Huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT được dùng để điều trị cho các bệnh nhân bị bệnh uốn ván (khi đã có triệu chứng) và dự phòng uốn ván trong các trường hợp bị các vết thương hay súc vật cắn. Show Huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT là huyết thanh có nguồn gốc từ ngựa, do viện vắc xin và sinh phẩm y tế Nha Trang sản xuất. Và được dùng tại các phòng tiêm vắc xin dịch vụ hoặc các trạm y tế trong cả nước. Đặc điểm của bệnh uốn ván là gì?Uốn ván là bệnh cấp tính, có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván có tên Clostridium tetani gây ra. Trong điều kiện yếm khí, trực khuẩn phát triển tại vết thương, sau đó đưa ngoại độc tố vào máu và tấn công bản vận động thần kinh - cơ khiến cho người bệnh bị co cứng cơ đồng thời xuất hiện các cơn co giật trên nền cứng đó. Tùy thuộc vào mức độ nhiễm độc, vết thương ở đâu, độ rộng vết thương, điều kiện yếm khí tại vết thương thì biểu hiện triệu chứng lâm sàng có thể là khu trú hoặc uốn ván toàn thể. Thời gian ủ bệnh là 4-21 ngày, trung bình khoảng 7-10 ngày. Người bệnh dễ tử vong do suy hô hấp, ngừng tim và rối loạn thần kinh thực vật. Điều kiện hồi sức cấp cứu, điều trị sớm hay muộn sẽ quyết định đến tỷ lệ tử vong. Thông thường, tỷ lệ chết cao, chiếm 10-80%. Người bệnh được xử trí bằng cách mở rộng vết thương, loại bỏ điều kiện yếm khí, dùng kháng sinh diệt vi khuẩn kết hợp liệu pháp huyết thanh để chống co giật và giúp hồi sức tốt. Thông tin tóm tắt huyết thanh kháng uốn ván SAT
Thành phần: Trong một ống huyết thanh SAT gồm có:
Quy cách đóng gói:
Chỉ định:
Cách dùng – Liều dùng: huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT Dự phòng sau khi bị các vết thương:
Huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT điều trị uốn ván:
Chống chỉ định của huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT
Thận trọng khi sử dụng huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT
Tác dụng không mong muốn khi sử dụng huyết thanh kháng độc tố uốn ván SAT Những người có cơ địa dị ứng, người dùng huyết thanh nhiều lần có thể có các tác dụng không mong muốn sau khi tiêm SAT như:
Tương tác thuốc:
Bảo quản:
Thu Hà
Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết.
Nên làm test quá mẫn trước khi tiêm kháng độc tố, các sản phẩm có nguồn gốc động vật hoặc thuốc (penicillin) cho những bệnh nhân có phản ứng nặng với các chất này trong quá khứ. Nếu như test được mô tả là âm tính thì không cần phải giải mẫn cảm và liều đầy đủ có thể được dùng. Nếu như test dương tính thì cần thay thuốc. Nếu như không thể thay thế được thì cần phải giải mẫn cảm. Test trong da với trường hợp quá mẫnPenicillin là một loại thuốc thường dùng như là một chỉ định đối với test mẫn cảm và giải mẫn cảm. Test da đòi hỏi 2 loại chế phẩm: PPL (Penicilloyl - polylysin) và hỗn hợp các thành phần quyết định. Một số điểm cần nhấn mạnh trong việc thực hiện và giải thích các test này. Bất cứ khi nào có thể được, nên sử dụng cả 2 loại PPL và hỗn hợp các thành phần quyết định, vì có 85% phản ứng test da dương tính với PPL nhưng chỉ có 15% phản ứng với hỗn hợp các chất quyết định. Thêm vào đó, nếu penicillin G được sử dụng thay thế hỗn hợp các chất quyết định thì một số bệnh nhân dị ứng sẽ bị bỏ sót. Khoảng 25% số người có phản ứng với hỗn hợp chất quyết định có thể không phản ứng với penicillin G và vì thế bệnh nhân này vẫn có thể dị ứng nặng hoặc phản ứng nhanh hơn với penicillin. Test da được thực hiện với mỗi loại tại các vị trí khác nhau bằng cách nhỏ một giọt nhỏ dịch trên da và dùng đầu kim vạch nhẹ trên da. Nếu như không có phản ứng trong vòng 10 phút thì có thể tiêm 0,01 - 0,02 ml trong da, làm nổi lên một cục nhỏ. Nếu xuất hiện cục có đường kính > 5 mm thì coi là test dương tính và chỉ định giải mẫn cảm. Nếu test âm tính, thuốc có thể dùng được vởi các lưu ý được kể dưới đây. Thậm chí nếu test âm tính, thì khoảng 1% số bệnh nhân sẽ có phân ứng ngay lập tức hoặc phản ứng nhanh hơn. Vì vậy thuốc có thể dùng với độ an toàn tương đối nhưng cần phải theo dõi các lưu ý kể dưới đây. Giải mẫn cảmLưu ý Quá trình giải mẫn cảm không phải là không có hại, người ta đã thấy có những trường hợp tử vong do phản vệ. Nếu nghi ngờ quá mẫn, có thể khuyên sử dụng một loại thuốc không liên quan về mặt cấu trúc thay thế và giải mẫn cảm cho những trường hợp mà điều trị không thể trì hoãn được và không có thuốc thay thế khác. Thuốc kháng histamin (25 - 50 mg hydroxyzin hoặc diphenhydramin tiêm bắp hoặc uống) nên dùng trước khi giải mẫn cảm làm giảm nhẹ bất kỳ phản ứng nào xảy ra. Có thể phải chuẩn bị các dụng cụ đường thở. Xử trí giải mẫn cảm ở đơn vị điều trị tích cực, là nơi có thể thực hiện theo dõi tim và đặt nội khí quản. Epinephrin: dung dịch 1 ml 0,1%, nên sẵn sàng để có thể dùng ngay lập tức. Phương pháp giải mẫn cảm Một số phương pháp giải mẫn cảm đã được mô tả với penicillin, bao gồm sử dụng cả hai chế phẩm đường uống và tiêm tĩnh mạch. Tất cả các phương pháp đều bắt đầu với liều rất nhỏ và tăng liều từ từ cho đến khi đạt được liều điều trị. Đối với penicillin, một đơn vị thuốc được tiêm tĩnh mạch và quan sát bệnh nhân trong 10 - 15 phút. Nếu không có phản ứng, một số lời khuyên là dùng liều gấp đôi, trong khi một số khác lại khuyên tăng liều dùng lên gấp 10 lần cứ sau 10 - 15 phút cho tới 2 triệu đơn vị, khi ấy sẽ dùng nốt phần còn lại của liều mong muốn. Có những lời khuyên dùng test da và giải mẫn cảm với cả các chế phẩm khác (kháng độc tố botulinum, kháng độc tố bạch hầu ...), có thể tham khảo lời chi dẫn trên bao bì của nhà sản xuất. Điều trị những trường hợp bị phản ứngNhững phản ứng ở mức độ nhẹ Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết. Nếu việc giải mẫn là bắt buộc, cần tiến hành chậm và việc tăng liều thuốc cần phải từ từ hơn. Những phản ứng ở mức độ nặng Nếu co thắt phế quản xẩy ra thì nên tiêm dưới da 0,3 - 0,5ml epinephrin mỗi 10 - 20 phút. Những can thiệp có thể áp dụng tiếp theo nếu các triệu chứng vẫn còn là: hít metaproterenol (0,3 ml dung dịch 5% trong 2,5 ml dung dịch muối sinh lý), tiêm tĩnh mạch aminophyllin (liều tân công 6mg/kg, sau 30 phút thì duy trì với liều 0,3 - 0,9 ml/kg/giờ) hoặc dùng corticosteroid (250mg hydrocortison hoặc 50mg methylpređnisolon tiêm tĩnh mạch mỗi 6 giờ với 2 hoặc 4 liều). Nếu có hạ huyết áp thì cần truyền dịch (dung dịch muối sinh lý hoặc dịch keo), dùng epinephrin (1ml dung dịch pha loãng 0,1% trong 500ml DgW tiêm tĩnh mạch với tốc độ 0,5 - 5µg/phút) vá kháng histamin (25 - 50mg hydroxyzin hoặc diphenhydramin, tiêm bắp hoặc uống sau mỗi 6 - 8 giờ thì cần thiết). Phản ứng bì, biểu hiện như mày đay hoặc phù mạch, đáp ứng với tiêm dưới da epinephrin, và kháng histamin với liều bắt đầu phải gấp 4 lần. |