Tại sao kinh tế Nhật Bản lại giảm sút

Sau khi bong bóng kinh tế xì hơi hơn 20 năm trước, các doanh nghiệp Nhật Bản giảm chi và giảm vay nợ, các hộ gia đình ít tiết kiệm hơn. Chính phủ cùng lúc tạo ra khối nợ công gần bằng 250% GDP.

Sau khi bắt đầu thực hiện nhóm chính sách kinh tế Abenomics năm 2012, Nhật Bản đã lại trở thành trung tâm chú ý của thị trường tài chính toàn cầu. Sau hơn hai thập kỷ tăng trưởng trì trệ, Nhật Bản được kỳ vọng rất cao sẽ thoát khỏi tình trạng giảm phát kéo dài.

Rất nhiều nhà kinh tế trên thế giới hy vọng Nhật Bản sẽ là phép thử cho phương Tây, chủ yếu là eurozone, về cách thức tránh lâm vào hoàn cảnh tương tự - tăng trưởng thấp và thu nhập suy giảm trong thời gian dài. Còn ngược lại, kế hoạch thất bại sẽ không chỉ là thảm họa với đất nước mặt trời mọc mà còn là tin rất xấu cho các ngân hàng trung ương và chính trị gia phương Tây. Vì nó cho thấy lý thuyết kinh tế học Keynes không có tác dụng trong một quốc gia có quá nhiều nợ và dân số ngày càng thu hẹp.

Tại sao kinh tế Nhật Bản lại giảm sút

Nhật Bản đã rơi vào suy thoái trong quý III vừa qua. Ảnh: Bloomberg

Globalist đã phân tích về hành trình Nhật Bản rơi vào tình trạng bất ổn kinh tế hiện nay.

Trong những năm 80, Nhật Bản được coi là hình mẫu cho sự phát triển kinh tế toàn cầu. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các công ty Nhật Bản bắt đầu nổi lên và dần thống trị trong các ngành công nghiệp hàng đầu như máy móc, thiết bị, ôtô và điện tử tiêu dùng.

Tương tự các quan điểm về Trung Quốc hiện nay. Các học giả thời đó gọi sự vươn lên của Nhật Bản là một điều kỳ diệu. Những giả thiết Nhật Bản sẽ tăng trưởng không ngừng để vươn lên làm cường quốc kinh tế thế giới đã được nhắc tới rất nhiều vào lúc đó.

Các tập đoàn Nhật Bản cũng bắt đầu đầu tư vào các bất động sản trên toàn thế giới. Khi bong bóng kinh tế Nhật Bản - giống như nhiều nước khác - xì hơi năm 1990, giá tài sản bắt đầu lao dốc. Tuy nhiên, tín dụng tại Nhật Bản vẫn ở mức cao.

Nhật Bản đã hành động y như lý thuyết của Keynes. Nhu cầu trong nước giảm mạnh được bù đắp bằng tăng chi tiêu Chính phủ. Nhiều công ty thực tế là đã vỡ nợ, không được tái cơ cấu lại vẫn tồn tại nhờ lãi suất thấp và các khoản vay bắc cầu.

Những gì đã xảy ra trong 25 năm qua có thể tóm tắt rất đơn giản. Các doanh nghiệp Nhật Bản giảm chi và giảm vay nợ. Các hộ gia đình cũng giảm mức tiết kiệm từ 20% xuống còn 3% như hiện nay. Còn Chính phủ thì tạo ra khối nợ công khổng lồ, tăng từ khoảng 50% GDP cuối năm 1980 lên gần 250% hiện tại.

Tất cả nỗ lực hồi sinh kinh tế Nhật Bản đều thất bại. Kết quả nó mang lại chỉ là nợ công ngày càng tăng nhanh. Và con nợ lớn nhất tại đây lại là Chính phủ, thay vì các công ty như trước đây.

Cùng lúc đó, lực lượng lao động tại Nhật Bản bắt đầu co hẹp. Trên thực tế, Nhật Bản đạt đỉnh về số lượng lao động cùng thời điểm bong bóng tài chính phình to nhất. Điều đó cho thấy rằng lực lượng lao động gia tăng cũng là một yếu tố thổi phồng bong bóng này.

Nếu vậy, đây sẽ là lại là điểm khiến châu Âu lo lắng. Khi lực lượng lao động của họ đạt đỉnh cùng lúc với bong bóng tín dụng năm 2007.

Một thực tế thường bị bỏ qua là chính vì dân số giảm sút, GDP bình quân của Nhật Bản mới vượt qua Mỹ trong một phần tư thế kỷ kể từ năm 1990. Đó có vẻ là tin tốt. Vậy thì tại sao phải lo lắng?

Thật không may, GDP và nợ là những con số danh nghĩa. Và nợ chỉ có thể được trả từ thu nhập. Do đó, GDP bình quân tăng lên trong khi dân số co lại chẳng phải điều tốt đẹp gì với một quốc gia.

Một lần nữa, châu Âu lại có lý do để lo lắng. Dân số khu vực này đang bắt đầu có sự tương đồng với Nhật Bản. Dù điều này không xảy ra ở tất cả các nước, nhờ chính sách nhập cư cởi mở của Liên minh châu Âu.

Những đặc điểm hiện tại của Nhật Bản có thể tóm tắt như sau:

1. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động đầu người cao hơn trung bình

2. Dân số đang giảm (ước tính từ 127 triệu người hiện tại xuống 87 triệu năm 2060).

3. Tăng trưởng kinh tế thực khá thấp trong nhiều thập kỷ tới (khi dân số tiếp tục co lại).

4. Tỷ lệ tiết kiệm ngày càng thấp, do dân số già sẽ bắt đầu tiêu tiền tiết kiệm sớm. Việc này sẽ khiến thâm hụt ngân sách Chính phủ giảm đi.

5. Khu vực doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán vững chắc, sau 25 năm giảm vay nợ. Nhưng tỷ lệ đầu tư sẽ thấp và không có xu hướng đổ tiền vào Nhật Bản.

6. Chính phủ với nợ tương đương 250% GDP.

7. 43% doanh thu của Chính phủ Nhật hàng năm chỉ dành để trả nợ.

8. Ngân hàng trung ương đã nới lỏng tiền tệ từ năm 2001 và vẫn sẵn sàng làm mọi việc cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế.

9. Nhật Bản đã thất bại trong việc tạo ra lạm phát cho đến bây giờ, nhưng giá cả đã ổn định trong thời gian khá dài.

Theo Globalist, nói đơn giản, một đất nước như vậy có thể coi là vỡ nợ. Không nền kinh tế nào có thể duy trì một mức nợ hơn 400% GDP mà không có tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể so với lãi suất.

Quân Tạ

Tại sao kinh tế Nhật Bản lại giảm sút

Người dân tại khu Akihabara của Tokyo, Nhật Bản. Ảnh: afp.com

Ngày 15/2, Văn phòng nội các Nhật Bản thông báo trong quý IV/2021, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế của nước này ước tăng 1,3% so với quý trước đó và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, GDP danh nghĩa chỉ tăng 0,5% so với quý trước đó và 2% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo Văn phòng nội các Nhật Bản, nguyên nhân chủ yếu khiến nền kinh tế nước này tăng trưởng trở lại trong quý cuối cùng của năm ngoái là do việc Chính phủ dỡ bỏ tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc từ đầu tháng 10/2021 trong bối cảnh số ca nhiễm mới giảm mạnh, từ đó giúp tiêu dùng cá nhân hồi phục mạnh mẽ.

Trong quý này, chi tiêu dùng cá nhân, vốn chiếm hơn 50% GDP của Nhật Bản, tăng tới 2,7% so với quý trước đó. Bên cạnh đó, việc kim ngạch xuất khẩu tăng 1% cũng đóng góp không nhỏ vào sự phục hồi này của nền kinh tế.

Tính chung cả năm 2021, Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 1,7% bất chấp việc có tới 2 quý tăng trưởng âm (âm 2,1% trong quý I/2021 và 2,7% trong quý III/2021). Đây là lần đầu tiên nền kinh tế lớn thứ ba thế giới tăng trưởng dương trong vòng 3 năm qua sau khi tăng trưởng âm 4,5% trong năm 2020.

Mặc dù vậy, theo các chuyên gia phân tích, đà tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản có thể sẽ chậm lại trong quý I/2022, do ảnh hưởng tiêu cực của làn sóng lây nhiễm thứ 6, với số ca nhiễm mới có lúc vượt ngưỡng 100.000 ca/ngày.

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

      Có thể lý giải tình hình trên đây bởi các cách tiếp cận khác nhau dẫn đến xác định không giống nhau về các loại nguyên nhân. Song trong một đề tài  nhỏ này em xin nêu ra một số nguyên nhân chính gây nên sự suy thoái kinh tế Nhật Bản trong những năm 90.
1.Những mâu thuẫn của một xã hội đầu cơ và sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng. Đây cũng có thể coi là nguyên nhân ngắn hạn trực tiếp dẫn đến suy thoái kinh tế hầu như kéo dài trong cả thập niên 90 của nền kinh tế Nhật Bản. Kinh tế bong bóng chính là nền kinh tế tăng trưởng cực nhanh của kinh tế Nhật Bản vào cuối thập niên 80, song đó không phải là tăng trưởng thực sự từ sự phát triển các hoạt động sản xuất của cải vật chất như các thời kỳ trước đó mà chủ yếu tăng trưởng giả tạo do sự đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu, các hàng hoá nghệ thuật có giá trị lớn. Đồng thời với hiện tượng đầu cơ này về phía chính phủ Nhật Bản vào những năm đó để đối phó với sự lên giá mạnh của đồng yên sau hiệp ước Plaza 1985 đã duy trì kéo dài một chính sách lãi suất cho vay thấp, khiến cho các hoạt động đầu tư buôn bán bất động sản, trái phiếu… càng ra tăng mạnh tạo nên sự tăng trưởng kinh tế cực nhanh vào cuối những năm 1980, cụ thể:

1986 1987 1988 1990
2,5% 4,6% 4,9% 5,5%

  Chính sự tăng trưởng quá mạnh này khiến nhiều nhà đầu tư bị chi phối bởi ý nghĩ không tưởng là nhất định hàng hoá của thị trường tiền tệ sẽ tăng trưởng theo thời gian và do đó càng kích thích họ đầu tư mạnh vào thị trường hàng hoá này. Đây chính là ảo tưởng về một nền kinh tế bong bóng, nó tăng cực nhanh như bong bóng xà phòng để rồi sụp đổ ngay trước mắt.Lo ngại trước sự gia tăng khác thường đó của nền kinh tế, chính phủ Nhật Bản thông qua hệ thống ngân hàng nhà nước đã vội vàng nâng cao lãi suất cho vay lên tới mức 6% kể từ ngày 30/8/1989 và liên tục giữ ở mức này cho tới ngày 1/7/1990. Ngay sau khi có biện pháp cực đoan này, nhu cầu vay tiền mua đất ,mua các tác phẩm nghệ thuật, cổ phiếu, chứng khoán đã không còn và giá cả các loại hàng này sụt xuống rất nhanh. Các doanh nghịệp, các nhà kinh doanh cá thể trước đó đã “chốt”dồn vốn đầu tư. (bằng vốn tự có, vốn vay ngân hàng, vốn do phát hành trái phiếu huy động vốn của các nhà đầu tư, của vốn nhàn rỗi trong dân chúng…) đều bị lâm vào tình trạng bi đát,không thể trả nổi khoản nợ do giá trị tài sản đầu tư tụt xuống . nền kinh tế bong bóng đã bị đổ vỡ hoàn toàn thay thế vào là tình trạng suy thoái, trì trệ kéo dài suốt cả thập niên 90 như đã thấy . Gánh chịu thiệt hại đầu tiên và cũng là nghiêm trọng nhất là hệ thống các ngân hàng và các công ty tài chính tín dụng . Tính đến cuối năm 1995 , nghĩa là sau 5năm nền kinh tế bong bóng bị đổ vỡ , đã có hàng loạt công ty bị phá sản ,không có tiền trả nợ ngân hàng, khiến cho tổng số nợ khó đòi của ngân hàng đã lên tới 40.000 tỷ yên (tương đương với 400 tỷ USD). Nhiều ngân hàng và công ty tài chính lâm vào cảnh hết sức khó khăn thậm chí bị đổ vỡ theo, trong đó có cả 11 ngân hàng vào loại mạnh nhất của Nhật Bản nhưng cũng là mạnh nhất của thế giới khi đó đã phải giảm tới 10% khả năng hoạt động trong 2 năm 1994, 1995. Riêng ngân hàng Sumitomo cũng vào loại lớn nhất thế giới ở thời điểm đó đã bị lỗ tới 3 tỷ USD vào đầu năm 1995. Tháng 4-1997 công ty bảo hiểm nhân thọ Nissan đã bị phá sản, mở đầu cho làn sóng phá sản của các tổ chức tài chính Nhật Bản đã xảy ra đồng loạt vào tháng 11 và 12 năm đó. Đó là sự kiện 5 tổ chức tài chính lớn nhất của Nhật Bản đã bị phá sản: Công ty chứng khoán Sanyo; Công ty chứng khoán Yamaichi; Công ty chứng khoán Maruso; ngân hàng Hokkaido Takushoku; ngân hàng Tokuyo đã bị phá sản, công ty chứng khoán Sanyo đã để lại món nợ 3000 tỷ yên, còn lớn hơn cả khoản nợ khó đòi của Nhật Bản ở Thái Lan. Các tổ chức còn lại: Yamaichi để lại món nợ 3000 tỷ yên,Maruso 46,34 tỷ yên, Hokkaido Takushoku 1,5 tỷ yên, Tokuyo 59 tỷ yên. Kinh tế suy thoái làm cho ngày càng có nhiều công ty không thanh toán được các khoản nợ đã vay ngân hang và do đó các ngân hàng không những không có tiền cho các khoàn vay mới mà nguy cơ phá sản cũng ngày càng tăng lên. Theo Cục kế hoạch kinh tế Nhật Bản (EPA) ước tính đến thời điểm năm 1998 tổng giá trị các khoản nợ khó đòi trong nước của ngân hàng đã lên tới 800 tỷ USD chiếm 20% tổng số tín dụng của toàn bộ hệ thống ngân hàng Nhà nước, cộng với khoảng 300 tỷ USD cho các nước châu Á khi đó đang bị khủng hoảng vay cũng có nguy cơ khó đòi. Tính đến trong năm 1998 đã có tới 19 ngân hàng hàng đầu Nhật Bản đều có số nợ lớn hơn số tài sản đăng ký. Đặc biệt trầm trọng là trường hợp ngân hàng tín dụng dài hạn Nhật Bản đã có số nợ rất lớn không thể xác định chính xác được và chỉ riêng trong năm 1998, để cứu vãn nguy cơ phá sản của ngân hàng này chính phủ đã phải chi hơn 400 tỷ USD… Tình trạng trên đã khiến cho giới đầu tư trong và ngoài nước không còn lòng tin đối với thị trường tài chính Nhật Bản. Ngay từ 1995, nhiều tổ chức kinh doanh tiền tệ của nước ngoài tại Nhật Bản đã rút khỏi Tokyo và chuyển sang thị trường tài chính khác ở châu á. Đồng thời với tình trạng bi đát của hệ thống các cơ quan tài chính tiền tệ là hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều công ty Nhật Bản cũng bị thua lỗ, dẫn đến phá sản. Tính đến năm 1995 đã có tới 15000 công ty của Nhật bị phá sản, Đặc biệt năm 1998 chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm số các doanh nghiệp phá sản đã lên tới con số 10262. Kinh tế suy thoái đã giáng cả vào những ngành công nghiệp mũi nhọn, trụ cột của nền kinh tế Nhật Bản  như: điện tử, tin học, cả 5 công ty sản xuất máy tính cá nhân lớn nhất của Nhật Bản là : Hitachi, Toshiba, điện cơ Mitsubishi,Matssusshita và Fujitsu đều bị sa sút trong sản xuất kinh doanh. Năm 1997 lợi nhuận của Hitachi bị giảm tới 90%; điện cơ Mitsubishi bị thua lỗ đến 40 tỷ yên. Năm 1999, như đã biết kinh tế Nhật Bản tuy có phục hồi trở lại song còn rất mong manh, chậm chạp, với tốc độ tăng trưởng khoảng 0,5%. Trong tình trạng đó hoạt động của các doanh nghiệp đã có phần nào bị thua thiệt, song nhìn chung lợi nhuận thu được vẫn chưa thể tăng trở lại như trước thời kỳ suy thoái. Chẳng hạn trong 6 tháng đầu năm tài chính 1999 doanh thu của Sogo Shaha hàng đầu Nhật Bản là Mitsubishi, Mitsui, Marubenni, Sumitomo, Itochu và Nissho_iwai đều  vẫn bị giảm thuế 2 con số. Trong đó lợi nhuận của Mitsubishi giảm 27,4%,Manubenni  giảm 53,6%, Mitsui giảm 10% và Sunitomo giảm 31,5% so với cùng kỳ năm ngoái…

2.Sự yếu kém, lạc hậu của hệ thống ngân hàng tài chính Nhật Bản .

         Đây là loại nguyên nhân dài hạn, cơ bản và trực tiếp khiến cho không những chính phủ Nhật Bản không thể khắc phục có hiệu quả sự đổ vớ nền kinh tế bong bóng vào đầu thập niên 90 mà từ đó còn làm kéo dài sự suy thoái kinh tế trong suốt những năm 1990. Chính sự yếu kém, lạc hậu của hệ thống ngân hàng tài chính Nhật Bản đã càng làm cho kinh tế Nhật Bản lâm vào khủng hoảng suy thoái đến đỉnh cao trầm trọng trong 2 năm 1997,1998 do sự tác động tiêu cực đồng thời của cuộc khủng hoảng tài chính  tiền tệ Đông  Á. Sự yếu kém, lạc hậu thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau: -          Hệ thống ngân hàng tài chính Nhật Bản đã nhiều năm chịu dưới sự kiểm soát chặt chẽ của bộ tài chính ngân hàng Nhật Bản là các cơ quan đại diện cho chính phủ Nhật Bản đã không còn phù hợp với điều kiện KHKT và tự do  cạnh tranh ngày nay.

-          Liên kết trong các quan chức chính phủ ( thuộc bộ tài chính, bộ công thương và ngân hàng Nhật Bản ) với giới doanh nghiệp tư nhân ( chủ yếu là các công ty lớn ) đã tỏ ra càng bị tha hoá, biến chất, dẫn đến các tệ nạn đầu cơ, tham nhũng, vụ lợi cá nhân trong khi lợi ích tập thể, Nhà nước bị thua thiệt không những thế còn làm tha hoá đẳng cấp chính trị Nhật bản 

Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu KC180 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết

Tài liệu này không có hình ảnh khác