Mục lục Show
Bối cảnhSửa đổiThành lập quan hệ giao thươngSửa đổiQuang cảnh Quảng Châu với các tàu buôn của Công ty Đông Ấn Hà Lan, khoảng năm 1665 Giao thương hàng hải trực tiếp giữa châu Âu và Trung Quốc bắt đầu từ năm 1557 khi người Bồ Đào Nha thuê một tiền đồn từ nhà Minh tại Ma Cao. Các quốc gia châu Âu khác đã sớm làm theo Bồ Đào Nha, chen chân vào mạng lưới thương mại hàng hải châu Á hiện có để cạnh tranh với các thương nhân Ả Rập, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản trong thương mại nội khối.[14] Sau cuộc chinh phạt Philippines của Tây Ban Nha, việc trao đổi hàng hóa giữa Trung Quốc và châu Âu đã tăng tốc đáng kể. Từ năm 1565 trở đi, Manila Galleons mang bạc vào mạng lưới thương mại châu Á từ các mỏ ở Nam Mỹ.[15] Trung Quốc là tiêu điểm của kim loại quý, vì chính phủ đế quốc bắt buộc rằng hàng hóa Trung Quốc chỉ có thể được xuất khẩu để đổi lấy vàng thỏi.[16][17] Các tàu của Anh bắt đầu xuất hiện lẻ tẻ quanh bờ biển Trung Quốc từ năm 1635 trở đi.[18] Không thiết lập quan hệ chính thức thông qua hệ thống cống nạp của Trung Quốc, theo đó hầu hết các quốc gia châu Á có thể trao đổi với Trung Quốc, thương nhân người Anh chỉ được phép buôn bán tại các cảng Chu San, Hạ Môn và Quảng Châu.[19] Thương mại chính thức của Anh được thực hiện thông qua sự bảo trợ của Công ty Đông Ấn Anh, lập ra một hiến chương Hoàng gia về thương mại tại vùng Viễn Đông. Công ty Đông Ấn dần dần thống trị thương mại Trung-Âu tại vị trí của nó ở Ấn Độ và do sức mạnh của Hải quân Hoàng gia.[20] Toàn cảnh khu Mười ba Nhà máy tại Quảng Châu Thương mại châu Âu được hưởng lợi sau khi triều đại nhà Thanh mới trỗi dậy nới lỏng các hạn chế thương mại hàng hải trong thập niên 1680. Đài Loan nằm dưới sự kiểm soát của nhà Thanh vào năm 1683 và những lời diễn văn liên quan đến tình trạng cống tế của người châu Âu bị dập tắt.[19] Quảng Châu (tên là Quảng Châu theo người châu Âu) trở thành cảng ưu tiên cho ngoại thương. Các tàu bè châu Âu đã cố gắng ghé qua các cảng khác, nhưng những địa điểm đó không có vị trí đắc địa như của Quảng Châu nằm ở cửa sông Châu Giang, và những nơi này cũng không có kinh nghiệm lâu dài trong việc cân bằng nhu cầu của Bắc Kinh với các thương nhân Trung Quốc và nước ngoài.[21] Từ năm 1700 trở đi, Quảng Châu là trung tâm thương mại hàng hải chính của Trung Quốc, và thị trường này dần dần được chính quyền nhà Thanh đưa vào "Hệ thống Quảng Châu".[21] Từ khi thành lập hệ thống vào năm 1757, giao dịch ở Trung Quốc cực kỳ sinh lợi cho các thương nhân châu Âu và Trung Quốc vì hàng hóa như trà, sứ và lụa được định giá đủ cao ở châu Âu rất đáng công bỏ ra của họ tới châu Âu. Hệ thống này được điều tiết bởi chính phủ nhà Thanh. Thương nhân nước ngoài chỉ được phép kinh doanh thông qua một nhóm thương nhân Trung Quốc gọi là Công hành và không được phép học tiếng Trung Quốc. Người nước ngoài chỉ có thể sống ở một trong mười ba nhà máy và không được phép vào hoặc buôn bán ở bất kỳ khu vực nào khác của Trung Quốc. Chỉ các quan chức chính phủ cấp thấp mới có thể bị xử lý, và tòa án đế quốc không thể được vận động vì bất kỳ lý do gì ngoại trừ các cơ quan ngoại giao chính thức.[22] Các đạo luật triều đình nhằm duy trì hệ thống được gọi chung là Pháp lệnh man rợ phòng ngừa (防範外夷規條, Hán Việt là phòng phạm ngoại di quy điều).[23] Công hành là thế lực mạnh trong Thương mại Trung Quốc Cũ, vì họ được giao nhiệm vụ thẩm định giá trị của các sản phẩm nước ngoài, mua hoặc từ chối hàng nhập khẩu nói trên và buộc phải bán hàng xuất khẩu của Trung Quốc với giá phù hợp.[24] Công hành được tạo thành từ giữa (tùy thuộc vào chính trị của Quảng Châu) 6 đến 20 gia đình thương gia. Hầu hết các nhà buôn mà những gia đình này cai trị đã được thành lập bởi các quan lại cấp thấp, nhưng cũng có một số thuộc gốc Quảng Đông hoặc Hán.[25] Một chức năng quan trọng khác của công hành là trái phiếu truyền thống được ký giữa một thành viên công hành và một thương gia nước ngoài. Trái phiếu này tuyên bố rằng thành viên công hành tiếp nhận chịu trách nhiệm về hành vi và hàng hóa của thương gia nước ngoài khi ở Trung Quốc.[26] Ngoài việc giao dịch với công hành, các thương nhân châu Âu được yêu cầu phải trả lệ phí hải quan, thuế đo lường, cung cấp cống phẩm và thuê hoa tiêu.[26] Bất chấp những hạn chế này, lụa và sứ vẫn tiếp tục thúc đẩy thương mại vì sự phổ biến của chúng ở châu Âu và nhu cầu vô độ đối với trà Trung Quốc tồn tại ở Anh. Từ giữa thế kỷ 17 trở đi, khoảng 28 triệu kg bạc đã được Trung Quốc tiếp nhận, chủ yếu từ các cường quốc châu Âu, để đổi lấy các sản phẩm làm từ Trung Quốc.[27] Thâm hụt thương mại của châu ÂuSửa đổiMột giao dịch nhanh chóng giữa Trung Quốc và các cường quốc châu Âu tiếp tục trong hơn một thế kỷ. Trong khi giao dịch này có lợi hơn cho Trung Quốc và dẫn đến việc các quốc gia châu Âu duy trì sự thâm hụt thương mại lớn, nhu cầu đối với hàng hóa Trung Quốc vẫn tiếp tục thúc đẩy giao thương. Ngoài ra, việc thuộc địa hóa và chinh phục châu Mỹ đã khiến các quốc gia châu Âu (cụ thể là Tây Ban Nha, Anh và Pháp) tiếp cận được nguồn cung bạc giá rẻ, khiến cho các nền kinh tế châu Âu vẫn tương đối ổn định mặc cho sự bất đối xứng của giao thương với Trung Quốc. Bạc này cũng được vận chuyển trực tiếp qua Thái Bình Dương đến Trung Quốc, đặc biệt là qua Philippines do Tây Ban Nha kiểm soát. Trái ngược hoàn toàn với tình hình châu Âu, nhà Thanh Trung Quốc duy trì thặng dư thương mại. Bạc nước ngoài tràn vào Trung Quốc để đổi lấy hàng hóa Trung Quốc, mở rộng nền kinh tế Trung Quốc nhưng cũng gây ra lạm phát và hình thành sự phụ thuộc của Trung Quốc vào bạc châu Âu. Sự mở rộng kinh tế liên tục của các nền kinh tế châu Âu trong thế kỷ 17 và 18 dần dần làm tăng nhu cầu của châu Âu đối với kim loại quý, vốn được sử dụng để đúc tiền mới; nhu cầu ngày càng tăng đối với tiền tệ cứng vẫn được lưu hành ở châu Âu đã làm giảm nguồn cung vàng thỏi có sẵn cho thương mại ở Trung Quốc, làm tăng chi phí và dẫn đến cạnh tranh giữa các thương nhân ở châu Âu và thương nhân châu Âu giao dịch với Trung Quốc. Lực lượng thị trường này dẫn đến thâm hụt thương mại kinh niên cho các chính phủ châu Âu, những người buộc phải mạo hiểm thiếu hụt bạc của nền kinh tế trong nước để cung cấp cho nhu cầu của các thương nhân ở châu Á (những doanh nghiệp tư nhân vẫn kiếm được lợi nhuận bằng cách bán hàng hóa có giá trị của Trung Quốc cho người tiêu dùng Châu Âu). Hiệu ứng dần dần này đã bị làm trầm trọng thêm bởi một loạt các cuộc chiến tranh thuộc địa quy mô lớn giữa Anh và Tây Ban Nha vào giữa thế kỷ 18; những xung đột này đã làm xoay đảo thị trường bạc quốc tế và cuối cùng dẫn đến sự độc lập của các quốc gia mới hùng mạnh, cụ thể là Hoa Kỳ và Mexico. Không có bạc giá rẻ từ các thuộc địa để duy trì thương mại của họ, các thương nhân châu Âu buôn bán với Trung Quốc bắt đầu lấy bạc trực tiếp ra khỏi lưu thông tại các nền kinh tế vốn đã suy yếu của châu Âu để thanh toán hàng hóa tại Trung Quốc. Điều này khiến các chính phủ tức giận, những người nhìn thấy nền kinh tế của họ đang bị thu hẹp do đó, và thúc đẩy rất nhiều sự thù địch đối với người Trung Quốc vì sự hạn chế của họ đối với thương mại châu Âu. Nền kinh tế Trung Quốc không bị ảnh hưởng bởi sự biến động của giá bạc, vì Trung Quốc đã có thể nhập khẩu bạc của Nhật Bản để ổn định nguồn cung tiền.[ Hàng hóa châu Âu vẫn có nhu cầu thấp ở Trung Quốc, đảm bảo thặng dư thương mại lâu dài với các quốc gia châu Âu tiếp tục. Bất chấp những căng thẳng này, thương mại giữa Trung Quốc và châu Âu đã tăng khoảng 4% mỗi năm trong những năm trước khi thuốc phiện được buôn bán. Hai người Trung Quốc nghiện thuốc phiện Anh quốc nhập khẩu từ Trung Quốc các hàng len, thiếc, đồng, pha lê; cùng các hàng vải đến từ Ấn Ðộ. Trung Quốc xuất khẩu qua thương gia Anh các hàng trà, tơ lụa, điều, vải bố, đồ sứ. Lúc đầu mỗi năm Trung Quốc xuất khẩu trà khoảng 30 vạn cân, cuối thế kỷ thứ 18 lên đến 1.800 vạn cân, đến thế kỷ thứ 19 đạt 2.000 vạn cân; chiếm trên 90% hàng xuất khẩu. Trong một xã hội nông nghiệp tự túc như Trung Quốc thời đó, hàng của nước Anh không bán được; nên thương gia Anh phải dùng bạc nén [ngân lượng] để mua trà, cứ 100 cân gíá 19 lượng. Số bạc nén thương gia Anh bán hàng tại Trung Quốc, chỉ bằng 1/10 số cần mua. Bạc châu Âu đổ vào Trung Quốc khi các chế độ Quảng Châu (nhất cảng thông thương), thiết lập vào giữa thế kỷ 17, giới hạn thương mại đường biển đến Quảng Châu và với thương nhân Trung Hoa của Mười ba nhà máy. Công ty Đông Ấn Anh đã có quyền độc quyền phù hợp với thương mại của Anh. Lúc này tại Âu châu chủ nghĩa trọng thương thịnh hành, quý trọng hiện kim, người Anh cảm thấy việc buôn bán tại Trung Quốc tổn thất cho quốc gia rất nhiều; nên khi phát hiện thuốc phiện là mặt hàng dễ bán, bèn chú tâm buôn thứ hàng này. Công ty Đông Ấn Anh quốc bắt đầu bán đấu giá cây thuốc phiện được trồng trên các đồn điền của họ ở Ấn Độ cho các thương nhân nước ngoài độc lập để đổi lấy bạc. Buôn bán thuốc phiện vào Trung QuốcSửa đổiThuốc phiện như một thành phần dược liệu đã được ghi nhận trong các văn bản Trung Quốc từ thời nhà Đường, nhưng việc sử dụng thuốc phiện gây nghiện đã bị hạn chế. Cũng như Ấn Độ, thuốc phiện (sau đó bị giới hạn bởi khoảng cách với bột khô, thường được uống với trà hoặc nước) đã được các thương nhân Ả Rập giới thiệu đến Trung Quốc và Đông Nam Á.[32] Nhà Minh đã cấm thuốc lá đo họ coi nó là thứ hàng hóa suy đồi vào năm 1640 và thuốc phiện được coi là một vấn đề tương tự. Những hạn chế đầu tiên đối với thuốc phiện đã được nhà Thanh thông qua vào năm 1729 khi Madak (một chất làm từ thuốc phiện pha trộn với thuốc lá) bị cấm.[7] Vào thời điểm đó, việc sản xuất Madak đã sử dụng hết phần lớn thuốc phiện được nhập khẩu vào Trung Quốc, vì thuốc phiện nguyên chất rất khó bảo quản. Tiêu thụ thuốc phiện tại Java tăng vào thế kỷ 18, và sau Chiến tranh Napoléon dẫn đến việc người Anh chiếm đóng Java, các thương nhân người Anh đã trở thành những người buôn bán thuốc phiện chính.[33] Người Anh nhận ra rằng họ có thể giảm thâm hụt thương mại với các nhà máy Trung Quốc bằng cách buôn bán thuốc phiện ma túy, và vì những nỗ lực như vậy đã được thực hiện để sản xuất thêm thuốc phiện ở các thuộc địa Ấn Độ. Doanh số bán thuốc phiện Ấn Độ hạn chế của Anh bắt đầu vào năm 1781, với việc xuất khẩu sang Trung Quốc tăng lên dần khi Công ty Đông Ấn đang củng cố quyền kiểm soát Ấn Độ.[16][30] Thuốc phiện của Anh được sản xuất ở vùng đồng bằng sông Mã và sông Hằng. Thay vì tự phát triển ngành công nghiệp thuốc phiện Ấn Độ, người Anh đã có thể kế thừa một ngành công nghiệp thuốc phiện hiện có từ Đế chế Mughal đang suy tàn, có hàng thế kỷ thu được lợi nhuận bằng cách bán thuốc phiện chưa tinh chế ngay trong đế chế. Tuy nhiên, không giống như người Mughal, người Anh coi thuốc phiện là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị.[34] Bản thân Công ty Đông Ấn không sản xuất hay vận chuyển thuốc phiện, nhưng đã đặt ra luật cho phép trồng thuốc phiện và chủ động tạo điều kiện vận chuyển thuốc đến các cảng do công ty kiểm soát.[27] Từ Calcutta, Hội đồng Hải quan, Muối và Thuốc phiện của công ty sẽ có trách nhiệm với việc kiểm soát chất lượng bằng cách quản lý cách thức đóng gói và vận chuyển thuốc phiện. Không cây nào có thể được trồng mà không có sự cho phép của công ty và công ty đã cấm các doanh nghiệp tư nhân tinh chế thuốc phiện. Tất cả thuốc phiện ở Ấn Độ đã được bán cho công ty theo tỷ lệ cố định và công ty đã tổ chức một loạt các cuộc đấu giá thuốc phiện công khai hàng năm từ tháng 11 đến tháng 3. Sự khác biệt của giá thuốc phiện thô do công ty quy định và giá bán thuốc phiện tinh chế khi bán đấu giá (trừ chi phí) là lợi nhuận do Công ty Đông Ấn tạo ra.[23] Ngoài việc đảm bảo cây thuốc được trồng trên vùng đất dưới sự kiểm soát trực tiếp của mình, hội đồng quản trị của công ty đã cấp giấy phép cho các tiểu bang độc lập của Malwa, nơi trồng một lượng lớn thuốc phiện. [27] Các tàu chở thuốc phiện tại Lintin, Trung Quốc, 1824 Vào cuối thế kỷ 18, các công ty và trang trại Malwan (vốn phụ thuộc vào trồng bông) đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự ra đời của vải bông sản xuất tại nhà máy, sử dụng bông ở Ai Cập hoặc miền Nam nước Mỹ. Thuốc phiện được coi là một sự thay thế sinh lợi, và đã sớm được bán đấu giá với số lượng lớn hơn bao giờ hết ở Calcutta.[23] Các thương nhân sở hữu hiến chương Hoàng gia (để tuân thủ điều lệ hoàng gia Anh về buôn bán Á châu) đấu thầu và mua hàng hóa tại cuộc đấu giá ở Calcutta trước khi đi thuyền đến miền Nam Trung Quốc. Các tàu của Anh đã mang hàng hóa của họ đến các đảo ngoài khơi, đặc biệt là đảo Lintin, nơi các thương nhân Trung Quốc với những chiếc thuyền nhỏ nhanh lẹ và được vũ trang đã lấy hàng hóa vào đất liền để phân phối, trả tiền thuốc phiện bằng bạc.[23] Chính quyền nhà Thanh ban đầu chấp nhận nhập khẩu thuốc phiện vì nó tạo ra một loại thuế gián tiếp đối với các đối tượng Trung Quốc, vì việc tăng nguồn cung bạc cho các thương nhân nước ngoài thông qua việc bán thuốc phiện khuyến khích người châu Âu chi nhiều tiền hơn cho hàng hóa Trung Quốc. Chính sách này đã cung cấp cho các thương nhân Anh cần thiết để tăng đáng kể xuất khẩu chè từ Trung Quốc sang Anh, mang lại lợi nhuận cao hơn cho độc quyền nhà Thanh đối với xuất khẩu chè do kho bạc của đế quốc và các đại lý của nó nắm giữ tại Quảng Châu. Năm 1773, công ty Ðông Ấn Ðộ có được độc quyền mua nha phiến tại Ấn Ðộ, bèn khuyến kích trồng thêm, khống chế vận tải tiêu thụ. Trung Quốc mỗi năm nhập khẩu từ 4.000 rương lên đến 6.000 rương; mỗi rương giá từ 140 lạng bạc tăng lên đến 350 lượng. Năm 1796, Trung Quốc đình chỉ đánh thuế nha phiến, coi như hàng cấm. Sau đó 4 năm, Tổng đốc Lưỡng Quảng vạch rõ rằng nha phiến “đối với Di nước ngoài là đất bùn, nhưng đối với ta là hàng hóa bạc nén”, khiến cho dân nội địa trở thành thất nghiệp; ông là người đầu tiên tấu trình về mối họa nha phiến về khía cạnh kinh tế dân sinh. Nhà kho trữ nha phiến của Công ty Đông Ấn Anh, khoảng năm 1850 Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phiện tiếp tục tăng ở Trung Quốc, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định xã hội. Từ Quảng Châu, thói quen này lan ra phía Bắc và Tây, ảnh hưởng đến các thành viên từ mọi tầng lớp xã hội Trung Quốc.[36] Sự lây lan này đã dẫn đến việc chính quyền nhà Thanh ban hành sắc lệnh chống ma túy vào năm 1780, sau đó là lệnh cấm hoàn toàn vào năm 1796 và lệnh của thống đốc bang dừng việc buôn bán vào năm 1799.[36] Để tuần hoàn các quy định ngày càng nghiêm ngặt ở Quảng Châu, các thương nhân nước ngoài đã mua các tàu cũ và chuyển chúng thành nhà kho nổi. Những chiếc tàu này đã được neo đậu ngoài khơi bờ biển Trung Quốc ở cửa sông Châu Giang trong trường hợp chính quyền Trung Quốc chống lại việc buôn bán thuốc phiện, vì các tàu của hải quân Trung Quốc gặp khó khăn khi hoạt động tại các vùng nước mở.[37] Các tàu thuốc phiện trong nước sẽ dỡ một phần hàng hóa của họ lên các nhà kho nổi này, nơi ma túy cuối cùng được mua bởi các đại lý thuốc phiện Trung Quốc. Bằng cách thực hiện hệ thống buôn lậu này, thương nhân nước ngoài có thể tránh được sự kiểm tra của các quan chức Trung Quốc và ngăn chặn sự trả thù đối của các người buôn bán hàng hóa hợp pháp, trong đó nhiều người buôn lậu cũng tham gia. Vào đầu thế kỷ 19, các thương nhân Mỹ đã tham gia buôn bán và bắt đầu đưa thuốc phiện từ Thổ Nhĩ Kỳ vào thị trường Trung Quốc. Nguồn cung này có chất lượng kém hơn nhưng rẻ hơn, và sự cạnh tranh giữa các thương nhân Anh và Mỹ đã làm giảm giá thuốc phiện, dẫn đến một tăng sự sẵn có của thuốc cho người tiêu dùng Trung Quốc.[29] Nhu cầu về thuốc phiện tăng nhanh và có lãi ở Trung Quốc đến nỗi những người buôn thuốc phiện Trung Quốc (không giống như các thương nhân châu Âu, có thể đi quanh và bán hàng hóa hợp pháp trong nội địa Trung Quốc) bắt đầu tìm kiếm thêm nhà cung cấp thuốc phiện. Sự thiếu hụt nguồn cung đã thu hút nhiều thương nhân châu Âu tham gia buôn bán thuốc phiện ngày càng sinh lời để đáp ứng nhu cầu của Trung Quốc. Theo lời của một đại lý nhà giao dịch, "[Thuốc phiện] giống như vàng. Tôi có thể bán nó bất cứ lúc nào."[38] Từ năm 1804 đến 1820, giai đoạn mà kho bạc nhà Thanh cần tài trợ cho việc đàn áp khởi nghĩa Bạch Liên giáo và các xung đột khác, dòng tiền dần dần đảo ngược và các thương nhân Trung Quốc đã sớm xuất khẩu bạc để trả tiền thuốc phiện thay vào đó người châu Âu trả tiền cho hàng hóa Trung Quốc bằng kim loại quý.[39] Các tàu châu Âu và châu Mỹ đã có thể đến Quảng Châu với các tàu chứa đầy thuốc phiện, bán hàng hóa của họ, sử dụng tiền thu được để mua hàng hóa Trung Quốc và kiếm lợi nhuận dưới dạng thỏi bạc.[15] Bạc này sau đó sẽ được sử dụng để mua thêm hàng hóa Trung Quốc.[22] Trong khi thuốc phiện vẫn là mặt hàng có lợi nhất để buôn bán với Trung Quốc, các thương nhân nước ngoài bắt đầu xuất khẩu các loại hàng hóa khác, chẳng hạn như vải cotton bằng máy, mây, nhân sâm, lông thú, đồng hồ và các công cụ bằng thép. Tuy nhiên, những hàng hóa này không bao giờ đạt được mức độ quan trọng như ma túy, và cũng không quý bằng.[40][41] Thay đổi chính sách thương mạiSửa đổiNgoài sự khởi đầu của buôn bán thuốc phiện, những đổi mới về kinh tế và xã hội đã dẫn đến sự thay đổi các thông số thương mại Trung-Âu rộng lớn hơn.[44] Sự công thức hóa kinh tế học cổ điển của Adam Smith và các nhà lý thuyết kinh tế khác đã khiến giới hàn lâm tin rằng chủ nghĩa trọng thương sẽ suy thoái ở Anh. Theo hệ thống trước đó, Hoàng đế Càn Long đã hạn chế giao thương với người nước ngoài trên đất Trung Quốc mà chỉ dành cho các thương nhân Trung Quốc được cấp phép, trong khi chính phủ Anh về việc ban hành một điều lệ độc quyền chỉ giao thương cho Công ty Đông Ấn Anh. Sự sắp đặt này không bị thách thức cho đến thế kỷ 19 khi ý tưởng về thương mại tự do được phổ biến ở phương Tây.[47] Thúc đẩy bởi cuộc cách mạng công nghiệp, Đế quốc Anh bắt đầu sử dụng sức mạnh hải quân đang phát triển của mình để truyền bá một mô hình kinh tế tự do rộng rãi, bao gồm các thị trường mở và thương mại quốc tế tương đối tự do, một chính sách phù hợp với mô hình kinh tế Smithian.[46] Lập trường về thương mại này nhằm mở ra thị trường nước ngoài cho các tài nguyên thuộc địa của Anh, cũng như cung cấp cho công chúng Anh tiếp cận nhiều hơn với hàng tiêu dùng như trà.[46] Ở Vương quốc Anh, việc áp dụng kim bản vị vào năm 1821 đã dẫn đến việc đế quốc đúc bạc được tiêu chuẩn hóa, tiếp tục làm giảm lượng bạc có sẵn cho thương mại ở châu Á và thúc đẩy chính phủ Anh nhấn mạnh thêm quyền thương mại ở Trung Quốc. Trái ngược với mô hình kinh tế mới này, nhà Thanh tiếp tục sử dụng triết lý kinh tế Nho giáo-Diễm thiết luận, trong đó triều đình chính thức can thiệp chặt chẽ vào nền công nghiệp với mục đích duy trì sự ổn định xã hội.[23] Chính quyền nhà Thanh không hẳn là bài thương mại, việc thiếu nhu cầu nhập khẩu và thuế ngày càng nặng đối với hàng hóa xa xỉ đã hạn chế áp lực lên chính phủ để mở thêm cảng cho thương mại quốc tế.[49] Hệ thống phân cấp thương gia cứng nhắc của Trung Quốc cũng ngăn chặn các nỗ lực mở cảng cho các tàu và doanh nghiệp nước ngoài.[50] Các thương nhân Trung Quốc hoạt động trong nội địa muốn tránh những biến động của thị trường do hàng nước ngoài nhập khẩu cạnh tranh với hàng sản xuất trong nước, trong khi các gia đình công hành của Quảng Châu kiếm lời nhiều bằng cách giữ cho thành phố của họ là điểm giao dịch duy nhất. [49] [51] [ 50] [52] Vào đầu thế kỷ 19, các cường quốc như Anh, Hà Lan, Đan Mạch, Nga và Hoa Kỳ bắt đầu tìm kiếm thêm quyền thương mại ở Trung Quốc.[53] Đầu tiên trong số các mối quan tâm của Tây phương là sự kết thúc của Hệ thống Quảng Châu và mở cửa thị trường tiêu dùng rộng lớn của Trung Quốc để giao thương. Anh đặc biệt tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc, đế quốc tuân theo kim bản vị do vậy buộc họ phải mua bạc và vàng từ châu Âu và Mexico để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế công nghiệp hóa đang nhanh chóng phát triển.[54] Nỗ lực của một đại sứ quán Anh (do Macartney lãnh đạo năm 1793), nhà truyền giáo của Hà Lan (dưới trướng Jacob van Braam năm 1794), Nga (do Yury Golovkin chủ trương năm 1805) và người Anh một lần nữa (Earl William Amherst năm 1816) đến thị trường Trung Quốc đều bị các Hoàng đế nhà Thanh liên tiếp phủ quyết.[28] Sau khi gặp Hoàng đế Gia Khánh vào năm 1816, Amherst đã từ chối thực hiện nghi lễ khấu đầu truyền thống, một hành động mà nhà Thanh coi là vi phạm nghiêm trọng lễ tắc. Amherst và nhóm của ông bị trục xuất khỏi Trung Quốc, một cuộc quở trách ngoại giao khiến chính phủ Anh phẫn nộ. [55] Khi các thương nhân Anh có được ảnh hưởng ngày càng tăng ở Trung Quốc, Vương quốc Anh đã củng cố sức mạnh quân sự của họ ở miền Nam Trung Quốc. Anh bắt đầu gửi tàu chiến để chống cướp biển trên sông Châu Giang, và vào năm 1808 đã thành lập một đơn vị quân đội đồn trú thường trực tại Ma Cao để chống lại các cuộc tấn công của Pháp.[56] Thương nhân nước ngoài tại Quảng ChâuSửa đổiKhi thương mại với Trung Quốc vận hành bằng thuốc phiện gia tăng về phạm vi và giá trị, sự hiện diện của ngoại quốc tại Quảng Châu và Ma Cao cũng tăng lên về quy mô và tầm ảnh hưởng. Quận Mười ba nhà máy của Quảng Châu tiếp tục được mở rộng và được coi là "khu phố nước ngoài".[23] Một số lượng nhỏ thương nhân bắt đầu ở lại quanh năm (hầu hết các thương nhân sống ở Ma Cao trong những tháng mùa hè, sau đó chuyển đến Quảng Châu vào mùa đông),[57] và một phòng thương mại địa phương được thành lập. Trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19, thương mại ngày càng tinh vi (và có lợi nhuận) giữa châu Âu và Trung Quốc cho phép một nhóm thương nhân châu Âu vươn lên vị trí có tầm quan trọng lớn ở Trung Quốc.[58] Đáng chú ý nhất trong số những nhân vật này là William Jardine và James Matheson (người sau này thành lập Jardine Matheson), thương nhân người Anh điều hành một doanh nghiệp ký gửi và vận chuyển ở Quảng Châu và Macau. Trong khi cặp đôi kinh doanh hàng hóa hợp pháp, họ cũng thu được lợi nhuận lớn từ việc bán thuốc phiện. Jardine đặc biệt có hiệu quả trong việc điều hướng môi trường chính trị của Quảng Châu để cho phép nha phiến được buôn lậu vào Trung Quốc.[27] Ông cũng khinh miệt hệ thống luật pháp Trung Quốc, và thường sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình để đối phó chính quyền Trung Quốc.[27] Điều này bao gồm kiến nghị của ông (với sự hỗ trợ của Matheson) cho chính phủ Anh nhằm cố gắng giành quyền thương mại và sự công nhận chính trị từ Đế quốc Trung Hoa, bằng vũ lực nếu cần thiết. Ngoài thương mại, một số nhà truyền giáo phương Tây đã tới và bắt đầu truyền đạo Kitô giáo cho người Trung Quốc. Trong khi một số quan chức dung túng cho điều này (họ đã có trụ sở tại Macau hoạt động ở Trung Quốc từ đầu thế kỷ 17), một số quan chức đã đụng độ với các Kitô hữu tại Trung Quốc, làm gia tăng căng thẳng giữa các thương nhân phương Tây và các quan chức nhà Thanh.[52][59] Trong khi cộng đồng nước ngoài tại Quảng Châu lan rộng ảnh hưởng, chính quyền địa phương bắt đầu chịu sự bất hòa dân sự bên trong Trung Quốc. Bạch liên giáo nổi dậy (1796-1804) đã làm cạn kiệt kho bạc của nhà Thanh, buộc chính phủ phải đánh thuế ngày càng nặng đối với các thương nhân. Các loại thuế này không giảm sau khi cuộc nổi loạn bị tiêu diệt, vì chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu một dự án lớn để sửa chữa các tài sản của nhà nước trên sông Hoàng Hà, được gọi là "Bảo tồn sông Hoàng Hà".[60] Các thương nhân của Quảng Châu cũng bị đánh thuế để đóng góp ngăn ngừa thổ phỉ và trộm cướp. Những khoản thuế này đè nặng lên lợi nhuận của các thương nhân công hành; đến thập niên 1830, công hành một thời từng thịnh vượng giờ lại nghèo đi rất nhiều. Ngoài ra, giá trị đồng nội tệ của Trung Quốc tụt giảm dẫn đến việc nhiều người ở Quảng Châu sử dụng tiền bạc ngoại quốc (tiền Tây Ban Nha có giá trị cao nhất, tiếp theo là tiền Mỹ)[61] vì chúng quy đổi ra lượng bạc cao hơn; điều này cho phép Quảng Châu đúc được nhiều đồng tiền Trung Quốc từ một vài đồng tiền phương tây nung chảy, làm tăng đáng kể tài sản của thành phố, doanh thu thuế và khiến nền kinh tế nơi đây lệ thuộc hơn vào các thương nhân nước ngoài.[52][62] Nhà Thanh cấm thuốc phiệnSửa đổiBiểu đồ thể hiện số nha phiến mà Trung Quốc nhập vào nội địa theo năm. Triều đình nhà Thanh đã tranh luận về việc có nên chấm dứt buôn bán thuốc phiện hay không, nhưng những nỗ lực của họ nhằm ngăn chặn việc lạm dụng thuốc phiện rất phức tạp bởi các quan chức địa phương và cồng hành, người đã kiếm được rất nhiều từ các khoản hối lộ và thuế liên quan đến buôn bán ma túy.[37] Những nỗ lực của các quan chức nhà Thanh trong việc kiềm chế nhập khẩu thuốc phiện thông qua các quy định về tiêu thụ dẫn đến sự gia tăng buôn lậu ma túy của các thương nhân châu Âu và Trung Quốc, và tham nhũng tràn lan.[42][12] Năm 1810, Hoàng đế Đạo Quang đã ban hành một sắc lệnh liên quan đến cuộc khủng hoảng thuốc phiện, tuyên bố,
Từ năm 1809 đến 1817, nhà Thanh có 5 lần ra chỉ dụ cấm thuốc phiện. Thuyền nước ngoài tiến đến cửa khẩu, do Hàng thương cam kết bảo chứng rằng không chở nha phiến, nếu tra ra thuyền bị đuổi về, những người buôn bán riêng với người nước ngoài bị trừng trị nặng. Nhưng rồi trở thành vô hiệu, gian dân và quan địa phương cấu kết chia lời, thương thuyền Cảng Cước chuyển vận số lượng lớn, giao dịch buôn bán ngay tại Áo Môn, Hoàng Phố. Ðầu thế kỷ thứ 19, mậu dịch chính quy tại Trung Quốc phần lớn xuất siêu. Năm 1812, hàng nhập khẩu hóa giá trị 1.270 vạn lượng, xuất khẩu ước 1.510 vạn lượng; năm 1813, nhập khẩu 1.260 vạn lượng, xuất khẩu ước 1.290 vạn lượng. Số liệu này căn cứ vào sổ bạ của Hàng thương tại Quảng Châu. Nhưng nha phiến là vật cấm, không ghi vào sổ bạ; nếu đem tất cả nha phiến nhập vào, thì số nhập siêu đã rất lớn. Năm 1818, số hàng nhập khẩu là 1.880 vạn lượng, xuất khẩu khoảng 1400 vạn lượng, nếu kể thêm 300 vạn lượng nha phiến nhập vào thì số nhập siêu của Trung Quốc lên tới trên 700 vạn lượng bạc. Ðời Gia Khánh cấm thuốc phiện bị thất bại, Ðầu thời Ðạo Quang, vấn đề này được nhà đương cục quan tâm. Số lượng nha phiến tiêu thụ vẫn tiếp tục tăng: từ năm 1821-1828, trung bình mỗi năm hơn 9.000 rương; 1828-1835, 18.000 rương; 1835-1838, hơn 39.000 rương. Mỗi rương giá bình quân 400 lượng. Ðầu thế kỷ thứ 19, người Mỹ mua thuốc phiện từ Thổ Nhĩ Kỳ chuyển đến Quảng Châu, mỗi năm cũng đến trên 1.000 rương. Sau năm 1831, nhờ bán thuốc phiện, mỗi năm người Anh lấy bạc nén từ Quảng Châu đến 400 vạn lượng; những điều cấm đoán chỉ ghi trên giấy tờ, còn cái họa về nha phiến và thất thoát bạc nén thì ngày càng nghiêm trọng.Dưới thời Thanh, dân chúng mua bán bằng tiền đồng, nhưng ngân khố quốc gia lấy bạc nén làm chuẩn. Nhân dân nạp thuế đều căn cứ vào giá bạc nén cao hạ, dùng tiền nộp. Bởi vậy giá bạc nén ảnh hưởng lớn đến dân sinh. Do bạc chảy ra nước ngoài ngày càng nhiều (để nhập khẩu thuốc phiện), giá bạc nén càng cao, khiến vật giá tăng cao, nhân dân phải dùng nhiều tiền đồng nạp thuế. Cuối thế kỷ thứ 18, 1 lượng bạc đổi được 7 hoặc 8 trăm tiền đồng; đầu thế kỷ thứ 19, đổi được trên dưới 1.000 tiền đồng; từ 1821-1838, từ 1.200, 1.300 đến trên 1.600 tiền đồng; trong vòng 40 năm giá bạc nén tăng lên gấp đôi. Nhà nông không có đủ tiền để nạp thuế đúng hạn, tài chính thiếu thốn, nhà đương cục buộc phải chú ý đến bạc nén tuồn ra do buôn lậu nha phiến. Bạc nén thất thoát chưa phải vấn đề lớn nhất, mà cái chính là thuốc phiện vốn là chất độc “tuyệt nhân mệnh lại tổn thương nguyên khí”. Nguồn thuốc phiện càng rộng, tiêu thụ càng lớn thì bạc càng thiếu hụt, quốc kế dân sinh càng khó khăn, phong tục càng đồi bại. Một sỹ phu nhận xét: “Trên thì quan phủ, khoa bảng thân sĩ; dưới đến công, thương, con hát, tôi đòi; cho đến phụ nữ, tăng ni, đạo sĩ, đều hút thuốc phiện. Một khi đã nghiền, thì một giờ không bỏ được, gia đình trung lưu thường bị phá sản; thứ khói thuốc này quấy nhiễu trăm mạch, đưa đến bệnh hoạn, lâu rồi tinh thần đại hao, không thể cứu trị.” Vua Đạo Quang từng nói “Vật này không cấm tuyệt, khiến lưu hành trong nội địa, không những tan nhà, mà còn tan cả nước.” Vài năm 1839, Hoàng đế Đạo Quang đã bác bỏ đề nghị hợp pháp hoá và thu thuế thuốc phiện, đã bổ nhiệm Lâm Tắc Từ xử lý vấn đề bằng cách bãi bỏ việc buôn bán thuốc phiện. Tranh vẽ Lâm Tắc Từ Lâm Tắc Từ [1785-1850] người tỉnh Phúc Kiến, xuất thân Tiến sĩ; lúc 48 tuổi giữ chức Tuần phủ Giang Tô, 53 tuổi Tổng đốc Hồ Quảng. Ông ta là người tài đức kiêm toàn, ngôn hành xứng với chức vụ, thanh liêm chính trực. Ông rất lưu tâm đến thời cuộc, “mắt thấy nha phiến vô cùng độc hại, tâm lòng như sôi sục”. Trong thời gian giữ chức Tuần phủ Giang Tô [1832-1833] đã tối thiểu hai lần dâng tấu đề cập đến họa nha phiến, “đối với cái hại cho quốc kế dân sinh, lửa giận khiến tóc muốn dựng đứng lên”, “Nha phiến nếu không cấm tuyệt, thì nước mỗi ngày một nghèo, dân mỗi ngày một yếu; chỉ hơn chục năm sau, trung nguyên không còn quân mạnh có thể ngự địch, không có bạc nén để lo quân lương”. Ông hết sức ủng hộ việc mạnh tay cấm thuốc phiện. Ông lập luận cái hại của nha phiến quá sâu, phép thường không thể ngăn chặn được, dùng tử hình cấm thuốc phiện chính hợp với đạo lý “trị tội chết một kẻ để người khác không còn phải chết thêm”. Lâm Tắc Từ nhấn mạnh cái hại của nha phiến qua hai lãnh vực kinh tế, quốc phòng khiến vua Ðạo Quang rất xúc động, trong ngày ban chiếu chỉ tưởng lệ, triệu Lâm Tắc Từ đến gặp mặt; trong 7 ngày từ ngày 28/12/1838 đến 3/1/1839 gặp 8 lần, mỗi lần khoảng 1 giờ rưỡi. Ban cho chức Khâm sai đại thần, tra biện hải khẩu Quảng Ðông, tiết chế Thủy sư, với trọng trách thanh tra nha phiến. Ðồng thời mệnh Tổng đốc, Tuần phủ Quảng Ðông ra sức hợp tác, nhắm “trừ sạch ô uế, đoạn tuyệt gốc rễ”. Lâm Tắc Từ cũng biết “thân hãm nguy cơ, nhưng từ chối không được, chỉ biết đem hết lòng thành, mong trừ mối họa lớn cho Trung nguyên”. Vua Ðạo Quang thì “huấn dụ thiết tha, ủy nhiệm trọng chức”, khiến Lâm Tắc Từ “chảy nước mắt nhận chức, còn họa phúc vinh nhục không màng đến”. Hướng dẫn trả lời câu hỏi Lịch sử 8, bài 10: Trung Quốc cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
Thứ bảy - 09/12/2017 12:47
Hướng dẫn trả lời câu hỏi Lịch sử 8, bài 10: Trung Quốc cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.
I. Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ
Chuyện nhà Thanh làm mất đất TQ sau Chiến tranh Nha phiến với AnhNguồn hình ảnh, Universal History Archive Chụp lại hình ảnh, Quan quân nhà Thanh lên tàu The Arrow giật cờ của Anh Quốc trong Chiến tranh Nha phiến lần hai. Nhưng các giao tranh chỉ đem lại thất bại cho Trung Hoa. Ngày 15/01 năm 1840, Tổng đốc Lưỡng Quảng, Lâm Tắc Từ công bố một lá thư gửi Nữ Hoàng Victoria, yêu cầu người Anh ngừng đem nha phiến vào Trung Quốc. Phụng mệnh Hoàng đế Đạo Quang đi tiễu trừ nạn nha phiến, tên tuổi Lâm Tắc Từ (1785-1850) đã gắn liền với nỗ lực tự vệ thất bại của Trung Hoa trong thế kỷ 19. Nhưng tư duy của ông cũng phản ánh hạn chế của quan lại Trung Hoa lúc Phương Tây bành trướng theo các nguyên lý kinh tế mà nhà Thanh không thể hiểu nổi. Con đường Tơ lụa và sự thật về Trịnh Hòa Đấu giá súng nạm vàng của vua Càn Long Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VN Trong lá thư được đăng ở Quảng Châu, Lâm Tắc Từ kêu gọi Nữ Hoàng Anh hãy "chọn lựa những thần dân để ngăn bọn xấu, bọn vô lại không sang Trung Hoa". Lâm Tắc Từ vẫn tin rằng nạn buôn lậu nha phiến vào Trung Quốc để thu bạc trắng của người Anh xảy ra chỉ vì một số cá nhân bất hảo. Nguồn hình ảnh, Bettmann Chụp lại hình ảnh, Một phụ nữ Trung Hoa nghiện bàn đèn thuốc phiện. Anh Quốc đã bán vào Trung Quốc thời nhà Thanh hàng nghìn tấn nha phiến, gây hủy hoại sức khoẻ người dân và rường mối xã hội để thu về hàng vạn lượng bạc Ông nói Thiên Triều sẽ tha tội cho những người Anh nào đã trót buôn thuốc phiện vào Trung Quốc "vì nhầm lẫn" (by mistake), và không hiểu luật lệ sở tại. Ông nêu quan điểm 'đức trị' của Nhà Thanh để hỏi Nữ hoàng Victoria không chấp nhận nha phiến ở Anh thì sao bà có thể để chuyện đó xảy ra với Trung Quốc. Nhưng công ty Đông Ấn được Hoàng gia Anh bảo trợ không chỉ làm chủ một phần Ấn Độ mà còn độc quyền trồng nha phiến ở Bengal để bán vào Trung Hoa. Hỗ trợ cho họ là kế hoạch 'ngoại giao pháo hạm' của chính quyền Anh nhằm ép Trung Quốc mở cảng biển, nhân danh 'tự do thương mại' và 'tự do truyền đạo'. Trong khi đó, Lâm Tắc Từ vẫn coi người Anh chỉ là một thứ 'rợ', giống các bộ lạc du mục đánh vào Trung Quốc các thế kỷ trước. Cứ lấy lễ giáo Thiên Triều để giáo hóa hẳn họ phải nghe. Nguồn hình ảnh, DEA PICTURE LIBRARY Chụp lại hình ảnh, Liên quân Phương Tây dùng 'ngoại giao pháo hạm' buộc Thanh triều mở cửa Nguồn hình ảnh, Hulton Archive Chụp lại hình ảnh, Dù kiên cường chống ngoại xâm, các nhóm dân quân tự tổ chức ở vùng quê Trung Quốc, gồm cả thiếu niên, chỉ có gậy và lá chắn bằng tre, gỗ, không thể địch nổi các pháo hạm và súng trường của Phương Tây Sau một vụ va chạm vì lính Anh say rượu giết chết dân Trung Quốc mà không trao nộp thủ phạm cho quan chức Thanh, Lâm Tắc Từ ra tối hậu thư, rồi cho đốt 1400 tấn nha phiến của Anh ở Quảng Châu. Tháng 6/1840, Anh Quốc cử 16 thuyền chiến đưa quân lính và cả nhân viên của công ty sản xuất nha phiến Jardine Matheson & Co. đến Quảng Châu. Trong hai năm liền, quân Anh chặn cảng, bắn phá các thành trì của Trung Quốc, lên bộ chiếm đô thị và ép nhà Thanh đàm phán. Các Chiến tranh nha phiến đầu tiênTìm hiểu về Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất và thứ hai giữa Trung Quốc và Anh vào giữa những năm 1800Các câu hỏi và câu trả lời về Cuộc chiến thuốc phiện. Encyclopædia Britannica, Inc.Xem tất cả video cho bài viết nàyCuộc chiến tranh nha phiến phát sinh từ những nỗ lực của Trung Quốc nhằm trấn áp opium trade. Foreign traders (primarily British) had been illegally exporting opium mainly from India to China since the 18th century, but that trade grew dramatically from about 1820. The resulting widespread addiction in China was causing serious social and economic disruption there. In spring 1839 the Chinese government confiscated and destroyed more than 20,000 chests of opium—some 1,400 tons of the drug—that were warehoused at Canton (Guangzhou) by British merchants. The antagonism between the two sides increased in July when some drunken British sailors killed a Chinese villager. The British government, which did not wish its subjects to be tried in the Chinese legal system, refused to turn the accused men over to the Chinese courts. Hostilities broke out later that year when British warships destroyed a Chinese blockade of the Pearl River (Zhu Jiang) estuary at Hong Kong. The British government decided in early 1840 to send an expeditionary force to China, which arrived at Hong Kong in June. The British fleet proceeded up the Pearl River estuary to Canton, and, after months of negotiations there, attacked and occupied the city in May 1841. Subsequent British campaigns over the next year were likewise successful against the inferior Qing forces, despite a determined counterattack by Chinese troops in the spring of 1842. The British held against that offensive, however, and captured Nanjing (Nanking) in late August, which put an end to the fighting. first Opium WarTàu Anh tấn công một khẩu đội Trung Quốc trên sông Châu Giang trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất, năm 1841. Từ tường thuật về một chuyến đi vòng quanh thế giới: Được thực hiện trên tàu Sulfur của Nữ hoàng, trong những năm 1836-1842, bao gồm chi tiết về các hoạt động hải quân ở Trung Quốc, từ tháng 12 năm 1840 đến tháng 11 năm 1841 , bởi thuyền trưởng Sir Edward Belcher, RNCác cuộc đàm phán hòa bình tiến hành nhanh chóng, dẫn đến Treaty of Nanjing, signed on August 29. By its provisions, China was required to pay Britain a large indemnity, cede Hong Kong Island to the British, and increase the number of treaty ports where the British could trade and reside from one (Canton) to five. Among the four additional designated ports was Shanghai, and the new access to foreigners there marked the beginning of the city’s transformation into one of China’s major commercial entrepôts. The British Supplementary Treaty of the Bogue (Humen), signed October 8, 1843, gave British citizens extraterritoriality (the right to be tried by British courts) and most-favoured-nation status (Britain was granted any rights in China that might be granted to other foreign countries). Other Western countries quickly demanded and were given similar privileges. Treaty of NanjingThe signing of the Treaty of Nanjing. Anne S.K. Brown Military Collection, Brown University LibraryGet exclusive access to content from our 1768 First Edition with your subscription. Subscribe today The second Opium WarVào giữa những năm 1850, trong khi chính phủ nhà Thanh đang cố gắng dập tắt Cuộc nổi dậy Thái Bình (1850–64), người Anh, đang tìm cách mở rộng quyền kinh doanh của họ ở Trung Quốc, đã tìm thấy một cái cớ để gia hạn các hành vi thù địch. Đầu tháng 10 năm 1856 một số quan chức Trung Quốc lên con tàu do Anh đăng kýArrow khi nó được cập cảng ở Canton, bắt giữ một số thuyền viên Trung Quốc (những người sau đó đã được thả) và bị cáo buộc hạ cờ Anh. Cuối tháng đó, một tàu chiến của Anh đi lên cửa sông Châu Giang và bắt đầu bắn phá Canton, và đã xảy ra các cuộc giao tranh giữa quân đội Anh và Trung Quốc. Giao dịch ngừng lại như một bế tắc xảy ra sau đó. Vào tháng 12, người Trung Quốc ở Canton đã đốt các nhà máy nước ngoài (kho buôn bán) ở đó, và căng thẳng leo thang. The French decided to join the British military expedition, using as their excuse the murder of a French missionary in the interior of China in early 1856. After delays in assembling the forces in China (British troops that were en route were first diverted to India to help quell the Indian Mutiny), the allies began military operations in late 1857. They quickly captured Canton, deposed the city’s intransigent governor, and installed a more-compliant official. In May 1858 allied troops in British warships reached Tianjin (Tientsin) and forced the Chinese into negotiations. The treaties of Tianjin, signed in June 1858, provided residence in Beijing for foreign envoys, the opening of several new ports to Western trade and residence, the right of foreign travel in the interior of China, and freedom of movement for Christian missionaries. In further negotiations in Shanghai later in the year, the importation of opium was legalized. The British withdrew from Tianjin in the summer of 1858, but they returned to the area in June 1859 en route to Beijing with French and British diplomats to ratify the treaties. The Chinese refused to let them pass by the Dagu forts at the mouth of the Hai Rivervà đề xuất một tuyến đường thay thế đến Bắc Kinh. Các lực lượng do Anh dẫn đầu quyết định không đi theo con đường khác và thay vào đó cố gắng vượt qua Dagu. Họ bị đẩy lùi với thương vong nặng nề. Sau đó, Trung Quốc từ chối phê chuẩn các hiệp ước và các đồng minh lại tiếp tục các hành động thù địch. Vào tháng 8 năm 1860, một lực lượng tàu chiến lớn hơn đáng kể và quân đội Anh và Pháp đã phá hủy các khẩu đội Dagu, tiến lên Thiên Tân, và vào tháng 10, chiếm được Bắc Kinh và cướp bóc, sau đó đốt phá Vườn Nguyên Minh, cung điện mùa hè của hoàng đế. Cuối tháng đó, Trung Quốc đã kýCông ước Bắc Kinh , trong đó họ đồng ý tuân theo các hiệp ước của Thiên Tân và cũng nhượng cho người Anh phần phía nam của bán đảo Cửu Long tiếp giáp với Hồng Kông. Chiến tranh thuốc phiện: Hải chiến với người Anh và mối hận trăm năm trong lịch sử TQTổng quan
Cuộc chiến tranh nha phiến đầu tiên ( 第一次鴉片戰爭 ), còn được gọi là Chiến tranh nha phiến hay Chiến tranh Anh-Trung , là một loạt các cuộc giao chiến quân sự giữa Vương quốc Anh và triều đại nhà Thanh của Trung Quốc về quan điểm mâu thuẫn của họ về quan hệ ngoại giao, thương mại và quản lý công lý ở Trung Quốc.
Cuộc chiến giữa nhà Thanh và Vương quốc Anh xảy ra do nhập khẩu thuốc phiện. Bất kể chiến tranh thuốc phiện hay chiến tranh thuốc phiện. lý lịchVào đầu thế kỷ 19, thị trường Trung Quốc đã được đưa vào thị trường quốc tế bởi các mối quan hệ thương mại tam giác của Vương quốc Anh, Ấn Độ, Trung Quốc và Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trước đây là mối quan hệ thương mại của các sản phẩm công nghiệp của Anh với Ấn Độ, thuốc phiện Ấn Độ với Trung Quốc và trà Trung Quốc sang Anh. Bằng cách hình thành các mối quan hệ này, Vương quốc Anh đã hoàn thành các thách thức của (1) nuôi dưỡng các kênh bán hàng cho các sản phẩm công nghiệp của riêng mình, (2) đảm bảo nhập khẩu chè Trung Quốc không trả tiền bạc và (3) thiết lập các nguồn tài chính cho chính phủ Ấn Độ thuộc địa . Tôi đã làm. Vì lý do này, công ty Đông Ấn được trao quyền độc quyền buôn bán thuốc phiện và công ty Đông Ấn xuất khẩu sang Trung Quốc, nơi cấm nhập khẩu thuốc phiện, thông qua các thương nhân buôn bán tư nhân như Jardine Mactheson Shokai. Thiết lập quan hệ thương mại. Do đó, mối quan hệ này bao gồm mâu thuẫn sau đây. Đó là, (1) yêu sách thương mại tự do của các nhà tư bản công nghiệp của nước sở tại và cuộc xung đột với chính quyền nhà Thanh độc quyền độc quyền ngoại thương đối với cảng Quảng Châu 1 và (2) độc quyền thương mại đối với Trung Quốc vào năm 1834 Ngay cả sau khi bị bãi bỏ, các thương nhân thương mại Anh chỉ trích công ty Đông Ấn có sức mạnh tài chính thương mại châu Á. (3) Về phía nhà Thanh, Konno và các doanh nhân thuốc phiện khác và Shigeru Huang (1793-1853), X Đây là ba điểm trên chống lại lệnh cấm nghiêm ngặt. Các giám sát viên thương mại, bắt đầu từ Napier (1786-1834), được phái từ năm 1934 để trực tiếp kiểm soát thương mại với chính phủ Anh, đã phản đối các thương nhân và thống đốc của cả hai bên. Không hiệu quả, và khi từng chuyển sang phá vỡ tình hình, Anh cuối cùng đã cố gắng giải quyết bằng vũ lực. Nhìn chung, Chiến tranh thuốc phiện không chỉ là hậu quả của đặc tính lịch sử của buôn bán thuốc phiện mà còn đánh dấu sự hiện đại của Trung Quốc và do đó, hướng của lịch sử hiện đại châu Á trong bối cảnh các vấn đề phổ biến xung quanh quan hệ ngoại giao thương mại. Đó là một sự cố. Chiến tranh bùng nổVào tháng 3 năm 1839 (Michimitsu 19), Thống đốc Kohiro Hayashi Hiroshi đến Quảng Châu với tư cách là một Bộ trưởng thờ ơ với nhiệm vụ xóa bỏ thuốc phiện và đưa ra một cam kết rằng các thương nhân nước ngoài sẽ nộp thuốc phiện và không tham gia buôn bán thuốc phiện trong tương lai. Trình tự nộp. Giám sát thương mại Quảng Châu của chính phủ Anh C. Elliot cuối cùng đã chấp nhận đệ trình thuốc phiện và Hayashi Noriyoshi đã đốt nó ở ngoài khơi bờ biển Humen. Tuy nhiên, Elliott đã từ chối đệ trình một cam kết với tàu Anh, nhưng mặt khác, anh ta đã chuẩn bị chiến đấu, và vào tháng 9, đã bắn với Hải quân nhà Thanh gần cảng Cửu Long, và Chiến tranh thuốc phiện đã nổ ra. Vào ngày 1 tháng 10, chính phủ Anh đã quyết định chiến tranh với Trung Quốc, và vào tháng 4 năm 1940, đã phái 4.000 binh sĩ đại diện cho George Eliot và Charles Eliot làm phó quyền lực. Sau khi quân đội Anh đi qua Quảng Châu và Hạ Môn rồi ra biển, đi về phía bắc và đến Thiên Tân vào tháng Tám. G. Eliot đã gửi một cuộc điều tra cho chính phủ nhà Thanh để hợp pháp hóa việc buôn bán thuốc phiện và bồi thường thuốc phiện bị tịch thu, đã gửi một yêu cầu khấu trừ lãnh thổ. Chính quyền nhà Thanh quyết định xử lý vấn đề này như một vụ án địa phương ở Quảng Châu. Vào tháng 9, nó đã phái một thống đốc chính phủ trực tiếp, Yuzen (? -1854), để đàm phán tại Quảng Châu. Thỏa thuận mũi tạm thời và Thỏa thuận Quảng ChâuVào tháng 1 năm 1841, quân đội Anh đã phá vỡ các tháp pháo lớn và shagon và xâm chiếm Humen. C. Elliott đã gửi một bản thảo mũi, và dựa trên điều này, Jeongsung đã ký một thỏa thuận mũi tạm thời bao gồm bồi thường thuốc phiện 6 triệu nhân dân tệ, khôi phục thương mại Quảng Châu, nhượng bộ cho Hồng Kông, v.v. Tuy nhiên, Hoàng đế Domitsu biết điều này và ra lệnh trả lại Jeongseon. Thay vào đó, ông Ekimae Gozen (1790-1878), Takafumi Tobe và Đô đốc Hồ Nam (1770-1846) tại Quảng Châu đã phái đi. Vào tháng Hai, cuộc chiến chống Cổng Tiger đã kết thúc, và Đô đốc Kanto (1780-1841), Đô đốc Quảng Đông Susumu, người bảo vệ Tiger Pin. Yufang đã ký một thỏa thuận ngừng bắn với C. Elliot và giao dịch từ tháng 3 đến tháng 5 đã phục hồi. Vào cuối tháng 5, quân đội Anh đã tiếp cận Lâu đài Quảng Châu trong Trận chiến Quảng Châu. Ulsan đã ký Thỏa thuận Hòa bình Quảng Châu và hứa sẽ rút Lâu đài Canton của nhà Thanh, trả chi phí cho Liaocheng, phê duyệt nơi ở của Quân đội Anh và bồi thường cho Nhà giao dịch Anh. Trận chiến Sangen-satoVào cuối tháng 5, quân đội Anh đã bị bao vây ở Sangen-ri, phía bắc Quảng Châu và bị bao vây bởi một nhóm Heilong do các lãnh đạo làng địa phương tổ chức. Sau đó, tại khu phố Quảng Châu, chủ đất và quý ông thị trấn đã thành lập một đơn vị như một tổ chức tự vệ địa phương, tập trung vào trường công ty là một tổ chức giáo dục làng xã địa phương, và họ cho thấy xu hướng mở rộng với Chiến tranh thuốc phiện. Sau đó, công ty phản đối yêu cầu của quân đội Anh vào Quảng Châu, và nó gây ra sự đe dọa lớn. Quân đội Anh BắcChính phủ Anh không hài lòng với thỏa thuận tạm thời về mũi và triệu tập C. Elliot và bổ nhiệm H. Potinger làm bộ trưởng chuyên trách. Vào tháng 8, ông đến Hạ Môn và người Anh bắt đầu đi về phía bắc. Chẳng mấy chốc, tôi đã mất đi sự đau lòng của mình và Hạ Môn, nhưng dần dần nhận được sự kháng cự mạnh mẽ từ Lực lượng phòng vệ nhà Thanh. Sau sự sụp đổ của Sadakai vào tháng 9 và Zhenhai vào tháng 10, Ninh Ba đã bị chiếm đóng. Hoàng đế Michimitsu đã ra lệnh cho Đại học Kyokyo Shikei Kei (1791-1853), Goro Bunpo và Huân chương Phó đặc nhiệm Mông Cổ bảo vệ Chiết Giang. Tôi tấn công thung lũng. Do đó, sau chiến dịch Quảng Châu trước đây do Ulsan thực hiện, chiến dịch Trịnh Giang của Chiết Giang đã bị đánh bại trong khi thu thập quân lớn. Hoàng đế Michimitsu đã chuyển sang một cuộc tranh cãi và phái Seikyo Shengkyo (1790-1858) và Thống đốc Ryoe Irifu (1772-1843) tới Chiết Giang để đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, Potinger đã từ chối hội nghị thượng đỉnh, và vào tháng 5, Ninh Ba và Zhenhai đã bị rút, Zhoushan là căn cứ, Saho bị bắt và tiến đến sông Dương Tử (sông Yangzi) bắt đầu. Vào tháng 6, anh ta chiếm được tháp pháo Wusun và chiếm Bao Sơn và Thượng Hải. Vào tháng 7, ông đã lãnh đạo Trấn Giang với 7000 quân, và gục ngã trong trận chiến khốc liệt. Công ước Nam Kinh Vào ngày 29 tháng 8 năm 1842, Hiệp ước Nam Kinh đã được ký kết giữa Triều đại nhà Thanh Jongei, Irifu và Potinger của Anh, nơi Chiến tranh thuốc phiện kết thúc. Hiệp ước Nam Kinh quy định mở năm cảng, bồi thường, cư trú lãnh sự, bãi bỏ hệ thống công cộng, v.v., và ngoài biểu đồ thương mại năm năm tiếp theo và Công ước Humen, mối quan hệ thương mại đã được thiết lập. Năm 1944, Hiệp ước Hy vọng của Hoa Kỳ và Thanh và Hiệp ước Chạng vạng của Pháp và Thanh đã được ký kết, qua đó các cường quốc buộc Trung Quốc vào thị trường thế giới, cũng như MFN đơn phương, cho thuê đất đai và quyền tài phán lãnh sự. Những lợi ích như được mở rộng. Thông tin về cuộc chiến tranh nha phiến dần được đưa đến Nhật Bản bởi các tàu thương mại của Hà Lan và nhà Thanh đã vào Nagasaki. Tàu Hà Lan dựa trên thông tin từ phía Anh và tàu Kiyokuni dựa trên các quan sát địa phương. Mặt khác, từ quá khứ Bảo vệ biển Mạc phủ, người đấu tranh với các vấn đề của các nước phương Tây và tập trung vào các xu hướng ở các nước phương Tây, tỏ ra rất quan tâm đến cuộc chiến này, và bắt đầu tích cực thu thập thông tin, đặc biệt là vào tháng 7 năm 1843 (Tempo 14). Hỏi cư dân triều đại Hà Lan và nhà Thanh ở Nagasaki để trả lời. Với thông tin này, rõ ràng sức mạnh quân sự của các nước phương Tây đang chiếm ưu thế áp đảo, và nó có tác động nghiêm trọng đến các quan chức Mạc phủ. Nó được bắt đầu bởi Tadakuni Mizuno, người nắm quyền lực của Bakusei ngay lúc này Cải cách tạm thời Tuy nhiên, nói chung, một cảm giác khủng hoảng bên ngoài như vậy đã được coi là nền tảng, nhưng các biện pháp cụ thể bao gồm rút đơn đặt hàng tàu nước ngoài từ năm 1825 (Bunsei 8) và vấn đề tiền lương bị ngập lụt để tránh xung đột. Mặt khác, để đáp lại lời đề nghị của Nagasaki-cho Akiyoko Takashima, anh ta đã sử dụng pháo kiểu phương Tây mà anh ta đang nghiên cứu và truyền lại cho Izu Toyama Daikan Egawa Taro Saemon (rồng Anh), và sau đó nói chung ứng viên là tốt. Tôi đã tha thứ cho bạn. Ngoài ra, Egawa cũng được sử dụng như một khẩu súng để tăng cường sức mạnh cho cả hai bên, và nhiều lãnh chúa khác nhau được lệnh tăng cường vũ khí từ quan điểm phòng thủ của cả nước. Tuy nhiên, mặc dù đã có sự thừa nhận về cuộc khủng hoảng bên ngoài ở phần trung tâm của Mạc phủ, nhưng chỉ sau khi Perry đến khoảng 10 năm sau, Mạc phủ đã thực hiện đầy đủ các biện pháp đối phó bao gồm cải cách quân sự. Mặt khác, thông tin về các cuộc chiến tranh thuốc phiện cũng có tác động lớn đến trí thức, và trong những năm Kohua và Kayen tiếp theo (1844-54), bao gồm cả lịch sử chiến tranh và nguyên nhân thất bại của Qing, bao gồm Saito Takedo (Akata Shusetsu ). Nhiều cuốn sách đã được viết và đọc rộng rãi. Sự hình thành tư tưởng của những nhà tư tưởng cuối thời Edo như Sakuzan Sakuma và Shoin Yoshida có thể được xem xét mà không có những hiệu ứng này. Nguồn World Encyclopedia
Chiến tranh giữa Anh và nhà Thanh về lệnh cấm buôn bán thuốc phiện trong triều đại nhà Thanh từ năm 1840 đến 1842. Vào thời nhà Thanh kể từ khi lệnh cấm thuốc phiện của Hoàng đế Yongzheng được coi là luật tổ tiên. Từ cuối thế kỷ 18, việc buôn bán thuốc phiện ở Ấn Độ bị đốt cháy, ô nhiễm gây ra bởi ô nhiễm gây ra ô nhiễm nước ngoài do nước ngoài xuất khẩu từ chè, tơ lụa và do đó, giao dịch ngoại tệ của nước ngoài chuyển thành bạc chảy ra và trở nên có vấn đề về tài chính. Bởi vì điều này, vào năm 1839, Hoàng hậu Mahikari đã phái Hayashi Nori đến Quảng Đông (Canton) với tư cách là Bộ trưởng của Ginza. Forest đã áp dụng các biện pháp cứng như tịch thu và loại bỏ thuốc phiện ở Quảng Đông và cấm buôn bán với Anh. Năm 1840, Vương quốc Anh phái một đội quân viễn chinh, trong khi nhà Thanh đuổi Hayashi Norio và điều chỉnh số tiền, nó đã không thành công. 1842 tháng 6 tháng 6 thua người Anh đã nối lại cuộc tấn công tổng lực, hiệp ước Nam Kinh được ký kết vào tháng 8, đất nước cô lập nhà Thanh mờ dần. Cuộc chiến mũi tên (1856 - 1860) còn được gọi là Cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ hai. Nguồn Encyclopedia Mypedia Dùng thuốc phiện để đổi lấy chè, đế quốc Anh đã gây ra đại dịch thuốc phiện nặng nề tại Trung Quốc, dẫn đến hai cuộc chiến tranh khốc liệt làm thay đổi lịch sử cường quốc châu Á.
CHIẾN TRANH THUỐC PHIỆNVÀ CHIẾN DỊCH TRỘM CHÈ Các tàu chiến của Anh thắng thế trong cuộc Chiến tranh Thuốc phiện (hay Chiến tranh Nha phiến) lần thứ nhất. Ảnh: Wikimedia Commons Hiệp ước Nam Kinh mở đầu "Bách niên quốc sỉ" Tháng 6/1840 quân Anh từ mũi Hảo Vọng mang theo 16 chiến hạm, 4 tàu pháo cỡ lớn chạy bằng động cơ hơi nước, 28 thuyền vận tải, 4.000 quân kéo đếnvùng biển Quảng Ðông. Với sức mạnh quân sự lớn hơn, quân đội Anh đã lần lượt chiếm được Quảng Châu (Quảng Đông), Hạ Môn (Phúc Kiến), Đinh Hải(Chiết Giang), Nam Kinh, sau đó là Thượng Hải. Thua trận, Nhà Thanh buộc phải ký Hiệp ước Nam Kinh vào ngày 29/8/1842 đánh dấu kết thúc cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất. Nhà Thanh phải bồi thường chiến phí cho Anh, mở 11 cảng và cho truyền đạo tự do. Hương Cảng (Hong Kong) và vùng cửa sông Châu Giang được chuyển giao cho người Anh trong 99 năm và lợi ích của Anh phải được đặt lên hàng đầu khi Trung Quốc cân nhắc giao thương với bất kỳ quốc gia phương Tây nào khác. Tàu HMS Cornwallis của Anh bắn pháo chào mừng ký Hiệp ước Nam Kinh. Ảnh: Wikimedia Commons Đây chỉ là hiệp ước đầu tiên trong số một loạt hiệp ước bất bình đẳng mà người Trung Quốc buộc phải đồng ý khi họ phải đối mặt với sức mạnh quân sự vượt trội của người Anh. Thất bại của Hiệp ước trong việc thoả mãn các mục tiêu của Anh về cải thiện quan hệ ngoại giao và thương mại đã dẫn tới cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai (1856-1860). Tại Trung Quốc, cuộc chiến này được xem là sự khởi đầu thời kỳ "Bách niên quốc sỉ", tức là100 năm Trung Quốc bị sỉ nhục và xâu xé bởi ngoại quốc. Robert Fortune - Kẻ trộm chè Trong bối cảnh mối quan hệ ngoại giao giữa Anh và Trung Quốc đã bị phá hủy, nhà thực vật học người Scotland Robert Fortune đã bị đẩyvào một chiến dịch bí mật nhằm giúp đế chế Anh phá vỡ độc quyền chè của người Trung Quốc. Khi còn nhỏ, Fortune thường mải mê theo cha lang thang trong trang trạikhiêm tốn của gia đình. Xuất thân từ nhànghèo, Fortune có được hầu hết kiến thức về thực vật của mình thông qua học hỏithực tế thay vì trường lớpchính thức. Chân dung kẻ trộm chè Robert Fortune. Ảnh: Getty Images Năm 1842, khi Chiến tranh Nha phiếnlần thứ nhất giữa Anh và Trung Quốc kết thúc bằng Hiệp ước Nam Kinh, Fortune được Hiệp hội Trồng trọt Hoàng gia ủy nhiệm thực hiện một cuộc thám hiểm nhằm thu thập mẫu thực vật trong ba năm ở Trung Quốc. Trong chuyến đi của mình, Fortune đã tới những vườn chètuyệt đẹp của Trung Quốc. Nhưng ông cũng hứng chịu nhiều trận ốm do không quen thuỷ thổ, chưa kể nhiều cuộc tấn công của những nhóm cướp biển. Fortune đãghi lại toàn bộ hành trình của mình ở Trung Quốc trong cuốn sách "Three Years’ Wanderings in the Northern Provinces of China"(Ba năm lang thang ở các tỉnh miền Bắc Trung Quốc) xuất bản năm 1847. Không một người phương Tây nào từng đi sâu vào lãnh thổ Trung Quốc như Robert Fortune. Ôngthậm chí đã đến cả vùng núi Vũ Di xa xôi ở tỉnh Phúc Kiến, một trong những vùng trồng chè chính. Vì thế không có gì bất ngờ khi Công ty Thương mại Đông Ấn của Anh, giữa cuộc chiến chè với Trung Quốc, bỗng trở nên quan tâm tới công việc của Fortune. Công ty tin rằng nếu họ có thể tiếp cận hạt giống và cây chè ở Trung Quốc, rồitìm cách tự trồng và thu hoạch chè,có thể ở thuộc địa Ấn Độ, thì người Anh có thể chiếm lĩnh vị trí thống trị củangười Trung Quốc trong buôn bán chè. Và thế là Đông Ấn đã bỏ tiền thuêRobert Fortune ăn cắp mẫu cây và hạt giống chè từ Trung Quốc. Cảnh trồng chè ở Trung Quốc. Đó là một công việc đầy rủi ro, nhưng với thù lao 624 USDmỗi năm - gấp năm lần mức lươngcủa Fortune- cùng bản quyền thương mại đối với bất kỳ cây chènào ông lấy được trong chuyến đi của mình, nhà khoa học khó có thể từ chối. Năm 1848, Fortune bắt đầu hành trình thứ hai đến Trung Quốc nhưng lần này, với tư cách là một kẻ buôn lậu bí mật. Để vượt qua kiểm soát an ninh ở các cảng, Fortune đã cải trang thành một thương gia Trung Quốc bằng cách cắt tóc theo kiểu địa phương và mặc trang phục truyền thống. Tiếp đến, ôngphải thu thập các mẫu chè và tìm cách vận chuyển chúng đến Ấn Độ. Tổng cộng, Fortune đã thu thập thành công 13.000 cây chè và 10.000 hạt giống từ các tỉnh trồng chè trên khắpTrung Quốc và tìm cách đưa chúng qua biên giới. Vùng trồng chè ở Vũ Di Sơn, tỉnh Phúc Kiến là nơi hẻo lánh mà nhà thực vật học Fortune đã thâm nhập được. Nhưng trong chuyến hàng lậuđầu tiên, hầu hết các cây chè được Fortune thu thập đã chết trên hành trình. Sau nhiều thử nghiệm và sử dụng một phương pháp mới -dùng hộp kính đặc biệt để giữ an toàn cho cây trong chuyến đi khó khăn ra khỏi Trung Quốc -Fortune cuối cùng đã đưa được20.000 cây chè phi bản địa đến vùng Darjeeling của Ấn Độ. Cuối cùng, nước Anh đã thành công trong việc tìm cách trồng, thu hoạch và tự sản xuất chèở Ấn Độ, phá vỡ sựđộc quyền hàng thế kỷ của ngườiTrung Quốc. Lượng chè sản xuất tại Trung Quốc vì thế đã giảm đáng kể xuống còn 41.000 tấn/năm, trong đó chỉ có 9.000 tấn được xuất khẩu. Trung Quốc nhanh chóng tụt lại phía sau trongthương mại khi người Hà Lan và Mỹ cũng theo bước Anh,tiến hành các cuộc tấn công vào những vùng trồng chè ở nước nàyđể chiếmđịa bàn sản xuất. Ảnh hưởng của chiến dịchtrộm cắp thương mại của Anh và các hiệp ước bất côngsau Chiến tranh Thuốc phiện đã làm thay đổi đáng kể nền kinh tế Trung Quốc, đến nỗi đất nước này đãkhông thể phục hồi hoàn toàn cho đến những năm 1950. Và phải mất 170 nămTrung Quốc mới có thể khôi phục vị thế là nhà xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Xem từ Kỳ 1: SỰ THỐNG TRỊ CỦA CHÈ Cuối thế kỷ 19, nhà thực vật học người Anh Robert Fortune đã bí mật thâm nhập vào ngành công nghiệp chè Trung Quốc, đánh cắp hàng ngàn mẫu chè, dẫn đến cuộc lật đổ sự độc quyền của người Trung Quốc đối với thức uống được ưa chuộng nhất thế giới. Chia sẻ:
Từ khóa:
|