hoạt động giải trí bằng lời nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường tự nhiên ngônngữ hay một hội đồng có năng lực khu biệt với những kiểu miêu tả ngôn từ khác ; nói cáchkhác nó là tổng số của những tín hiệu khu biệt của các sự kiện lời nói trong tiếp xúc, phảnánh một cấu trúc bên trong và một chính sách hoạt động giải trí ngôn từ. 3.3. Cú pháp – Phong cách khoa học sử dụng các hình thức câu hoàn hảo, cấu trúc câu ngặt nghèo, rõ ràngđể bảo vệ nhu yếu đúng mực, một nghĩa và tránh cách hiểu nước đôi nước ba. – Các phát ngôn hàm chứa nhiều lập luận khoa học, bộc lộ chất lượng tư duy logic cao. – Câu điều kiện kèm theo – hệ quả và câu ghép được sử dụng nhiều tươn đương với mệnh đề logic. Nội dung của các phát ngôn đều minh xác. Sự liên hệ giữa các vế trong câu và giữa các phátngôn với nhau bộc lộ những luận cứ khoa học ngặt nghèo. Vì vậy, độ dư thừa trong các phátngôn nói chung là ít, mà cũng hoàn toàn có thể nói là tối thiểu, so với các phát ngôn khác. – Văn phong khoa học thường sử dụng những cấu trúc câu khuyết chủ ngữ, hoặc câu có chủngữ không xác lập. Vd : ” Đánh giá một nền văn học cũng như nhìn nhận một trào lưu thẩm mỹ và nghệ thuật không hề căn cứvào số lượng mà phải địa thế căn cứ vào chất lượng. Vì nghệ thuật và thẩm mỹ chân chính không dung nạp nhữngcái thông thường và tầm thường ” ( Tạp chí văn học ) 15III. Phong cách thông tấn báo chí1. Khái niệmPhong cách thông tấn báo chí truyền thông được dùng trong nghành thông tin của xã hội về tổng thể nhữngvấn đề tin tức thời sự trên các lãnh vực chính trị, văn hóa truyền thống, xã hội, thể thao xảy ra trong đờisống ( Thông tấn : có nghĩa là tích lũy và chỉnh sửa và biên tập tin tức để phân phối cho các nơi. ) – Phong cách thông tấn báo chí truyền thông có các loại : văn bản phân phối tin tức, văn bản phản ánh côngluận và văn bản thông tin – quảng cáo. Phong cách thông tấn sống sót cả ba dạng : dạng nói ( kênhnói được dùng ở các đài phát thanh ) ; dạng hình và nói ( kênh nói và hình được dùng ở đàitruyền hình ) ; dạng viết ( kênh viết được dùng trên báo và tạp chí … ). 2. Chức năng và đặc trưng2. 1. Chức năngPhong cách thông tấn báo chí truyền thông có hai tính năng là thông tin và tác động ảnh hưởng. – Báo chí sinh ra trước hết là do nhu yếu thông tin. Qua báo chí truyền thông, người ta tiếp cận đượcnhanh chóng các yếu tố thời sự mà mình chăm sóc. Do đó, phong cách thông tấn trước tiênphải phân phối được tính năng này. – Báo chí còn đảm nhiệm một trách nhiệm to lớn khác là tác động ảnh hưởng đến dư luận làm cho ngườiđọc, người nghe, người xem hiểu được thực chất của thực sự để phân biệt cái đúng cái sai, cáithật, cái giả, cái nên ngợi ca, cái đáng phê phán để từ đó xu thế tâm lý và hành độngđúng. 2.2. Ðặc trưnga. Tính thời sựThông tin phải truyền đạt kịp thời, nhanh gọn. Chỉ có những thông tin mới lạ, cần thiếtmới mê hoặc người đọc, người nghe. Xã hội ngày càng tăng trưởng, nhu yếu trao đổi và tiếp nhậnthông tin của con người ngày càng lớn. Báo chí sẽ thoả mãn nhu yếu thông tin đó của conngười, nhưng đồng thời người ta yên cầu đấy phải là những thông tin kịp thời, nóng giãy. b. Tính chân thực chính xácNhững thông tin báo chí truyền thông cung ứng phải bảo vệ tính đúng mực, tính chân thực. Người làmbáo không được xuyên tạc, bóp méo hiện thực đời sống, không được lồng ghép thiên kiếnchủ quan một cách tùy tiện trái với thực sự. Thông tin về vấn đề hiện tượng kỳ lạ phải đơn cử ( Côngthức 6W ( what, where, when, who, why, which ) c. Tính chiến đấuBáo chí là công cụ đấu tranh chính trị của một nhà nước, một đảng phái, một tổ chức triển khai. Tất cảcông việc tích lũy và đưa tin đều phải ship hàng cho trách nhiệm chính trị đó. Tính chiến đấu làmột yếu tố không hề thiếu được trong quy trình tạo nên sự không thay đổi và tăng trưởng của xã hộitrên mặt trận chính trị tư tưởng. Ðấy chính là các cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới ; giữacái tân tiến và lỗi thời ; giữa tích cực và xấu đi … ” Văn hóa thẩm mỹ và nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy ” ( Hồ Chí Minh ) d. Tính mê hoặc : Tin tức của báo, đài cần phải được trình diễn và diễn đạt mê hoặc để khêu gợi hứng thú củangười đọc, người nghe. Tính mê hoặc được coi như là một trong những yếu tố quyết định hành động sựsinh tồn của một tờ báo, tạp chí hay các đài phát thanh, truyền hình. Ðiều này yên cầu ở haimặt : nội dung và hình thức. – Về nội dung : tin tức phải luôn luôn update mới, đề tài phong phú và đa dạng phong phú. – Về hình thức : Ngôn ngữ phải có sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, đặc biệt quan trọng là ở các tiêu đề. 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3. 1. Ngữ âmVới các đài phát thanh và truyền hình TW, yên cầu khi đưa tin phải phát âm chuẩnmực. Với các đài phát thanh và truyền hình của địa phương hoặc khu vực, hoàn toàn có thể sử dụng một16cách có chừng mực một số ít biến thể phát âm thuộc một phương ngôn nào đó, nơi mà đài phủsóng ( tuy nhiên không lạm dụng âm địa phương ). 3.2. Từ ngữ – Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Do vậy, từ ngữ được dùng trong phong cáchthông tấn trước hết phải là từ ngữ toàn dân, có tính thông dụng cao. Tuy nhiên, ở mỗi thể loạicó sự biểu lộ khác nhau : + Từ ngữ trong các bản tin thời sự hầu hết là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạtđộng của cỗ máy Nhà nước và các đoàn thể. Ví dụ : ” Theo phóng viên báo chí TTXVN tại Nhật Bản, trong ngày thao tác thứ hai của chuyến thămNhật Bản, chiến sỹ Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư T.Ư Ðảng, đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Na-ô-tô Can, tiếp Bộ trưởng Tài chính, Chủ tịchÐảng Cộng sản Nhật Bản, chỉ huy Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản ( JICA ) và Liên đoàncác tổ chức triển khai kinh tế tài chính Nhật Bản ( KEIDANREN ) ” ( Báo Nhân dân trực tuyến ). + Từ ngữ các mẫu quảng cáo thường là tên các hàng hoá, các từ chỉ địa điểm, nhândanh và các tính từ chỉ phẩm chất. Ví dụ : Với đội ngũ Kiến trúc sư trong nước và quốc tế nhiều kinh nghiệm tay nghề trong thiết kếvăn phòng, kiến thiết nội thất bên trong văn phòng, QualiDecor đến nay đã triển khai xong nhiều dự án Bất Động Sản thiếtkế văn phòng đạt chất lượng, nghệ thuật và thẩm mỹ tuyệt vời và hoàn hảo nhất nhất, mang lại được nhiều sự hài lòng chokhách hàng. Đến với chúng tôi, Quý khách hàng không chỉ hài lòng với chất lượng thiết kếvăn phòng, thiết kế văn phòng mà còn yên tâm với việc làm lắp ráp và dịch vụ bh, hậumãi sau đó. Công ty Kiến trúc nội thất bên trong QualiDecorTên thanh toán giao dịch quốc tế : QualiDecor Architect and Interior CompanyTên viết tắt : QUALIDECORĐịa chỉ : 53-55 Khuat Duy Tien, Thanh Xuan, HanoiVăn phòng : 043 – 5539523 – 0932327588W ebsite : www.noithatvanphong247.comwww.qualidecor.vn + Từ ngữ trong các bài phỏng vấn, phóng sự thì thường là những từ ngữ chuyên dùngtrong nghành được thực thi phỏng vấn hay phóng sự. Ví dụ : * Hội đồng văn hoá khi trình làng ông với phần thưởng Rockefeller III đã nhìn nhận vềbảo tàng do ông làm giám đốc là một trong những kho lưu trữ bảo tàng có ấn tượng nhất trong loại hìnhnày ở châu Á. Thưa ông, về phiïa chủ quan mình, chữ ấn tượng này nên hiểu như thế nào ? tiến sỹ Nguyễn Văn Huy : Có lẽ trước hết vì kho lưu trữ bảo tàng này ra mắt một cách bình đẳng 54 nền văn hoá của 54 dân tộc bản địa ở Nước Ta. Ðó là điều không phải ở đâu cũng làm được. Chủ thểcủa những nền văn hoá này được tôn trọng trong các cách ra mắt từng thành tố văn hoá. Bảo tàng đã phản ánh một cách chân thực lịch sử dân tộc, đời sống văn hoá và đời sống của các dântộc … ( Báo Tuổi trẻ CN ) – Từ ngữ dùng thường có sắc tố biểu cảm. Có khuynh hướng đi tìm cái mới trong ý nghĩa củatừ. Ðiều này thể hiện những năng lực tìm tòi, phát hiện những năng lượng tiềm tàng chứa đựng trongtừ hoặc trong các phối hợp mới lạ có tính năng động dễ đi vào lòng người. Ví dụ : Hội chứng cuộc chiến tranh vùng Vịnh, tội ác xuyên vương quốc, đại chiến chống bệnh tật đóinghèo, quả bom dân số, cuộc chiến tranh lạnh, xa lộ thông tin, bùng nổ thông tin, cái chết trắng, bên bờ vực phá sản, liên minh ma quỷ … 3.3. Cú pháp – Cấu trúc cú pháp thường lặp đi lặp lại 1 số ít kiểu nhất định. Trong đó, quảng cáo thườngsử dụng câu đơn ; bài đưa tin thường sử dụng nhiều câu ghép hoặc câu đơn có cấu trúc phứctạp ; bài phỏng vấn phóng sự thì tùy nghành nghề dịch vụ nó đi sâu mà cấu trúc cú pháp hoàn toàn có thể đơn thuần hayphức tạp, nhưng thường là hay sử dụng nhiều câu ghép và câu phức tạp. 17V í dụ : Theo Kyodo, trong cuộc họp ngay sau khi kết thúc Hội nghị thượng đỉnh G-8 ởOkinawa ngày 23-7, Tổng thống Nga Vlađimia Putin và Thủ tướng Nhật Bản Yoshiro Mori đãthoả thuận rằng ông Putin sẽ đi thăm Nhật Bản từ 3 đến 5-9 để có các cuộc hội đàm về kếhoạch kí kết một hiệp ước hoà bình song phương. Nga và Nhật đã thiết lập quan hệ ngoại giaovào năm 1956 nhưng chưa kí hiệp ước hoà bình vì còn sự không tương đồng về chủ quyền lãnh thổ quần đảo Kurin. ( Báo Tuổi trẻ ) – Thường theo những khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn nhất định. Ðưa tin cókhuôn mẫu và công thức hành văn riêng ; quảng cáo, phỏng vấn, phóng sự, … tuy khuôn mẫuvăn bản và công thức hành văn có khác nhau nhưng cũng đều có những lao lý chuẩn vềnhững phương diện đó. – Trong các bài phóng sự tìm hiểu, tiểu phẩm … những cấu trúc câu khẩu ngữ, câu trongphong cách văn chương như : câu hỏi, câu cảm thán, câu quy đổi tình thái, câu tỉnh lược, câu hòn đảo trật tự các thành phần cú pháp cũng được khai thác sử dụng nhằm mục đích thực thi chức năngriêng của mỗi thể loại. IV. Phong cách hành chính1. Khái niệm – Phong cách hành chính đuợc dùng trong hoạt động giải trí tiếp xúc thuộc nghành nghề dịch vụ hành chính. Ðây là hoạt động giải trí tiếp xúc giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác. Phong cách hành chính thường tồn tạidưới dạng văn bản viết. – Phong cách hành chính thường dụng trong những dạng văn bản : Hiến pháp, luật, điều lệ, nội quy, Bằng khen, văn bằng, giấy ghi nhận các loại, đơn từ, hợp đồng, hóa đơn, biênnhận, tờ trình … 2. Chức năng và đặc trưng2. 1. Chức năngPhong cách hành chính có hai tính năng : thông tin và sai khiến. Chức năng thông báothể hiện rõ ở sách vở hành chính thường thì ( văn bằng, chứng từ các loại, giấy khai sinh, hoá đơn, hợp đồng … ). Chức năng sai khiến thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản của cấp trên gởi cho cấp dưới, của nhà nước so với nhân dân, của tập thể với các cánhân ( nghị định, thông tư, thông tin, thông tư, thông tư, quyết định hành động … ). 2.2. Ðặc trưnga. Tính đúng mực – minh bạch về pháp lýVăn bản hành chính chỉ được cho phép một cách hiểu. Nếu hiểu không thống nhất sẽ dẫn đếnviệc thi hành các văn bản hành chính theo những cách khác nhau. Tính đúng chuẩn này đòi hỏitừ dấu chấm câu đến từ ngữ, câu văn và cấu trúc của văn bản. Nói cách khác, quan hệ giữa hìnhthức và nội dung miêu tả là quan hệ 1-1. Ðặc trưng này yên cầu người tạo lập văn bản khôngđược dùng các từ ngữ, các kiểu cấu trúc ngữ pháp mơ hồ. Vd : Quy chế thi phải chuẩn xác từng câu chữ, sử dụng dấu câub. Tính trang nghiêm – khách quanTính khách quan gắn với chuẩn mực lao lý nhằm mục đích để diễn đạt đặc thù xác nhận, khẳngđịnh của những tài liệu này. Văn bản hành chính thuộc loại sách vở có quan hệ đến thể chếquốc gia, của xã hội có tổ chức triển khai vì vậy sự diễn đạt ở đây phải luôn luôn biểu lộ tính nghiêmtúc. Các văn bản như : hiến pháp, luật, quyết định hành động, thông tư, … mang đặc thù khuôn phép caocho nên không gật đầu phong cách diễn đạt riêng của cá thể. Ngay cả những văn bản hànhchính mang tính cá thể cũng phải bảo vệ đặc trưng này. VD : Viết đơn khác với viết thưc. Tính khuôn mẫu của nhà nướcVăn bản hành chính được soạn thảo theo những khuôn mẫu nhất định do nhà nước pháp luật. Những khuôn mẫu này được gọi là thể thức văn bản hành chính. Thể thức đúng không nhữnglàm cho văn bản được sử dụng có hiệu suất cao trong hoạt động giải trí hiện hành của các cơ quan mà còn18làm cho văn bản có giá trị vững chắc về sau. Tính khuôn mẫu biểu lộ qua những pháp luật vềcấu trúc văn bản, dùng từ, hình thức trình diễn văn bản … VD : Cấu trúc văn bản hành chính : Quyết địnhd. Tính hiệu lực thực thi hiện hành thực thiVăn bản hành chính không phải nhằm mục đích mục tiêu bộc lộ tình cảm mà sử dụng vào mục đíchthực thi quyền lực tối cao. Vì vậy văn bản không dung nạp yếu tố biểu cảm. Người viết không phảinhân danh cá thể để bộc bạch tình cảm mà nhân danh nhà nước để phát hành chủ trương, nhân danh công dân để triển khai quyền công dân so với cơ quan nhà nước. Do vậy trong vănbản thường Open những cụm từ như : Căn cứ vào, nay quyết định hành động, nhu yếu thực thi, đềnghị, nhu yếu, mong được xử lý … 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3. 1. Ngữ âmKhi phát âm ở phong cách này phải hướng tới chuẩn mực ngữ âm, phát âm phải rõ ràng, đúng mực. Khác với các loại phong cách khác, khi sống sót ở dạng nói, phong cách hành chínhkhông phải là sự trình diễn, diễn đạt theo văn bản đã viết hoặc soạn đề cương mà là đọc lại. Nghĩa là chúng không chịu một sự đổi khác nào bên trong. Ngữ điệu đọc trọn vẹn bị phụthuộc vào cấu trúc của nội dung văn bản. 3.2. Từ ngữ – Những từ ngữ Open nhiều ở phong cách này là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạtđộng của cỗ máy nhà nước và các đoàn thể, còn được gọi là từ hành chính. Loại từ này tạo nênvẻ sang trọng và quý phái, tráng lệ, bảo vệ thể chế của sự diễn đạt hành chính. – Có khuynh hướng dùng những từ ngữ thật đúng mực đứng về mặt nội dung và những từngữ trung hoà hoặc những từ ngữ sang chảnh đứng về mặt sắc thái biểu cảm. Những từ ngữnày góp thêm phần biểu lộ đặc thù thể chế nghiêm chỉnh của các sách vở và văn kiện hành chính. – Từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ khá lớn. Ví dụ * Điều 1 : Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền lãnh thổ, thống nhất và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, gồm có đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. ( Trích hiến pháp nước CNXHCN Nước Ta ) 3.3. Cú pháp – Dùng câu tường thuật là đa phần, các kiểu câu cảm thán, nghi vấn không thích hợp vớiyêu cầu thông tin của phong cách này. – Câu văn hành chính không đồng ý sự mơ hồ. Tính thống nhất và ngặt nghèo của các vănbản hành chính không được cho phép sử dụng những câu trong đó quan hệ ngữ pháp giữa các thànhphần không rõ ràng khiến nội dung câu văn bị hiểu theo nhiều cách. – Câu văn hành chính không được cho phép sự phát minh sáng tạo về ngôn từ của cá thể, những yếu tốcảm xúc của cá thể. Do nhu yếu cao về sự thống nhất theo thể thức hành chính nên một sốvăn bản hành chính viết theo mẫu đã lao lý thống nhất. – Cú pháp của bất kể một quyết định hành động hành chính nào cũng chỉ được trình diễn trong một câu. V. Phong cách chính luận1. Khái niệm – Phong cách chính luận dùng trong nghành nghề dịch vụ chính trị xã hội. Người tiếp xúc bày tỏ chínhkiến, thể hiện công khai minh bạch quan điểm chính trị, tư tưởng của mình so với những yếu tố thời sựchính trị xã hội đương đại. – Phong cách chính luận thường sử dụng trong các dạng văn bản : Hịch, cáo, lời lôi kéo, tuyên ngôn, báo cáo giải trình chính trị, xã luận phản hồi trên báo chí truyền thông phát thanh truyền hình. 2. Chức năng và đặc trưng2. 1. Chức năng19 – Chức năng thông tin nhằm mục đích truyền đạt cho mọi người nhận thức đúng các yếu tố thời sựchính trị xã hội, công bố chủ trương đường lối chủ trương ( đây là điểm giao thoa với phongcách báo chí truyền thông ). – Chức năng ảnh hưởng tác động nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục, cổ vũ động viên mọi người hưởng ứng. Hai tính năng trên có mối quan hệ mật thiết ảnh hưởng tác động qua lại tác động ảnh hưởng nhau, thông tin đãbao hàm mục tiêu tác động ảnh hưởng, việc ảnh hưởng tác động có hiệu suất cao nhờ vào sự thông tin tường minh chânlý. Chính vì thực thi các công dụng này mà ta thấy phong cách chính luận có điểm gặp gỡvới phong cách thông tấn báo chí truyền thông, phong cách khoa học và cả phong cách văn chương. 2.2. Ðặc trưnga. Tính bình giá công khaiNgười nói, người viết khi nào cũng thể hiện công khai minh bạch một cách rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình đối vè những yếu tố chính trị xã hội. Ðây là đặc trưng khu biệt phong cáchchính luận với phong cách khoa học và phong cách văn chương. Nếu văn chương là bình giágián tiếp, khoa học là tránh sự bộc lộ những yếu tố cảm tính chủ quan thì chính luận bao giờcũng thể hiện trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một yếu tố thời sự của xã hội. Sự bìnhgiá này hoàn toàn có thể là của cá thể hoặc nhân danh một tổ chức triển khai, đoàn thể chính trị nào đó. b. Tính lập luận chặt chẽÐể bày tỏ chính kiến, lý giải, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giảiquyết những yếu tố thời sự nực nội của quốc gia, sự diễn đạt ở phong cách này yên cầu cótính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có địa thế căn cứ vững chãi, dựa trên cơsở những vấn đề, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên. Tính lập luận ngặt nghèo bộc lộ ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thứcngôn ngữ và mục tiêu diễn đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chưáđựng nhiều hàm ý thâm thúy, có sức chinh phục lòng người, có sức hấp dẫn mãnh liệt. Ví dụ : Nét tinh tế trong cách lập luận của tuyên ngôn độc lậpc. Tính truyền cảmĐể thuyết phục người nghe, đọc, phong cách chính luận có tính truyền cảm can đảm và mạnh mẽ, diễnđạt hùng hồn, sinh động có sức mê hoặc và đạt hiệu suất cao cao, thuyết phục cả bằng lí trí, cả bằngtình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa phong cách chính luận với khoahọc, thông tấn và khiến phong cách này gần với phong cách văn chương. Trong văn bản chínhluận, tất cả chúng ta thường phát hiện các giải pháp tu từ, những từ ngữ có đặc thù tu từ cao nhằmgây ấn tượng can đảm và mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa. 3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3. 1. Ngữ âmCó ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trongmít tinh, ngôn từ được xem là phương tiện đi lại bổ trợ để tăng thêm sức mê hoặc, hấp dẫn ngườinghe. 3.2. Từ ngữ – Ðặc điểm điển hình nổi bật nhất là sự xuất hiện của lớp từ chính trị, công cụ riêng của phong cáchchính luận. phong cách này yên cầu khi dùng từ chính trị phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quanđiểm và tình cảm cách mạng của mình. Ví dụ : ” Ai dám bảo cuộc Cách mạng tháng Tám của ta là cuộc thay máu chính quyền ? Ðảo chính là haibọn thống trị trong nước hất cẳng nhau. Bọn này quật đổ bọn kia để lập chính phủ nước nhà mới, nhưng cơ bản chính sách cũ vẫn để nguyên. Ðằng này nhân dân bị áp bức nổi dậy tự giải phónggiành chính quyền sở tại, sao gọi là thay máu chính quyền ? ” ( Trường Chinh ) – Từ ngữ yên cầu sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở phong cách chính luận lànhững yếu tố thời sự nực nội của xã hội do đó khi thiết yếu người ta phải dùng tổng thể cáclớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này. 20 – Khi cần bày tỏ sự nhìn nhận tình cảm của mình một cách can đảm và mạnh mẽ so với các yếu tố nêu ra, văn chính luận tinh lọc và sử dụng các đơn vị chức năng từ khẩu ngữ, chính bới đây là lớp từ giàu sắc thái ýnghĩa và sắc thái biểu cảm. Ví dụ : ” Ai nói mà không làm, ai chỉ nghị quyết suông, ai theo đuôi quần chúng, ai ỳ ra nhưxe bò lên dốc, ai nhút nhát như bị quân địch bắt mất hồn, ai không dám hi sinh việc nhà choviệc Ðảng, phải kíp sửa đổi mà tiến lên ” ( Trường Chinh ) 3.3. Cú pháp – Do phải triển khai tính năng thông tin, chứng tỏ và ảnh hưởng tác động nên phong cách chính luậndùng nhiều kiểu câu khác nhau : câu đơn, câu ghép, câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cảmthán. – Câu văn chính luận thường dài, có cấu trúc tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra được xác địnhchặt chẽ. – Ðể nhấn mạnh vấn đề ý tưởng sáng tạo, gây sự quan tâm ở người đọc, phong cách chính luận sử dụng nhiều lốinói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính liên tưởng và tương phản đểtăng cường độ tập trung chuyên sâu thông tin và hiệu suất cao bình giá, phán xét. Ví dụ : ” Chúng ta muốn hoà bình, tất cả chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng tất cả chúng ta càng nhânnhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. ” ( Hồ Chí Minh ) ” Ðổi mới là con đường duy nhất đúng đắn của Ðảng ta, của nhân dân ta, để vượt qua mọikhó khăn to lớn, đi đến không thay đổi và tăng trưởng. Ðổi mới tạo nên thế mới và sức lực lao động mới, nhưmuà xuân làm bật dậy sức sinh sôi huyền diệu của vạn vật thiên nhiên, đúng theo quy luật của sự pháttriển “. ( Báo Nhân dân ) VI. Phong cách văn chương1. Khái niệmPhong cách văn chương ( còn gọi là phong cách ngôn từ thẩm mỹ và nghệ thuật ) được dùng trong sángtác văn chương. Phong cách này là dạng sống sót toàn vẹn và sáng chói nhất của ngôn từ toàndân. Phong cách văn chương không có số lượng giới hạn về đối tượng người dùng tiếp xúc, khoảng trống và thờigian tiếp xúc. 2. Chức năng và đặc trưng2. 1. Chức nănga. Phong cách ngôn từ văn chương có ba tính năng : thông tin, tác động ảnh hưởng, thẩm mĩ. Việcthực hiện công dụng của phong cách văn chương không bằng con đường trực tiếp mà bằngcon đường gián tiếp trải qua hình tượng văn chương. Các phương tiện đi lại ngôn từ được nhàvăn vận dụng một cách phát minh sáng tạo để thiết kế xây dựng hình tượng. b. Khái niệm công dụng nghệ thuật và thẩm mỹ của ngôn từ văn chương hoàn toàn có thể phân biệt qua 2 mối quanhệ : – Qụan hệ giữa ngôn từ văn chương với hình tượng văn chương : Ngôn ngữ văn chương làchất liệu, công cụ để xây dựng hình hượng văn chương ( hình tượng nghệ thuật và thẩm mỹ ngôn từ ), ngônngữ mang tính tạo hình biểu cảmVd : Ôi những cánh đồng quê chảy máuDây thép gai đâm nát trời chiều ( Đất nước – Nguyễn Đình Thi ) Những từ ngữ, hình ảnh : đồng quê chảy máu, thép gai đâm nát trời chiều phác họa hìnhtượng quốc gia thân thương bị quân địch tàn phá diệt trừ ; khơi gợi lòng căm thù giặc thâm thúy. – Quan hệ giữa ngôn từ văn chương với fan hâm mộ : Ngôn ngữ văn chương luôn ảnh hưởng tác động vàođộc giả, nó không chỉ mang ý nghĩa thông tin mà còn gợi nên những rung cảm nghệ thuật và thẩm mỹ mãnhliệt trong tâm hồn fan hâm mộ khi đảm nhiệm văn chương. 2.2. Ðặc trưnga. Tính mạng lưới hệ thống cấu trúc21Tác phẩm văn chương là một cấu trúc, chỉnh thể nghệ thuật và thẩm mỹ toàn vẹn. Các thành tố nội dungtư tưởng, tình cảm, hình tượng và các thành tố ngôn từ diễn đạt chúng không những phụthuộc vào nhau mà còn nhờ vào vào mạng lưới hệ thống nói chung. Trong tác phẩm văn chương, có khi chỉ cần bỏ đi một từ hay thay bằng một từ khác là đủlàm hỏng cả một câu thơ, phá vỡ nhạc điệu của nó, xoá sạch mối quan hệ của nó với hoàncảnh xung quanh. Từ nghệ thuật và thẩm mỹ không sống đơn độc, tự nó, vì nó, từ nghệ thuật và thẩm mỹ đứng trongđội ngũ, nó góp thêm phần mình vào các từ đồng đội khác. Tính cấu trúc là điều kiện kèm theo của cái đẹp. Một yếu tố ngôn từ chỉ có được ý nghĩa thẩm mĩ khi nằm trong tác phẩm. Chính là trên cáinền văn bản tương thích mà từ ngữ hoàn toàn có thể biến hóa ý nghĩa : cũ kĩ hay mới mẻ và lạ mắt, êm ả dịu dàng hay thâmđộc, sang trọng và quý phái hay vui nhộn … Do vậy khi nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn học cần chú ý quan tâm đến tính hệthống, phải đặt các cụ thể, hình ảnh, từ ngữ … trong chỉnh thể tác phẩm để cắt nghĩa. VD : Chi tiết bỏ quên cái áo trên cành hoa sen trong bài ca dao xin áo, chi tiết cụ thể củi mội cànhkhô lạc mấy dòng trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận … b. Tính hình tượng – Ngôn ngữ văn chương được xem là công cụ cơ bản để thiết kế xây dựng hình tượng văn học. Khi khảo sát, nhìn nhận ngôn từ văn chương phải xem xét ngôn từ ở đây đã góp thêm phần xâydựng và biểu lộ hình tượng văn học như thế nào. Khi tiếp xúc ở phong cách khẩu ngữ, ngườita hoàn toàn có thể dùng những từ ngữ bóng bẩy, văn hoa, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm nhưng hiệuquả ở đây còn tuỳ thuộc vào người nói là ai, nói trong thực trạng nào và vì mục tiêu gì. Giaotiếp ở phong cách này, người phát ngôn có vai trò quyết định hành động ( VD : Miệng nhà quan có gang, có thép ; Vai mang túi bạc kè kè. Nói ấm nói ớ, người nghe ầm ầm ). Trong khi đó, ở phong cách văn chương, vị thế cao thấp, sang hèn của nhà văn nhà thơkhông đóng vai trò quyết định hành động nhiều. Tính hình tượng của ngôn từ văn chương bắt nguồn từchỗ đó là ngôn từ của một chủ thể tư tưởng thẩm mĩ xã hội có tầm khái quát nhất định. Chính vì vậy ngôn từ văn chương dễ đi vào lòng người, nó trở thành ngôn từ của muônngười. – Tính hình tượng trong phong cách văn chương bộc lộ ở chỗ ngôn từ ở đây có khả năngtruyền đạt sự hoạt động, động tác nội tại của hàng loạt quốc tế, cảnh vật, con người vào trong tácphẩm. Ngôn ngữ trong phong cách khẩu ngữ cũng có năng lực này nhưng nó không là điềubắt buộc. Trong văn chương, trái lại, đó là điều không hề thiếu. Ngôn ngữ văn chương phảilàm sống dậy các động tác, hoạt động đầy ý nghĩa của sự vật trong những thời gian nhất định. Bất kỳ một phương tiện đi lại từ ngữ nào trong một văn cảnh nhất định đều hoàn toàn có thể chuyển thành mộttừ ngữ nghệ thuật và thẩm mỹ, nếu có thêm một nét nghĩa bổ trợ nào đó. Vd : Hình tượng sóng trong thơ Xuân Quỳnhc. Tính cá thể hoá : Tính cá thể hoá được hiểu là dấu ấn phong cách tác giả trong tác phẩm văn chương. Dấu ấnphong cách tác giả là cái thuộc về đặc thù bản thể, thuộc về điều kiện kèm theo bắt buộc của ngôn ngữvăn chương. Sêkhôp nói : Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽkhông khi nào là nhà văn cả. Lối nói riêng mà Sêkhôp gọi chính là phong cách tác giả. Xét vềmặt ngôn từ, phong cách tác giả bộc lộ ở hai tín hiệu : – Khuynh hướng ưa thích và sở trường sử dụng những loại phương tiện đi lại ngôn từ nào đócủa tác giả ; – Sự phát minh sáng tạo ngôn từ của tác giả3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ3. 1. Ngữ âmTrong phong cách, những yếu tố ngữ âm như : âm, thanh, ngôn từ, tiết tấu, âm điệu rất quantrọng. Có thể nói, tổng thể những tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt đều được vận dụng một cáchnghệ thuật để phân phối nhu yếu thẩm mĩ về mặt ngữ âm của người đọc, người nghe. Hầu nhưmọi biến thể của ngữ âm tiếng Việt đều được khai thác. Vd : ” Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm22Heo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Lng mưa xa bờ ” ( Tây tiến – Quang Dũng ) “ Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín ” ( Thép Mới ) 2.2. Từ ngữ : Từ ngữ trong phong cách văn chương rất phong phú, gồm cả từ phổ thơng và từ địa phương, biệt ngữ ; từ tân tiến và từ lịch sử vẻ vang, từ cổ ; từ khiếm nhã và từ lịch sự và trang nhã. Từ trong hoạt động và sinh hoạt bìnhthường chiếm tỉ lệ cao, tuy nhiên vẫn Open đủ các lớp từ văn hố, kể cả thuật ngữ khoa học. Ngun nhân là tác phẩm văn chương có công dụng phản ánh mọi góc nhìn của cuộc sốngmn màu mn vẻ. Nhờ sử dụng tồn bộ các phương tiện đi lại bộc lộ mà phong cách vănchương ln ln quy đổi, dịch chuyển, ln ln phong phú mới mẻ và lạ mắt trong cách phơ diễn. Khảo sát nét độc lạ, rực rỡ khi sử dụng từ ngữ trong sáng tác văn chương của nhà vănchính là tìm hiểu và khám phá tín hiệu phong cách nghệ thuật và thẩm mỹ của nhà văn đó. Nguyễn Đức Đạt : ” Văn như con người của nó. Văn thâm hậu thì con người trầm mà tĩnh, vănơn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa, văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản, văn hùng hồn thì con người của nó cường mà nhanh, văn un sâu thì con người của nó thuầnt mà đúng đắn ” 2.3. Cú pháp : Phong cách văn chương sử dụng phần đông toàn bộ các kiểu cấu trúc câu. Song cấu trúc câu đơnvẫn chiếm tỉ lệ cao. Phong cách văn chương thường sử dụng các loại câu lan rộng ra thành phần định ngữ, trạngngữ và các loại cấu trúc tu từ như hòn đảo ngữ, sóng đơi cú pháp, câu quy đổi tình thái …    23C hương III. ĐẶC ĐIỂM TU TỪ CỦA CÁC LOẠI ĐƠN VỊ TRONG TIẾNG VIỆT—————KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM TU TỪ CỦA TỪ NGỮ TIẾNG VIỆTKhảo sát đặc thù tu từ của từ ngữ tiếng Việt theo 2 hướng sau : – Hướng thứ nhất : Khảo sát đặc thù tu từ của những tập hợp từ ngữ được phân loại theobình diện phong cách ( lấy phong cách làm điểm tựa để phân loại và miêu tả đặc thù tu từ củatừ ngữ ) – Hướng thứ hai : Khảo sát đặc thù tu từ của những tập hợp từ ngữ được phân loại theo quanđiểm ngữ pháp học, từ vựng học. I. Khảo sát đặc thù tu từ của những lớp từ ngữ được phân loại theo bình diện phongcách1. Từ ngữ đa phong cáchTập hợp những từ ngữ được sử dụng chung cho toàn bộ các loại phong cách. từ ngữ đa phongcách được phân bổ trong khoanh vùng phạm vi biểu lộ sự vật, đặc thù, hoạt động giải trí trạng thái quan hệ1. 1. Biểu thị sự vậtHiện tượng tự nhiên ( trời, đất, trăng, sao … ) ; Động, thực vật : ( Gà, chó, cỏ, cây … ) ; Đồ vật ( bàn, ghế, xe cộ … ) ; Đơn vị hành chính : ( xã, huyện … ) 1.2. Biểu thị tính chấtMàu sắc ( trắng, đen, xanh ) ; mùi vị ( mặn, ngọt, chua, cay ) ; kích cỡ ( dài, ngắn nông, sâu .. ) ; Hình dáng ( vuông, tròn ) ; Quy mô ( to, nhỏ, béo, gầy ) ; nhìn nhận ( tốt, xấu, già, trẻ ) 1.3. Biểu thị hoạt độngVận động ( đi, chạy, bay ) ; sống sót ( sống, chết, mất, còn ) ; hành vi ( làm, đánh, đóng. mở ) ; hoạt động và sinh hoạt tình cảm ( nói, cười, khóa, vui, buồn ) 1.4. Biểu thị trạng tháiThời gian ( đã, đang, sẽ ) ; đồng thời ( cũng, vẫn, cứ, còn ) ; mức độ ( rất, hơi, lắm ) 1.5. Biểu thị quan hệVà, với, nhưng …. 1.6. Các quán ngữ : Tóm lại, ngoài những, thật ra, sau cuối … => Từ ngữ đa phong cách có 3 đặc thù : – Dùng trong mọi phong cách tiếng việt – Được mọi người trong xã hội quen biết và sử dụng – Được dụng trong quá trình lúc bấy giờ. 2. Từ ngữ đơn phong cáchTừ ngữ sử dụng thích hợp với một loại phong cách ngôn từ nào đó2. 1. Từ khẩu ngữ tiếng Việt – Từ khẩu ngữ được dùng đa phần cho phong cách tự nhiên ship hàng cho nhu yếu nói năngsinh hoạt hàng ngày. – Đặc trưng điển hình nổi bật nhất của từ khẩu ngữ là tính miêu tả cụ thể và đơn cử và luôn gắn liềnvới cách nhìn nhận, thái độ nhìn nhận, tình cảm của người nói. từ khẩu ngữ giàu sắc thái biểucảm. 24N ỏ mồm, dẻo miệngĂn đònBạo phổiĐàn ông đàn angĂn cháo đái bátĐâm thọcBa cọc ba đồngNói nhiềuBị đánhLiều, không kiêng nểNữ giớiVô ơnGây mất đoàn kếtThu nhập thấp – Một số kiểu cấu trúc khẩu ngữ : + Nguyên tắc cấu trúc chung của từ khẩu ngữ là thêm những yếu tố vào đơn vị chức năng từ đa phongcách để tạo nên đơn vị chức năng mới – Từ khẩu ngữVd : Ngon + ơ = ngon ơ ; mốc + thếch = mốc thếch ; cân + kéo = cân kéo ; lo + méo mặt = loméo mặt .. + Bớt yếu tố ở đơn vị chức năng nguyên là từ đa phong cáchVd : Phê bình – phê, nhân khẩu – khẩu + Biển âm, biến nghĩa của đơn vị chức năng nguyên là từ đa phong cáchVd : Vẫn – vưỡn ; tất – tuốt ; Nện ( đất, đá ) – nện ( cho một trận ) ; bôi ( phấn son ) – bôi ( việc ) – Từ khẩu ngữ rất thiết yếu cho nhu yếu nói năng thân thiện hàng ngày tạo nên sắc thái thânmật, bộc lộ thái độ tình cảm cuả người nói. Từ khẩu ngữ là công cụ lợi hại để nhà văn miêutả tái tạo đời sống, khắc họa tính cách nhân vậtVd ; ” Lý Cựu bưng bát rượu kề gần môi và gật gật gù gù : Đây qua cầu rồi, cứ việc chén cho đẫy. Thằng Mới đâu ? ông bảo mày lấy thêm rượu làmsao từ nãy đến giờ chưa thấy ? Đừng láo, ông thì chẻ xác mày ra ” ( Ngô Tất Tố ) 2.2. Từ ngữ khoa học – Các ngành khoa học tự nhiên và xã hội ngoài việc sử dùng các từ ngữ đa phong cách làmcông cụ diễn đạt còn sử dụng một số ít lớp từ ngữ riêng để bộc lộ khái niệm khoa học ( thuậtngữ khoa học ) Vd : hàm số, đạo hàm, tích phân ( toán học ) ; sản phẩm & hàng hóa, lãi suất vay, giá trị thặng dư ( kinh tế tài chính học ) – Từ ngữ khoa học là công cụ riêng của văn bản khoa học, mang tính đơn nghĩa, không hàmchứa sắc thái biểu cảm. 2.3. Từ ngữ chính trị – Những lớp từ ngữ thường được sử dụng trong văn bản chính luận, báo chí truyền thông nhằm mục đích thực hiệnchức năng thông tin và tác động ảnh hưởng. Từ ngữ chính trị được phân bổ trong các khoanh vùng phạm vi sau : + Nói về hoạt động và sinh hoạt đoàn thể : Hội nghị, luận bàn, sơ kết, tổng kết, tham luận … + Nói về các những tầng lớp xã hội, thương hiệu xã hội : Công nhân, nhân sĩ yêu nước, tri thức, chiến sĩ thi đua, anh hùng lao động. + Phong trào tổ chức triển khai chính trị : Đảng, cánh tả, các nước không link, ba dòng thác cáchmạng .. + Nói về hệ ý thức tư tưởng, đạo đức : Chủ nghĩa quốc tế vô sản, ý thức làm chủ tập thể, đạo đức cách mạng … – Từ ngữ chính trị mang màu sắc phong cách chính luận góp thêm phần tuyên truyền chính trị cóhiệu quả cao ; mang sắc thái biểu cảm trung hòa. 2.4. Từ ngữ hành chính : – Những lớp từ ngữ hành chính mang công dụng thông tin có tính pháp chế của phong cáchhành chính, những thể thức nghiêm chỉnh của hoạt động giải trí hành chính. – Từ ngữ hành chính tiếng Việt gồm có : + Tên các đơn vị chức năng tổ chức triển khai từ cơ sở đến TW, tên các chức vụ của tổ chức triển khai đó : Ủy bannhân dân tỉnh, QH, Bộ giáo dục và đào tạo và giảng dạy ; Bộ trưởng, giám đốc, phó giáo sư … + Tên gọi các văn bản hành chính : hiến pháp, luật giáo dục, thông tư, nghị quyết, thông tưliên bộ … 25