Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Những bản nhạc jazz Việt Nam hay nhất. Jazz Việt Xưa. Top 9 những bài nhạc jazz hay nhất mọi thời đại mới nhất 2021. Top 7 những bài nhạc jazz hay nhất việt nam mới nhất 2021. TTO - Kỷ niệm Ngày jazz quốc tế, hãng đĩa Blue Note giới thiệu lại hơn 100 bản jazz hay nhất từ năm 1939 cho đến nay mà hãng từng phát hành.. Top 100 Blues/Jazz Hay Nhất - V.A - NhacCuaTui.

Show

Nội dung chính Show

  • Top 1: Top 100 Blues/Jazz Hay Nhất - V.A - NhacCuaTui
  • Top 2: Các bài hát Jazz hay nhất - Lời dịch
  • Top 3: Jazz albums kinh điển của mọi thời đại | VNAV
  • Top 4: Nhạc jazz là gì? Những bản nhạc jazz hay nhất mọi thời đại
  • Top 5: Jazz Việt Xưa - Nhac.vn
  • Top 6: Top 9 những bài nhạc jazz hay nhất mọi thời đại mới nhất 2021
  • Top 7: Vòng quanh nhạc jazz trong 80 năm - Tuổi Trẻ Online
  • Top 8: Vòng Quanh Nhạc Jazz Trong 80 Năm, Những Bản ... - thientulenh.vn

Top 1: Top 100 Blues/Jazz Hay Nhất - V.A - NhacCuaTui

Tác giả: nhaccuatui.com - Nhận 131 lượt đánh giá

Tóm tắt: TOP 100 Blues/Jazz là danh sách 100 bài hát hot nhất thuộc thể loại Blues/Jazz được nghe nhiều nhất trên NhacCuaTui. Danh sách bài hát này được hệ thống tự động đề xuất dựa trên lượt nghe, lượt share, lượt comment v.v của từng bài hát trên tất cả các nền tảng (Web, Mobile web, App). Top 100 Blues/Jazz sẽ được cập nhật hằng ngày dựa trên các chỉ số của tuần đó.rút gọn

Khớp với kết quả tìm kiếm: TOP 100 BluesJazz là danh sách 100 bài hát hot nhất thuộc thể loại BluesJazz được nghe nhiều nhất trên NhacCuaTui. Danh sách bài hát này được hệ thống tự ... ...

Top 2: Các bài hát Jazz hay nhất - Lời dịch

Tác giả: loidich.com - Nhận 78 lượt đánh giá

Tóm tắt: Các bài Jazz hay nhất 257,583 Đang phát bài số 1 . 1. Beautiful Girls . 2. Diary Of Love . 3. It's Now Or Never . 4. Lost In Paradise . 5. Thinking About You . 6. You Must Love Me . 7. Tears Dry On Their Own . 8. Happy Birthday .

Khớp với kết quả tìm kiếm: 1. Beautiful Girls · 2. Diary Of Love · 3. It's Now Or Never · 4. Lost In Paradise · 5. Thinking About You · 6. You Must Love Me · 7. Tears Dry On Their Own · 8. Happy ... ...

Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Top 3: Jazz albums kinh điển của mọi thời đại | VNAV

Tác giả: vnav.vn - Nhận 126 lượt đánh giá

Tóm tắt: Nghe nhạc như chúng ta không thể gọi là có phương pháp.Để tiếp cận những album Jazz bất hủ và sẽ tồn tại mãi mãi trong lịch sử âm nhạc thế giới thì đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận với các tạp chí chuyên ngành về Jazz hàng đầu thế giới. Hoặc những chuyên gia tầm cỡ thế giới về nhạc Jazz.Nghe như vậy là bước đầu đúng về phương pháp nhưng vẫn chưa đủ.Là người nghe Jazz, yêu Jazz nhiệt thành và thực sự khao khát những album đỉnh cao về nghệ thuật trong lịch sử Jazz thì cũng có nghĩa là phải làm việc

Khớp với kết quả tìm kiếm: Nghe nhạc như chúng ta không thể gọi là có phương pháp. Để tiếp cận những album Jazz bất hủ và sẽ tồn tại mãi mãi trong lịch sử âm nhạc thế ... ...

Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Top 4: Nhạc jazz là gì? Những bản nhạc jazz hay nhất mọi thời đại

Tác giả: rockandbluescruise.com - Nhận 124 lượt đánh giá

Tóm tắt: Blog âm nhạcĐã đăng vào 15/11/202002/03/2021 | bởiNhạc jazz là gì? Nhạc jazz có nguồn gốc từ đâu? Đặc trưng về tiết tấu, hợp âm của dòng nhạc này như thế nào? Khi phối nhạc có cần đệm thêm guitar hoặc piano để tăng thêm sự hấp dẫn không?… Tất cả những câu hỏi thắc mắc về nhạc jazz sẽ được chúng tôi giải đáp ngay sau đây.Nhạc jazz là gì?Jazz là thể loại âm nhạc bắt nguồn từ cộng đồng người châu Phi ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong suốt một hành trình dài phát triển cho đến nay thì

Khớp với kết quả tìm kiếm: 15 thg 11, 2020 — Xóm đêm – sáng tác: Phạm Đình Chương · Thì thầm mùa xuân – sáng tác Bảo Châu · Tình hờ – sáng tác Phạm Duy · Take Five – Atlantic Five Jazz Band. ...

Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Top 5: Jazz Việt Xưa - Nhac.vn

Tác giả: nhac.vn - Nhận 70 lượt đánh giá

Tóm tắt: Chia sẻ qua: . hoặc . Link . Embed Jazz Việt Xưa Người tạo: . Nhac.vn . Thể loại: Trữ Tình . Jazz Việt Xưa đậm dấu ấn thời gian nhưng vẫn mang màu sắc tươi mới, không tuổi. Chia sẻ Video này được phát từ Youtube bằng tính năng nhúng (embed) của Youtube Chủ sở hữu video đang cài đặt chế độ cho phép nhúng video. Nếu bạn là chủ sở hữu, và muốn Nhac.vn dừng nhú

Khớp với kết quả tìm kiếm: Liên khúc nhạc Jazz Việt Nam mp3 bất hủ, nghe - tải nhạc Jazz có lời - không lời, hay nhất mọi thời đại chất lượng cao nhất. ...

Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Top 6: Top 9 những bài nhạc jazz hay nhất mọi thời đại mới nhất 2021

Tác giả: newthang.com - Nhận 173 lượt đánh giá

Tóm tắt: . Top 9 những bài nhạc jazz hay nhất mọi thời đại mới nhất 2021 viết bởi Top Thủ Thuật 2021-11-18 20470 ... 1. Tổng hợp 10 bài nhạc jazz hay tuyệt vời, giúp thư giãn đầu óc . Tác giả:www.bachhoaxanh.com . Ngày đăng:7/6/2021 . Đánh giá:1 ⭐ ( 64032 lượt đánh giá ) . Đánh giá cao nhất:5 ⭐ . Đánh giá thấp nhất:1 ⭐ . Tóm tắt:Nhạc Jazz từ lâu đã được biết đến như một “người bạn tinh thần” trong cuộc sống tất bật, nhiều áp lực, và lo toan như hiện

Khớp với kết quả tìm kiếm: 18 thg 11, 2021 — Top 100 Blues/Jazz Hay Nhất - V.A - NhacCuaTui; 3. Nhạc jazz là gì? Những bản nhạc jazz hay nhất mọi thời đại; 4. Các bài hát Jazz hay nhất ... ...

Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Top 7: Vòng quanh nhạc jazz trong 80 năm - Tuổi Trẻ Online

Tác giả: tuoitre.vn - Nhận 132 lượt đánh giá

Tóm tắt: TTO - Kỷ niệm Ngày jazz quốc tế, hãng đĩa Blue Note giới thiệu lại hơn 100 bản jazz hay nhất từ năm 1939 cho đến nay mà hãng từng phát hành. Một cách tiếp cận khác với jazz Giải Grammy Adam Schlesinger và biểu tượng Jazz Ellis Marsalis Jr. qua đời vì COVID-19 Jazz Sài Gòn đón nghệ sĩ saxophone Ý -Enzo Favata Những ngôi sao nhạc jazz (từ trái qua): Lee Morgan, Herbie Hancock, Art Blakey, John Coltrane và Wayne Shorter - Ảnh: The New York TimesNế

Khớp với kết quả tìm kiếm: 3 thg 5, 2020 — TTO - Kỷ niệm Ngày jazz quốc tế, hãng đĩa Blue Note giới thiệu lại hơn 100 bản jazz hay nhất từ năm 1939 cho đến nay mà hãng từng phát hành. ...

Top 10 album nhạc jazz hay nhất năm 2022

Top 8: Vòng Quanh Nhạc Jazz Trong 80 Năm, Những Bản ... - thientulenh.vn

Tác giả: thientulenh.vn - Nhận 134 lượt đánh giá

Tóm tắt: Top 100 Blues/Jazz Hay Nhất - V.A - NhacCuaTuiTOP 100 BluesJazz là danh sách 100 bài hát hot nhất thuộc thể loại BluesJazz được nghe nhiều nhất trên NhacCuaTui. Danh sách bài hát này được hệ thống ...Www.nhaccuatui.com 8 phút trước 1 LikeTổng hợp 10 bài nhạc jazz hay tuyệt vời, giúp thư giãn đầu ócHãy cùng đến với 10 bài nhạc jazz hay tuyệt vời, giúp thư giãn đầu óc trong ... Để giúp bạn có thêm gợi ý cho buổi sáng tuyệt vời của mình, Bách hóa XANH ... vết thương tâm hồn, Blue In Green là một ki

Khớp với kết quả tìm kiếm: 12 thg 9, 2021 — Top 100 Blues/Jazz Hay Nhất - V, A - NhacCuaTui TOP 100 BluesJazz là danh sách 100 bài hát hot nhất thuộc thể loại BluesJazz được nghe nhiều ... ...

Compiling a list of the best jazz albums of all time is a nigh-on impossible task. With such a variety of styles to choose from – and no shortage of musicians who have contributed several groundbreaking works to the development of jazz – it quickly becomes clear that a mere handful of artists, or subgenres, could easily dominate the list.

With that in mind, we’ve tried to make room for a wide array of musicians, styles – and reasons – for inclusion in this list of the best jazz albums of all time. Hopefully, this means our selections are as rich, varied – and perhaps surprising – as the history of jazz itself.

We’re sure you’ll have your own favorite albums. Let us know in the comments section what you think we’ve missed out – and why.

Check out some of the greatest jazz albums on vinyl here.

In the meantime, these jazz albums are essential for anyone looking to start a collection, or to go beyond classics they already know.

81: Frank Sinatra: Sinatra at the Sands (Reprise)

Sinatra At The Sands was recorded at a time when long-haired pop and rock groups – epitomized by The Beatles and The Beach Boys – were changing the face of music. 1966 was, after all, the age of game-changing albums such as Revolver and Pet Sounds, but in the Copa Room, in Sinatra’s presence, none of that seemed to matter. The audience were in Frank’s world, where the music swung, the songs were timeless, the jewelry dazzled and the booze flowed. Time stood still.
Key track: “Angel Eyes”

Angel Eyes (Live At The Sands Hotel And Casino/1966)

Click to load video

80: Pat Metheny: Bright Side Life (ECM)

Largely ignored and selling barely 1,000 copies on its release in January 1976, the Missouri guitar magus’ debut jazz album gradually grew in stature and went on to be regarded as a post-bop masterpiece. Metheny was just 21 and teaching at Boston’s Berklee School of Music when ECM producer Manfred Eicher, who had heard him play with vibraphonist Gary Burton’s group, recorded the young guitarist with fretless bass maven Jaco Pastorius and drummer Bob Moses. What resulted was a thrilling showcase for Metheny’s clear-toned, flowing virtuoso style which was defined by elliptical melodic filigrees, liquid improv and flights of untrammeled lyricism. Over the course of Metheny’s career, he would go on to make far more ambitious albums but Bright Size Life stands out for its winning combination of youthful energy and masterly assuredness.
Key track: “Bright Size Life”

79: Metropole Orkest feat. John Scofield: 54 (Emarcy)

Six-time Grammy winning American arranger Vince Mendoza is renowned for his collaborations with pop and rock acts (Björk, Joni Mitchell) but he’s also worked his magic with jazz performers. Leading Holland’s redoubtable Metropole Orkest, in 2010 Mendoza invited US jazz-rock guitarist Scofield to guest on 54, which presented seven widescreen adaptations of tunes from Scofield’s back catalogue as well as two original numbers. The contrast between Scofield’s acerbic, gnarly guitar lines and the pointillistic detail of Mendoza’s orchestrations offers a juxtaposition of tones and textures that is thrillingly dramatic. The set’s highlights include the pent-up symphonic opener, “Carlos,” oscillating between tension and resolution, and “Out Of The City,” which exudes a metropolitan swing feel. A scintillating contemporary take on big band, and one of the greatest jazz albums of all-time.
Key track: “Carlos”

78: Art Tatum: Piano Starts Here (Columbia)

From Toledo, Ohio, the visually impaired Art Tatum set an impossibly high bar for jazz piano playing between 1933, when he made his first recordings, to his death in 1956. The 1968 compilation, Piano Starts Here, offers a rewarding snapshot of Tatum’s jaw-dropping technique and sparked a revival of interest in Tatum’s music twelve years after his death. It featured his first four studio sides – including wonderfully flamboyant renditions of “Tea For Two” and “Tiger Rag” – augmented by scintillating live recordings recorded at LA’s Shrine Auditorium from 1949. Such is Tatum’s genius that he transforms his source material into virtuosic mini concertos, packed with dizzying melodic cascades, inventive substitute chords, and piston-like left-hand accompaniments.
Key track: “How High The Moon”

77: Christian Scott a Tunde Adjuah: The Emancipation Procrastination (Ropeadope/Stretch Music)

Though the history of jazz can be heard in his trumpet playing – from the brash ebullience of Louis Armstrong to the introspective melancholy of Miles Davis and the incandescent virtuosity of Dizzy Gillespie – this New Orleans musician has created a unique and unclassifiable musical hybrid. In the last decade, he has consistently pushed the jazz envelope with albums like the politically charged The Emancipation Procrastination, which fuses alt rock, African music, hip-hop and ambient flavors to arrive at a sound that defies pigeonholing and which Adjuah describes as “Stretch Music.” The inaugural release in his acclaimed Centennial Trilogy, the album offers an immersive listening experience that is a stunning showcase of the horn blower’s polyglot style; where his mournful, elegant trumpet melodies are framed by a blend of filmic soundscapes and stuttering trap grooves.
Key track: “Ashes Of Our Forever”

76: Michael Brecker: Pilgrimage (Heads Up)

This Pennsylvanian tenor saxophonist rose to fame playing jazz-funk in the 70s with his elder sibling Randy in the Brecker Brothers but also carved out a career as a first call sideman for rock artists that ranged from John Lennon to Steely Dan. Pilgrimage was Brecker’s final solo album, recorded during 2006 in the stellar company of Pat Metheny, Herbie Hancock, Brad Mehldau, John Patitucci, and Jack DeJohnette. Though he was terminally ill at the time, Brecker’s playing is wonderfully vibrant and brimming with a life-affirming vigor. By the time the record was released, Brecker had passed away but this great jazz album stands as an enduring monument to his genius. It also won him two posthumous Grammy awards.
Key track: “When Can I Kiss You Again”

75: Cécile McLorin Salvant: Dream & Daggers (Mack Avenue)

Blessed with a sweetly soulful voice, this groundbreaking Miami chanteuse, born to a French mother and Haitian father, picked up Best Jazz Vocal award at the 2018 Grammys for Dreams & Daggers; an enterprising 34-track double album that contrasts live performances capturing her at New York’s iconic Village Vanguard venue with studio recordings featuring a string quartet. It’s also an album of juxtapositions in other ways; between vintage jazz songs (“Mad About The Boy”) and freshly minted self-penned numbers (“Red Instead”), which the singer weaves into a coherent storytelling narrative that examines the vicissitudes of love and life. Dreams & Daggers is a masterwork that thrust McLorin Salvant into the pantheon of great jazz singers.
Key track: “Never Will I Marry”

74: Brad Mehldau Trio: Anything Goes (Warner)

Together with bassist Larry Grenadier and drummer Jorge Rossy, this prolific classically-trained pianist expanded the parameters of the piano trio format in a fertile ten-year spell between 1995 and 2005. This 2004 album is the best of the jazz trio’s output, reflecting their deconstruction-style approach to both jazz standards and pop-rock songs. The highlights range from the evergreen “Get Happy” and “Smile,” which are both transfigured into agitated numbers distinguished by prickly dissonances, and a brooding reading of Radiohead’s “Everything In Its Right Place.” Throughout the set’s ten songs, the interplay between the three musicians seems to be operating at a heightened, ESP-like level, achieving a oneness of musical thought and purpose that recalls the early 60s Bill Evans trio at its peak.
Key track: “Everything In Its Right Place”

73: Maria Schneider Orchestra: Data Lords (Artist Share)

Serving her musical apprenticeship with the legendary arranger Gil Evans in the 70s, this Minnesota-born composer, orchestrator and conductor rose to become the undisputed doyenne of large canvas jazz and has been leading her own orchestra since 1992. A seven-time Grammy winner, Schneider’s 2020 opus, Data Lords, is arguably her most ambitious project; an epic double concept album that explores the uneasy intersection of the digital and natural worlds and though a series of exquisite tone poems offers an eloquent critique of surveillance capitalism and the dark side of technological advancements. Like the great Duke Ellington before her, Schneider writes much of her music with specific band musicians in mind. A landmark album in contemporary big band jazz.
Key track: “Sputnik”

72: Ambrose Akinmusire: When The Heart Emerges Glistening (Blue Note)

The 2007 winner of the prestigious Thelonious Monk Institute’s International Jazz Award, Oakland-born Akinmusire is a versatile, technically accomplished trumpeter who is just as comfortable producing breathy, mellow, low-end sounds as he is blowing stratospheric high notes. Though his inclusion of the standard “What’s New” on this 2011 album, his Jason Moran-produced Blue Note debut, showed that he was rooted in the jazz tradition, the album revealed him to be a forward-thinking conceptualist whose music is fiercely contemporary. He also isn’t afraid to articulate socio-political concerns; “My Name Is Oscar,” a powerful spoken-word piece with drum accompaniment, highlights the unjust death of a young African-American man murdered by the LAPD in 2009.
Key track: “Confessions to My Unborn Daughter”

Confessions To My Unborn Daughter

Click to load video

71: Gregory Porter: Be Good (Motema)

Before this satin-voiced “jazz cat in a hat” became a household name in America and Europe after his 2013 album Liquid Spirit broke him into the mainstream, Bakersfield-born Porter was largely a cult figure who only figured on the radar of the jazz cognoscenti. Even though his debut album, Water, was nominated for a Grammy, it was with his second long-player, 2012’s Be Good that he began to build a devoted following. Fusing jazz with soul, blues and gospel flavors, Porter showed he had songwriting skills to match his rich mellifluous baritone voice. From silky ballads to energised uptempo numbers, Be Good revealed that Gregory Porter had substance as well as style.
Key track: “On My Way To Harlem”

70: Kenny Burrell: Midnight Blue (ghi chú xanh)

Một trong những nghệ sĩ guitar jazz vĩ đại nhất mọi thời đại, Detroiter Burrell xuất sắc đã ra mắt bản thu âm với Trumpeter Dizzy Gillespie vào năm 1951 và từ đó nhanh chóng được tìm kiếm như một người phụ nữ. Album đầu tiên của ông với tư cách là một nhà lãnh đạo xuất hiện ngay sau đó, vào năm 1956, khi Burrell gia nhập nhãn Alfred Lion Lion Blue Note; Công ty nơi anh ta cắt Magnum Opus của mình, Midnight Blue, bảy năm sau đó. Được hỗ trợ bởi những cơn khói khói của nghệ sĩ saxophone tenor Stanley Turrentine, Burrell đào sâu vào Blues, mang đến những bản solo trang nhã trong đó sự cân bằng giữa kỹ thuật hoàn hảo và biểu hiện cảm xúc là hoàn hảo. Ray Barretto, Congas thêm hương vị Latin, đáng chú ý là trên dụng cụ mở tinh hoa, Chitlins Con CARNE, và Loping Wavy Havy.
Key track: “Chitlins Con Carne”

69: Chet Baker - Chet Baker & Crew (Pacific Jazz)

Được coi là cậu bé áp phích của Jazz Jazz West Coast Cool School, người thợ làm bánh sinh ra ở Oklahoma đã trở nên nổi tiếng với bộ tứ Gerry Mulligan vào năm 1952, quyến rũ những người nghe với sự kết hợp của những giai điệu thổi kèn tuyệt đẹp của anh Giọng hát của anh ấy vắng mặt trong lời đề nghị năm 1956 này, nhưng nó vẫn là một trong những album thỏa mãn nhất mà anh ấy đã thu âm cho nhãn hiệu Jazz Pacific mang tính biểu tượng của Dick Bock. Mặc dù anh ta vừa trở về từ một tour du lịch châu Âu mệt mỏi, Baker - dẫn đầu một nhóm bao gồm nghệ sĩ saxophone tenor Phil Urso và nghệ sĩ piano Bobby Timmons - chơi với cả sức sống và sức sống, đặc biệt đáng chú ý trong bộ mở màn của Zippy, bộ nhớ của Mickey, một Ca khúc vwing khó khăn được tăng cường bởi dấu vết sắc màu kỳ lạ của Bill Loughborough.
Key track: “To Mickey’s Memory”

68: Alice Coltrane - Hành trình ở Satchidananda (Impulse!)

Sau quỹ đạo ngày càng tâm linh của chồng John, Mid-Mid60s, Alice Coltrane kết hợp nhạc jazz phương thức với một cuộc thám hiểm âm nhạc Nam Á và siêu hình học phương Đông để tạo ra giọng hát đặc biệt của riêng mình. Không có album là biểu tượng cho phong cách duy nhất của cô ấy tốt hơn, có lẽ, hơn Opus năm 1970 này, chuyến đi chơi solo thứ tư của cô ấy cho sự thúc đẩy! Records, trong đó có bốn bài hát được ghi trong phòng thu tại nhà của cô và một bản ghi âm trực tiếp tại Cổng làng New York. Cecil McBee chắc chắn nhưng bass dễ dãi là lynchpin trên bốn vết cắt của studio, cung cấp nền tảng âm nhạc mà Coltrane và đoàn quân của cô xây dựng các tòa nhà được xây dựng bằng harp glissandi, piano bluesy chạy của Pharoah Sanders). Nó là một trong những album nhạc jazz vĩ đại nhất từng được ghi lại. Bài hát: Hành trình của Hồi ở Satchidananda,
Key track: “Journey In Satchidananda”

67: Oscar Peterson: Night Train (Verve)

Được mô tả bởi Duke Ellington là người Maharajah của bàn phím, Peterson sinh ra ở Montreal Montreal nổi tiếng với phong cách piano Florid mở rộng tính thẩm mỹ của người cố vấn của mình, The Great Art Tatum. Khung cảnh ưa thích của Peterson là định dạng bộ ba nhạc jazz, trong đó anh là người tiên phong, và một số người tin rằng đã đạt đến sự bào chế trên LP, Night Train năm 1963 của anh Sự hiệp thông trên một bộ sưu tập hoàn hảo của các tiêu chuẩn và nhạc blues. Mặc dù nổi tiếng với màn hình Bravura về kỹ thuật, Peterson cũng thể hiện sự tinh tế và kiềm chế trong một album đánh giá cao về bản nhạc thiên tài không thể nghi ngờ của anh ấy.
Key track: “C Jam Blues”

66: Ella Fitzgerald: Sings the Cole Porter Songbook (Verve)

Đây là album năm 1956 đã hoàn thành kế hoạch tổng thể xảo quyệt của Fitzgerald, sau đó là người quản lý, nhà sản xuất và nhạc jazz Norman Norman Granz, người muốn biến Protégé 39 tuổi của mình từ một ca sĩ jazz sùng bái thành một tên hộ gia đình quốc tế. Anh ấy đã đạt được điều đó bằng cách khám phá tác phẩm của một trong những nhà soạn nhạc ưu việt của American Songbook, trong suốt quá trình của một LP đôi 29 bài hát. Được phát hành như là bản phát hành khai mạc của nhãn Verve mới được hình thành của Granz, nó đã đạt được sự cân bằng giữa khả năng tiếp cận nhạc pop và biểu hiện nhạc jazz nhờ sự kết hợp giữa giọng hát hoàn hảo của Fitzgerald và Buddy Bregman, sắp xếp.
Key track: “Ev’ry Time We Say Goodbye”

Thời gian chúng ta nói lời tạm biệt

Bấm để tải video

65: Wayne Shorter: Emanon (ghi chú xanh)

Ngay cả ở tuổi 86, nghệ sĩ saxophone kỳ cựu Wayne Shorter cũng không có nội dung để nghỉ ngơi trên vòng nguyệt quế của mình và năm 2018 đã phục vụ một trong những album nhạc jazz hay nhất trong năm. Nổi tiếng với việc cấp bằng sáng chế cho một cách tiếp cận bình dị với sáng tác, sự khác biệt khác đã đạt đến sự bào chế của nó với Emanon, một album ba bí truyền cũng tăng gấp đôi như một cuốn tiểu thuyết đồ họa mô tả cuộc phiêu lưu của một siêu anh hùng đi qua nhiều người chiến đấu. Đĩa đầu tiên tìm thấy ngắn hơn và bộ tứ của anh ấy tham gia vào các bản giao hưởng hoành tráng với bộ đồng phục buồng Orpheus trong khi phần còn lại của album được thể hiện bằng những màn trình diễn trực tiếp cho tâm trí minh họa cho Synergy đáng kinh ngạc mà nghệ sĩ saxophone và ban nhạc của anh ấy tạo ra trên sân khấu. : “Prometheus không bị ràng buộc”
Key track: “Prometheus Unbound”

64: Wynton Marsalis: Mã đen (từ dưới lòng đất) (Columbia)

Người thổi kèn sinh ra ở New Orleans và cựu sứ giả nhạc jazz Marsalis-một nhà phê bình thẳng thắn của Jazz Fusion và The Avant-Garde-đã được một số người theo đạo Jazz đương đại coi là một số người xuất hiện trong năm 1982 , Âm thanh của âm nhạc. Album có sự tham gia Về ngôn ngữ âm nhạc xác định tình huống khó xử của Uptempo Delfeayo và bản ballad trữ tình hình elip Oasis Oasis Oasis, nơi mà Marsalis 23 tuổi tắt tiếng kèn của mình để cho nó một âm sắc giống như một dặm. Branford Marsalis, xen kẽ giữa saxophones tenor và soprano, hoạt động như một lá bạc giống như Wayne cho anh chị em của mình, tạo ra một cuộc đối thoại đang bắt giữ, đang gầm gừ trong suốt.KEY
Key track: “Black Codes”

63: Ahmad Jamal: Tại Pers Breath: nhưng không phải cho tôi (Argo)

Một nghệ sĩ piano Pittsburgh lưu ý vì cảm giác tinh tế, những dòng giai điệu kết tinh và sử dụng không gian ấn tượng, Jamal 27 tuổi tìm thấy mình với một album bán hàng triệu Các biểu đồ LP Hoa Kỳ. Các tài liệu do Jamal và bộ ba của anh ấy chơi (với sự kết hợp đáng gờm của tay bass Israel Crosby và Drummer Vernel Fournier) từ những người đi xe đạp Uptempo (Hồi Surrey với phần rìa trên đỉnh) Trong số các bài hát pop Poinciana kỳ lạ, một bài hát pop tối nghĩa của những năm 1930 được điều khiển bởi những nhịp điệu Afro-Cuban đã trở thành giai điệu đặc trưng của Jamal. Một ví dụ sống động về Jamal xông vào ít hơn là thẩm mỹ hơn, giai điệu đã được hồi sinh trên nhạc phim cho bộ phim Clint Eastwood năm 1995, The Bridges of Madison County.Key Track: Hồi Poinciana Hồi
Key track: “Poinciana”

62: Pharoah Sanders: Karma (Impulse!)

Một môn đệ của John Coltrane, trong ban nhạc mà ông chơi từ năm 1965 đến 1967, nghệ sĩ saxophone và du khách Astral này là một kiến ​​trúc sư quan trọng của những gì được gọi là nhạc jazz tâm linh, một sự pha trộn khám phá của sự khác Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70. Có thể cho rằng album vĩ đại nhất của anh ấy, Karma là người chơi dài thứ hai của Sanders, cho sự thúc đẩy! và chỉ chứa hai bài hát; Một thiền định trong 33 phút hoành tráng có tên là The Creator có kế hoạch tổng thể, có sự tham gia của một ca sĩ tiên phong giống như thần chú, người ca sĩ tiên phong, người có tông màu cộng hưởng cũng vang lên của bộ gõ Sibilant.Key Track: Người sáng tạo có kế hoạch tổng thể
Key track: “The Creator Has A Master Plan”

61: Bộ tứ Dave Holland: Hội nghị về chim (ECM)

Sau khi chơi Bass với Miles Davis trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến 1970, Holland sinh ra ở Wolverhampton đã hợp tác với bàn phím Chick Corea để thành lập nhóm Avant-Garde Group Circle trước khi bắt đầu sự nghiệp solo vào năm 1973 với hội nghị LP đầu tiên của anh. Người chơi Reed Circle Anthony Braxton và tay trống/bộ gõ Barry Altschul đã hợp tác với Hà Lan trong album cùng với nghệ sĩ saxophone/Flautist Sam Rivers; Kết hợp tài năng của họ để tạo ra một album nhạc jazz miễn phí với lông với phát minh nhưng cũng có những khoảnh khắc tiếp cận bắt tai. Sáu bản nhạc của nó bao gồm từ sự cuồng nhiệt sau bop (Four Four Winds, và See See-Saw) cho đến các cuộc trò chuyện âm nhạc bốn chiều phân tán (Câu hỏi Q & A), Triển lãm lửa Bây giờ ở đây (không ở đâu)).
Key track: “Four Winds”

60: Bộ tứ nhạc jazz hiện đại: Người phụ nữ cô đơn (Đại Tây Dương)

Nghệ sĩ piano của bộ tứ nhạc jazz hiện đại John Lewis là một nhà vô địch đầu tiên của Ornette Coleman, nhà cách mạng nhạc jazz miễn phí từ Fort Worth, nhưng vẫn còn một điều ngạc nhiên khi nhóm - nổi tiếng với phong cách Jazz thính phòng thanh lịch của nó bị ảnh hưởng bởi âm nhạc cổ điển - sẽ khiến cho The Cổ điển Người phụ nữ cô đơn của nghệ sĩ saxophone Texan, ca khúc chủ đề của LP năm 1962. Kết xuất hồi hộp của MJQ, mở ra album, tiết lộ rằng giai điệu ám ảnh Coleman, sở hữu một vẻ đẹp phổ quát; Cuộc đối thoại giữa Piano Lewis, và những rung cảm lấp lánh của Milt Jackson, có chất lượng thanh tao, mặc dù phòng máy của tay bass Percy Heath và tay trống Connie Kay vẫn giữ được âm nhạc. Ở những nơi khác trong album, âm nhạc rất đa dạng, từ scherzos (Dance Animal Dance,) đến những bản ballad duyên dáng (Hồi New York 19,) và vui vẻ
Key track: “Lonely Woman”

59: Coleman Hawkins: Coleman Hawkins gặp Ben Webster (Verve)

Người đàn ông đã phát minh ra bản solo saxophone ngẫu hứng trong bản thu âm năm 1939 của mình về Body Body & Soul Cả hai người chơi đều có những âm thanh khác nhau-giọng điệu của Hawkins mượt mà hơn so với Growl Breathy của Webster-nhưng họ đã chia sẻ tình yêu với The Blues, được phản ánh trong cách họ kết hợp sừng của họ trên số mở đầu, một shuffle dễ dàng có tên là Blues Blues cho Yolande. Dẫn đầu một ban nhạc toàn sao bao gồm nghệ sĩ piano giải Oscar Peterson và tay bass Ray Brown, cặp đôi thể hiện sự tinh tế lớn hơn trong sáu bài hát còn lại, từ Tangos Latin (Hồi Rosita,) đến các tiêu chuẩn đu đưa (bạn rất vui Trở về nhà với "). Theo dõi chính:" Tangerine "
Key track: “Tangerine”

58: Roy Hargrove Quintet: Earfood (Emarcy)

Cái chết của Hargrove, vào tháng 11 năm 2018 ở tuổi 49 đã cướp đi thế giới nhạc jazz đương đại của một trong những người thổi kèn tài năng hàng đầu của nó. Danh tiếng trở nên nổi tiếng vào những năm 1990 cùng với những người đồng nghiệp Young Young, những người saxophone Joshua Redman và Branford Marsalis, Hargrove sinh ra ở Texas là một người sùng bái đam mê của Neo-Hard Bop nhưng cũng say mê với âm nhạc Afro-Cuban và R & B-Funk-Funk. 2008 Voi Earfood là một phiên đi thẳng về phía trước trong bối cảnh bộ tứ nơi Hargrove, những dòng sừng ly kỳ - cả mở và tắt tiếng - cân bằng độ chính xác kỹ thuật với trí tuệ cảm xúc. Các strasbourg/st. Denis, là một bản cập nhật của Jazz Soul nhuốm màu thập niên 60 trong khi đó là The Stinger, là một trò chơi gây quỹ mà Art Blakey sẽ tự hào. Denis ”
Key track: “Strasbourg/St. Denis”

57: Freddie Hubbard: Đỏ đỏ (CTI)

Một người thổi kèn rực rỡ trong khuôn mẫu của Lee Morgan, Hubbard sinh ra ở Indianapolis đã ghi lại cho Blue Note, Impulse! và Atlantic trước khi hạ cánh tại nhà sản xuất nhạc jazz CREED Taylor's Label của CTI vào năm 1970. Tác phẩm ra mắt của anh cho công ty đã tìm thấy Hubbard trong công ty xuất sắc với những người phụ nữ tầm cỡ của nghệ sĩ saxophone Joe Henderson, nghệ sĩ piano Herbie Hancock, tay bass Ron Carter, và tay trống 21 tuổi Lenny Lenny Lenny Trắng. Ca khúc chủ đề, với sự thú vị thú vị, được dựa trên các thay đổi hợp âm đối với giai điệu linh hồn của Bobby Hebb, Sunny Sunny, và có những bản solo gây chú ý của hai chiếc sừng và piano Hancock. The Bluesy Del Del Delphia, cho thấy sự nhạy cảm của Hubbard, với tư cách là một người thích ballade trong khi đó, The The The Fox Fox Hồi là một màn trình diễn đẩy cho người thổi kèn
Key track: “Red Clay”

56: Kamasi Washington: The Epic (Brainfeeder)

Sau ba album tự phát hành phần lớn, nghệ sĩ saxophone tenor Los Angeles này-người trước đây đã sống như một người phụ nữ cho Snoop Dogg và Lauryn Hill-đã phá vỡ dòng chính như Supernova vào năm 2015 với Epic, một album ba người rộng lớn hơn hơn sống theo tiêu đề của nó. Washington đưa người nghe vào một hành trình mê hoặc thông qua các cảnh quan âm thanh đa dạng, nơi Jazz vũ trụ khám phá va chạm với chủ nghĩa thần bí võ thuật. Masterstroke là Washington, sử dụng một dàn nhạc và một dàn hợp xướng, mang lại cho âm nhạc một cuộc sống lớn hơn cuộc sống, chiều rộng chiều rộng. Album không chỉ đưa sự nghiệp của Washington lên một cấp độ khác, mà còn truyền cảm hứng cho sự hồi sinh nhạc jazz tâm linh và thu hút những người trẻ tuổi đến theo dõi thể loại.
Key track: “Change Of The Guard”

55: Chick Corea & trở lại mãi mãi: Ánh sáng như một chiếc lông vũ (Polydor)

Trước khi họ mang đến một tay guitar điện, đã đưa âm lượng lên mười một và chấp nhận nhạc jazz, Chick Corea, trở lại mãi mãi đã chơi một loại hợp nhất nhạc jazz truyền thống Latin lịch sự hơn. Sau khi ra mắt LP cho ECM vào năm 1972, họ đã phát hành ánh sáng tinh tế như một chiếc lông vũ vào năm 1973. với ca sĩ người Brazil Flora Purim, chồng cô, tay trống/bộ gõ Airto Moreira, nghệ sĩ saxophone Joe Farrell và tay bass kép Stanley Clarke, ban nhạc Các bài hát trong hình dạng của tiêu đề thanh tao cắt, Mercurial Captain Captain Marvel, Hồi giáo Trippy 500 dặm cao và sử thi gần hơn, Tây Ban Nha, nơi Corea cấu hình lại chủ đề chính từ nhà soạn nhạc Tây Ban Nha của nhà soạn nhạc tiếng Tây Ban Nha Rodrigo. Chỉ có Corea và Clarke mới tồn tại cho ban nhạc tiếp theo của ban nhạc nhưng đội hình trên ánh sáng như một chiếc Feather chịu trách nhiệm cho một trong những album nhạc jazz hay nhất từ ​​trước đến nay.
Key track: “Spain”

54: Dizzy Gillespie, Sonny Rollins, Sonny Stitt: Sonny Side Up (Verve)

Sự hợp tác giữa kiến ​​trúc sư Bebop Gillespie và hai Charlie Parker Acolytes, Sonny Side Up đã tạo ra người thổi kèn kỳ cựu chống lại các ngôi sao nghệ sĩ saxophone đang lên Stitt (Alto) và Rollins (Tenor) trong bối cảnh phiên gây nhiễu không chính thức. Chỉ có bốn bài hát nhưng phiên 1957 không phải là ngắn về chất lượng; Sự độc tấu từ các nhân vật chính là cảm hứng đáng kinh ngạc, đặc biệt là trên Tam giác của Typt Penned the Eternal Tames của những năm 1940 và 50. Rollins và Stitt rất ấn tượng, nhưng khi Gillespie bước vào và thổi chúng đi, điều hiển nhiên là họ vẫn còn nhiều điều để học.
Key track: “The Eternal Triangle”

53: Jackie McLean: Destination … Out! (Blue Note)

A bebop disciple who wasn’t afraid to venture to jazz’s far side, alto saxophonist Jackie McLean was in an experimental mode in the early 1960s, pushing the hard bop aesthetic to breaking point with a series of increasingly progressive albums for Blue Note. His most outré offering was Destination … Out!, a remarkable session featuring rising young jazz stars trombonist Grachan Moncur III (who contributes two of the set’s four tunes), and vibraphonist Bobby Hutcherson, along with bassist Larry Ridley and the versatile drum maestro Roy Haynes. The haunting ballad “Love and Hate” exudes an otherworldly beauty while the episodic “Esoteric” begins as a macabre waltz. Only the final cut, the gently swinging “Riff Raff,” doffs its cap to hard bop on what is an ambitious but hugely impressive recording.
Key track: “Love and Hate”

52: Billie Holiday: Lady In Satin (Columbia)

In terms of its timbre, “Lady Day’s” voice – raspy, careworn, and ravaged by years of drugs and alcohol abuse – was past its best when she came to record her final LP, 1958’s Lady In Satin, a collection of ballads orchestrated by Ray Ellis. Even so, Holiday’s vocal imperfections are part of the album’s allure, revealing a vulnerability that gives the album added poignancy. Arranger Ellis cradles Holiday’s fragile voice with lush cushions of sound though they can’t disguise the compelling emotional nakedness of the singer’s performances. Melancholy and bittersweet but flecked with fleeting nuggets of joy, Lady In Satin comes across as a wistful reminiscence of a life well-lived; a fitting epitaph for one of jazz’s greatest storytellers.
Key track: “You’ve Changed”

51: Django Reinhardt – Retrospective 1934-53 (Saga)

Given that most of Reinhardt’s seminal recordings preceded the long-playing LP and came out as 78 rpm singles, the best way to appreciate the Belgian guitar-playing gypsy’s music is to seek out a compilation album. There are, however, hundreds to choose from but Retrospective, a 3-CD set from 2004, is a career-spanning anthology that opens with Reinhardt’s seminal Quintette du Hot Club de France sides (with violinist Stephane Grappelli) from the 1930s and goes right up to his 1950s electric guitar forays. A compelling portrait of one of jazz’s most gifted musicians and improvisers.
Key track: “Limehouse Blues”

50: Thelonious Monk: Genius Of Modern Music Vols.1 & 2 (Blue Note)

Nobody wanted to take a chance on signing pianist/composer Thelonious Monk when he emerged on the New York jazz scene in the late 40s. Dubbed “The High Priest Of Bop,” his idiosyncratic music, with its advanced musical vocabulary of asymmetrical melodies and dissonant cluster chords, was deemed too outré for mainstream tastes. But then Alfred Lion of Blue Note Records heard Monk, recognised his unorthodox brilliance, and began recording singles with him in 1947. In Four years later, in 1951, Lion issued Monk’s first album, Genius Of Modern Music, which was followed by a second volume in 1956 (by which time Monk was recording for Riverside). Blue Note battled to get Monk’s music to a wider audience but without much success. Nevertheless, his two albums for the company were significant to the evolution of modern jazz. They also capture him at a notable juncture in his career, when he was developing his unique musical concepts.
Key track: “Well You Needn’t”

49: Count Basie: The Original American Decca Recordings (Decca)

This 2013 compilation brings together all the sides that Basie recorded for Decca between 1937 and 1939, captured at the height of the swing era when big bands held sway. Though Basie’s Decca tenure was short, it was incredibly fertile, resulting in the hits “Honeysuckle Rose” and “Pennies From Heaven.” His band at the time included Lester Young, Freddie Green and Jo Jones, as well as vocalists Jimmy Rushing and Helen Humes. Together they helped to patent an unmistakable signature sound defined by throbbing swing rhythms, taut ensemble work, and incandescent soloing. A vivid snapshot of the Basie band in its youthful prime.
Key track: “Pennies From Heaven”

48: Bud Powell: The Amazing Bud Powell Vol.1 (Blue Note)

Harlem-born pianist Powell didn’t live beyond his 41st birthday, but he made a profound impact that can still be felt in contemporary jazz. Heavily influenced by the complex language of bebop, in the late 40s Powell transposed the innovations of Charlie Parker and Dizzy Gillespie onto the piano. Compiled from recordings made in 1949 and 1950, The Amazing Bud Powell was the pianist’s first album, and it came out in 1952 when he was 28. It contained his signature tune, “Un Poco Loco” – a remarkable showcase for Powell’s virtuosity, seasoned with Afro-Cuban flavors – and the equally brilliant “Bouncing With Bud.” The album, which also featured a 19-year-old Sonny Rollins, is one of the best jazz albums by a pianist; it tore up the rule book and served as a memorable introduction to a phenomenal musical talent.
Key track: “Bouncing With Bud”

47: Báo cáo thời tiết: Thời tiết nặng (Columbia)

Có nhiều hóa thân khác nhau của báo cáo thời tiết trong suốt vòng đời 15 năm của ban nhạc Fusion, nhưng điều mang lại cho họ cảm giác thống nhất về tính liên tục và sự gắn kết là sự toàn năng của những người đồng sáng lập Joe Zawinul và Wayne Shorter. Năm 1977, thời tiết nặng nề là album thứ tám của nhóm và lần thứ hai của họ với tay bass không tuyệt vời Jaco Pastorius. Giống như Sharter và Zawinul, Pastorius là một nhà soạn nhạc tài năng, và giai điệu của anh ấy là Teen Teen Town, một chiếc xe vui nhộn cho pháo hoa bass kỳ quặc, và một bản nhạc tuyệt vời, một tác phẩm tuyệt vời, làm nổi bật sự trưởng thành đang phát triển của anh ấy như một nhà khái niệm jazz. Nhưng đó là người mở chirpy của Zawinul, người Bird Bird, đã kiếm được nhiều lời khen ngợi nhất và trở thành nhóm nhạc nổi tiếng nhất của nhóm, sinh ra nhiều phiên bản bìa. Có thể cho rằng các album phòng thu hoàn hảo nhất của Weather Báo cáo thời tiết, Heavy Weather vẫn là một trong những album nhạc jazz hay nhất của bản nhạc Fusion ERA.KEY:
Key track: “Birdland”

46: John Coltrane và Thelonious Monk: tại Carnegie Hall (Blue Note)

Bản ghi âm trực tiếp của Monk và Trane chơi cùng nhau cho một buổi hòa nhạc lợi ích từ thiện vào tháng 11 năm 1957 được cho là bị mất cho đến khi băng chính được phát hiện đang mòn mỏi trong các hầm của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 2005. Đây là một tài liệu được bảo tồn hoàn hảo bắt giữ Coltrane trong sáu- Nhiệm kỳ tháng với Monk, diễn ra sau khi Miles Davis sa thải anh ta vào đầu năm (và hai tháng sau khi nghệ sĩ saxophone đã thu âm album xe lửa màu xanh của anh ta). Cả hai người đàn ông, được hỗ trợ bởi tay bass Ahmed Abdul-Malik và tay trống Shadow Wilson, đang ở đỉnh cao của sức mạnh sáng tạo tương ứng của họ, với Coltrane điều hướng các giai điệu khó khăn và hợp âm không chính thống của Monk. Một bức chân dung hấp dẫn của hai thiên tài tại Work.Key Track:Trane playing together for a charity benefit concert in November 1957 was thought lost until the master tape was discovered languishing in the vaults of the US Library Of Congress in 2005. It’s a perfectly preserved document capturing Coltrane during his six-month tenure with Monk, which came after Miles Davis had fired him earlier in the year (and two months after the saxophonist had recorded his Blue Train album). Both men, supported by bassist Ahmed Abdul-Malik and drummer Shadow Wilson, are at the peak of their respective creative powers, with Coltrane navigating Monk’s tricky melodies and unorthodox chord changes with consummate ease. A compelling portrait of two geniuses at work.
Key track: “Blue Monk”

45: Horace Silver: Bài hát cho cha tôi (ghi chú xanh)

Một số mũ hàng đầu của Hard BOP và là thành viên sáng lập của Jazz Messenger trong thập niên 50, Horace Silver là một nghệ sĩ piano/nhà soạn nhạc sinh ra ở Connecticut, người có công cụ thiết lập tiền tuyến hai đầu với tư cách là de Rigueur trong Jazz nhóm nhỏ sau BOP. Trong thời gian 28 năm với Blue Note, anh ấy đã sản xuất nhiều album tốt, nhưng ít thực sự thỏa mãn như bài hát cho cha tôi, người có ca khúc chủ đề bất tử được xác định bởi các họa tiết còi truyền nhiễm và phần giới thiệu của Loping (được mượn bởi Steely Dan cho bản hit năm 1974 của họ Rik Rikki không mất số đó). Được ghi lại trong ba phiên riêng biệt giữa năm 1963 và xông64, album có hai lần hóa thân khác nhau của nhóm Silver, mặc dù nó là bốn bài hát của dòng sản phẩm mới hơn (có người thổi kèn Carmel Jones và nghệ sĩ saxophone Joe Henderson) gây ấn tượng nhất. Bài hát cho cha tôi vẫn là Silver, tác phẩm tinh dịch nhất. Bài hát: Bài hát cho cha tôiHorace Silver was a Connecticut-born pianist/composer who was instrumental in establishing the two-horn frontline as de rigueur in post-bop small-group jazz. During his 28-year stint with Blue Note he produced many fine albums, but few as truly satisfying as Song For My Father, whose immortal title track is defined by infectious horn motifs and a loping intro (famously borrowed by Steely Dan for their 1974 hit “Rikki Don’t Lose That Number”). Recorded in three separate sessions between 1963 and ’64, the album featured two different incarnations of Silver’s quintet, though it’s the four songs by the newer line-up (featuring trumpeter Carmel Jones and saxophonist Joe Henderson) that impresses the most. Song For My Father remains Silver’s most seminal work.
Key track: “Song For My Father”

44: Grant Green: Khoảnh khắc nhàn rỗi (ghi chú xanh)

Tay guitar St Louis Grant Green đã phát triển trong hai lần riêng biệt tại Blue Note và, khi 29 album cho công ty tiết lộ, anh đã thu âm trong một loạt các cài đặt. Có thể cho rằng LPS tốt nhất của anh ấy trong nhiệm kỳ đầu tiên của anh ấy với nhãn hiệu - khi anh ấy chơi Hard Bop - những khoảnh khắc nhàn rỗi đã được ghi lại vào năm 1963 và tìm thấy Green dẫn đầu một sextet bao gồm nghệ sĩ saxophone tenor Joe Henderson, nghệ sĩ piano Duke Pearson (người đã sáng tác hai bài hát trên Album, bao gồm giai điệu tiêu đề cao siêu nhưng khuất phục trong 14 phút) và nghệ sĩ rung động Bobby Hutcherson. Không giống như một số nghệ sĩ guitar, Green không bao giờ cố gắng chế ngự người nghe bằng những lần chạy phức tạp hoặc hào nhoáng nhưng thích chọn ra những giai điệu đơn lẻ nằm trong ranh giới của hương vị tốt. Bất chấp nền kinh tế của mình với các ghi chú và sử dụng không gian hợp lý, nhưng Jean Jean De Fleur, một người chơi nhanh, tự viết vào những khoảnh khắc nhàn rỗi, cho thấy Green có thể chơi với lửa khi nhân dịp yêu cầu.
Key track: “Idle Moments”

43: Count Basie: The Complete Atomic Basie (Roulette)

Ban nhạc Aristocrat Jazz này nổi tiếng với sự hoang mang, năng động và cảm giác swing không ngừng, và tất cả những phẩm chất đó có thể được nghe thấy trong bản ghi âm năm 1957 bùng nổ này. Trong một thời đại mà các ban nhạc lớn hầu như đã tuyệt chủng, việc phát hành bộ phận nguyên tử hoàn chỉnh đã đánh dấu sự hồi sinh trong vận may của nghệ sĩ piano Debonair từ Red Bank, New Jersey. Tất cả các tài liệu được viết bởi nhà soạn nhạc/người sắp xếp Rising Neal Hefti, và có một số biểu đồ đồng thau. Ở trung tâm của tất cả các hành động là cây đàn piano Laconic Basie, Piquant của nó lấp đầy một mô hình của sự tối giản bất đồng. Cùng với việc vung các số uptempo với những chiếc sừng rực rỡ, album chứa một số số lượng chậm hơn được xác định bởi các sắc thái của dàn nhạc khéo léo và tinh tế. Phiên bản hoàn chỉnh, với tài liệu thưởng, được phát hành vào năm 1994.Key Track: Kid Kid From the Red Bank
Key track: “Kid From The Red Bank”

Đứa trẻ từ Red Bank (1994 Remaster)

Bấm để tải video

42: Hank Mobley: Trạm linh hồn (ghi chú xanh)

Kẻ đáng khen ngợi bởi lời khen ngợi của một nhà phê bình nhạc jazz, người đã mô tả ông là nhà vô địch hạng trung của người saxophone tenor, Mobley sinh ra ở Georgia thường bị lu mờ bởi công việc và danh tiếng của các cầu thủ tenor John Coltrane và Sonny Rollins. Mặc dù không phải là một người dẫn đường nhạc jazz, anh ấy vẫn phát triển và tạo ra một cơ thể đáng gờm cho Blue Note từ năm 1955 đến 1970. 26 album của anh ấy cho nhãn hiệu đều mạnh mẽ, nhưng không ai hoàn toàn hoàn hảo như Soul Station. Được bao quanh bởi những tài năng tối cao của Wynton Kelly, Paul Chambers và Art Blakey, Mobley đưa ra một lớp học chính trong bop khó khăn. Một phiên bản êm dịu siêu phàm của Irving Berlin, tôi nhớ rằng đã thiết lập giai điệu cho album, bao gồm bốn số gốc mạnh mẽ (Dig Dig Dis là tốt nhất trong số đó) thể hiện khả năng của Mobley Mobley với tư cách là một nhà soạn nhạc. Điều này kiếm được vị trí trong số các album nhạc jazz vĩ đại nhất mọi thời đại bằng cách trở thành một trong những album hay nhất trên Blue Note.Key Track: Tôi nhớ đến
Key track: “I Remember”

Trạm linh hồn (Remastered 1999/Rudy Van Gelder Edition)

Bấm để tải video

42: Hank Mobley: Trạm linh hồn (ghi chú xanh)

Kẻ đáng khen ngợi bởi lời khen ngợi của một nhà phê bình nhạc jazz, người đã mô tả ông là nhà vô địch hạng trung của người saxophone tenor, Mobley sinh ra ở Georgia thường bị lu mờ bởi công việc và danh tiếng của các cầu thủ tenor John Coltrane và Sonny Rollins. Mặc dù không phải là một người dẫn đường nhạc jazz, anh ấy vẫn phát triển và tạo ra một cơ thể đáng gờm cho Blue Note từ năm 1955 đến 1970. 26 album của anh ấy cho nhãn hiệu đều mạnh mẽ, nhưng không ai hoàn toàn hoàn hảo như Soul Station. Được bao quanh bởi những tài năng tối cao của Wynton Kelly, Paul Chambers và Art Blakey, Mobley đưa ra một lớp học chính trong bop khó khăn. Một phiên bản êm dịu siêu phàm của Irving Berlin, tôi nhớ rằng đã thiết lập giai điệu cho album, bao gồm bốn số gốc mạnh mẽ (Dig Dig Dis là tốt nhất trong số đó) thể hiện khả năng của Mobley Mobley với tư cách là một nhà soạn nhạc. Điều này kiếm được vị trí trong số các album nhạc jazz vĩ đại nhất mọi thời đại bằng cách trở thành một trong những album hay nhất trên Blue Note.Key Track: Tôi nhớ đếnthe pantheon of jazz guitar greats. Though he rose to fame in the age of big-band swing (he first made his mark in the Benny Goodman sextet alongside vibes maestro Lionel Hampton), the melodic and harmonic content of Christian’s solos anticipated the advanced musical vocabulary of bebop. A posthumous release, this compilation album, first issued in 1987, drew together disparate sides, including solo recordings and cuts that document his stint with Goodman. Many guitarists that followed in Christian’s wake – among them Wes Montgomery, Grant Green and George Benson – were indebted to the Texan fretboard genius.
Key track: “Solo Flight”

Trạm linh hồn (Remastered 1999/Rudy Van Gelder Edition)

41: Charlie Christian: Thiên tài của guitar điện (Columbia)Miles Davis’ former rhythm section, comprised of pianist Red Garland, bassist Paul Chambers, and drummer Philly Joe Jones – the 31-year-old West Coast alto saxophonist was struggling with drug addiction. Despite this, Pepper – who claimed he hadn’t touched his sax for several weeks prior to the session – made a transcendent jazz record. The material and performances are simply sublime, with every musician playing at a high level of creativity, focus, and inspiration. Among the highlights is the Pepper co-write “Straight Life,” a frenetic bebop swinger which later became the title of his warts-and-all autobiography.
Key track: “Imagination”

Mặc dù đã qua đời ở tuổi 25 từ bệnh lao, Christian sinh ra ở Texas đã làm đủ trong suốt sự nghiệp ngắn để đạt được sự bất tử và kiếm được một vị trí trong pantheon của những người vĩ đại guitar jazz. Mặc dù anh ấy đã nổi tiếng trong thời đại của Big Band swing (lần đầu tiên anh ấy ghi dấu ấn của mình trong Benny Goodman Sextet cùng với Vibes Maestro Lionel Hampton), nội dung du dương và hài hòa của các độc tấu Christian Christian đã dự đoán từ vựng âm nhạc tiên tiến của Bebop. Một bản phát hành sau đó, album tổng hợp này, lần đầu tiên được phát hành vào năm 1987, đã cùng nhau khác nhau, bao gồm các bản ghi âm solo và cắt giảm tài liệu của anh ấy với Goodman. Nhiều nghệ sĩ guitar theo dõi Christian Christian Wake - trong số đó

40: Art Pepper, Red Garland, Paul Chambers và Philly Joe Jones: Art Pepper đáp ứng phần nhịp điệu (đương đại)
Key track: “My Favorite Things”

Vào tháng 1 năm 1957, khi Art Pepper thu âm album này-cùng với phần nhịp điệu trước đây của Miles Davis, bao gồm nghệ sĩ piano Red Garland, tay bass Paul Chambers và tay trống Philly Joe Jones-người saxophone West Coast 31 tuổi đang đấu tranh với nghiện ma túy. . Mặc dù vậy, Pepper - người tuyên bố anh ta đã chạm vào sax của mình trong vài tuần trước phiên - đã tạo ra một bản ghi nhạc jazz siêu việt. Các tài liệu và biểu diễn chỉ đơn giản là siêu phàm, với mỗi nhạc sĩ chơi ở mức độ sáng tạo, tập trung và cảm hứng cao. Trong số những điểm nổi bật là Pepper Co-Write, Straight Life, một người chơi bebop điên cuồng mà sau này trở thành tiêu đề của cuốn tự truyện mụn cóc của anh ấy.

39: John Coltrane: Những điều yêu thích của tôi (Đại Tây Dương)Duke Ellington’s and Count Basie’s bands. As well as showcasing new material, Goodman also offered up a history of jazz, including some ragtime and Dixieland tunes in his set, affirming that he truly lived up to his billing as the “King Of Swing.”
Key track: “Sing, Sing, Sing (With A Swing)”

37: Wes Montgomery: The Incredible Jazz Guitar Of Wes Montgomery (Riverside)

Though inspired by the fretboard virtuosity of his idol, Charlie Christian, Wes Montgomery forged a unique and immediately identifiable style. The Incredible Jazz Guitar Of… was his third album but the one that truly put the Indianapolis guitarist on the jazz map. Montgomery’s sidemen (pianist Tommy Flanagan, Modern Jazz Quartet bassist Percy Heath, and his brother, drummer Albert Montgomery) offer sterling support on a varied selection of original tunes (“Four On Six,” “West Coast Blues,” and “Mr. Walker”), covers (Sonny Rollins’ “Airegin” and Dave Brubeck’s “In Your Own Sweet Way”) and standards (“Polka Dots And Moonbeams”). Using his callused thumb as a pick, Montgomery plays single-note melodies with horn-like phrasing, before embellishing his solos with a sequence of block chords followed by octaves.
Key track: “Four On Six”

36: The Mahavishnu Orchestra With John McLaughlin: The Inner Mounting Flame (Columbia)

After rising to fame with Miles Davis at the end of the 60s (on the proto jazz-rock/fusion albums In A Silent Way and Bitches Brew), Doncaster-born guitar magus John McLaughlin formed The Mahavishnu Orchestra, a quintet that married the virtuosity of jazz improv with the high-decibel power of heavy rock to create a hybrid that was then infused with Eastern mysticism. This, their debut album, was an incendiary confection of searing guitar and violin lines jousting over churning rhythm tracks played in unusual time signatures. The group’s harshest detractors damned them as pretentious and self-indulgent, but, amazingly, they achieved mainstream success, particularly in America, where they were wholeheartedly embraced. Recorded by the first of several incarnations of the band, The Inner Mounting Flame is undoubtedly The Mahavishnu Orchestra’s best album and still astonishes today.
Key track: “The Dance Of Maya”

35: Clifford Brown And Max Roach: Clifford Brown & Max Roach (EmArcy)

Who knows what trumpeter and early hard bop architect Clifford Brown would have achieved had he lived beyond his 25th birthday. His death, in a car accident, on 26 June 1956, robbed the jazz world of one of its brightest prospects, though he recorded at least one album worthy of inclusion among the best jazz albums of all time. Despite his young age, “Brownie” left a good number of recordings that continue to preserve his name, the best of which is arguably this one, laid down in August 1954 when Brown and drummer Max Roach co-led a quintet that included saxophonist Harold Land. With Richie Powell on piano (who died in the same fatal car crash with Brown) and George Morrow on bass, the group delivered a stunning set that featured three original tunes – including “Joy Spring” – plus a vibrant take on Bud Powell’s “Parisian Thoroughfare” (with a hint of George Gershwin’s “American In Paris” in the intro).
Key track: “Joy Spring”

34: Andrew Hill: Point Of Departure (Blue Note)

Andrew Hill recorded 13 albums for Blue Note between 1963 and 1970, but Point Of Departure is, without doubt, the best of them. Like Thelonious Monk before him – who exerted a strong influence on Hill – the Chicago pianist/composer ploughed a lone furrow, expressing himself in a unique and idiosyncratic style defined by asymmetrical melodies and unorthodox meters. Point Of Departure was Hill’s fifth Blue Note album and it featured a sextet that included Eric Dolphy, Joe Henderson, Kenny Dorham, and a young Tony Williams on drums. Hill’s compositions – by turns frenetic and tranquil – aren’t easy to play but the group render them beautifully and effortlessly. Here, Hill traverses a narrow tightrope separating advanced hard bop from full-on avant-garde jazz, but he does so convincingly. Over half a century later, this magnum opus ranks among the best jazz albums as an essential, must-hear example of paradigm-busting post-bop jazz.
Key track: “Flight 19”

33: Herbie Hancock: Head Hunters (Columbia)

After the experimental music of his early 70s Mwandishi band fell on deaf ears, Herbie Hancock reinvented himself as an afro-topped jazz-funk wizard with this 1973 blockbuster album, which hit No.1 on the US jazz charts. Though influenced by Sly Stone and James Brown, Hancock stumbled upon something unique that was simultaneously accessible and groundbreaking. Combining squelchy clavinet parts with astral synth lines – both underpinned by Paul Jackson’s anchoring bass and Harvey Mason’s taut but elastic grooves – Hancock and his cohorts found themselves opening for rock acts like Santana. The four tracks here range from epic spaced-out funk (“Chameleon”) to atmospheric tropical grooves (an offbeat, African-influenced reworking of his 1963 Blue Note classic, “Watermelon Man”) and edgy, syncopated fusion (“Sly”). The set’s only slow song, “Vein Melter,” is an oozy soundscape. Head Hunters proved to be a hugely influential album, transforming Herbie Hancock into a fusion superstar.
Key track: “Chameleon”

32: Dexter Gordon: Đi! (Ghi chú màu xanh)

Nhạc sĩ đầu tiên chơi thành công Bebop trên The Tenor Saxophone, gã khổng lồ jazz sáu feet sáu này từ Los Angeles bắt đầu sự nghiệp của mình vào cuối những năm 40 nhưng hầu như đã biến mất vào những năm 50 do các phép thuật trong tù vì tội phạm ma túy. Tuy nhiên, vào đầu những năm 60, ông đã hồi sinh sự nghiệp của mình tại Blue Note. Ghi lại vào năm 1962, đi! là album thứ ba của Gordon, cho nhãn hiệu này và tìm thấy anh ấy trong công ty của nghệ sĩ piano Sonny Clark, tay bass Butch Warren và tay trống Billy Higgins. Album bắt đầu với một lát cắt tối cao của việc lái xe cứng, có tên là Cheese Cheese Cak Tình yêu của Porter để bán. Một người sành sành điệu của những bản ballad, nghệ sĩ saxophone truyền vào phiên bản của anh ấy.
Key track: “Cheese Cake”

31: Sarah Vaughan: Sarah Vaughan (với Clifford Brown) (Emarcy)

Được coi là một thành viên của Holy Trinity của các ca sĩ nhạc jazz nữ - cùng với Ella Fitzgerald và Billie Holiday - Hồi Sassy Hồi Sarah Vaughan bước vào phòng thu với Trumpet God Clifford Brown đang ghi lại để thu âm album này, mà nhiều nhà phê bình jazz tin là tốt nhất của cô. Bộ chín bài hát bắt đầu bằng một bản tái hiện của George Shear's Lullaby of Birdland, và một cú đánh tốt, vô tư tên là Bạn không phải là người tốt bụng Một trong đó thấy Brown đang chơi một bài độc tấu trên sừng, trữ tình bằng cách sử dụng một tiếng câm) và một người gợi cảm có thể chấp nhận được bạn, nơi cô ấy vuốt ve lời bài hát với bài hát tuyệt đẹp của mình.Ella Fitzgerald and Billie Holiday – “Sassy” Sarah Vaughan entered the studio with rising trumpet god Clifford Brown to record this album, which many jazz critics believe to be her best. The nine-song set begins with a sprightly rendition of George Shearing’s “Lullaby Of Birdland” and a fine, carefree swinger called “You’re Not The Kind,” but elsewhere Vaughan serves up some gorgeous ballads, including a wistful “April In Paris” (which finds Brown playing a plangent but lyrical horn solo using a mute) and a sensuous “Embraceable You,” where she caresses the lyrics with her gorgeous contralto tone.
Key track: “Lullaby Of Birdland”

30: The Quintet: Jazz tại Massey Hall (ra mắt)

Một trong những siêu nhóm nhạc jazz sớm nhất, Quintet bao gồm Charlie Parker - người ban đầu được coi là Charlie Chan vì lý do hợp đồng - với Dizzy Gillespie, Charles Mingus, Bud Powell và Max Roach. Họ đến với nhau một đêm chỉ vào thứ Sáu, ngày 15 tháng 5 năm 1953, tại Hội trường Toronto Mass Massey. Album được phát hành trên nhãn hiệu đầu tay của Mingus, vào cuối năm đó, nhưng không phải trước khi anh ấy ghi lại các dòng bass của mình, điều này hầu như không thể nghe được trên bản ghi âm ban đầu. Buổi biểu diễn bao gồm The Gillespie Classics Hồi Salt Salt Peanuts và Đêm ở Tunisia, sau đó có một số nút giao tuyệt vời giữa The Trumpeter và Parker Mercurial Alto Sax. Đáng buồn thay, buổi hòa nhạc đại diện cho lần cuối cùng mà hai thiên tài Bebop đã ghi lại cùng nhau. Được một số người coi là buổi hòa nhạc nhạc jazz vĩ đại nhất mọi thời đại, Jazz tại Massey Hall được chính thức công nhận là một trong những album nhạc jazz hay nhất trong lịch sử khi nó được giới thiệu vào Hội trường danh vọng Grammy vào năm 1996.KE
Key track: “A Night In Tunisia”

29: Bill Evans Trio: Waltz cho Debby (Riverside)

Bill Evans đã mang đến một viễn cảnh mới mẻ cho chơi piano jazz bằng cách tránh những lời sáo rỗng của bebop và vẽ lên sự hài hòa tươi tốt của các nhà soạn nhạc cổ điển của người Pháp Debussy và Ravel. Mũi Waltz cho Debby, là một bài hát lấy cảm hứng từ nữ nghệ sĩ piano, cháu gái trẻ; Lần đầu tiên được ghi vào năm 1956 trong album New Jazz Conception, nó nhanh chóng trở thành một tiêu chuẩn nhạc jazz. Nó cũng trở thành ca khúc chủ đề của album trực tiếp này được thu âm vào tháng 6 năm 1961 tại Village Vanguard ở New York. Waltz cho tài liệu Debby, được rút ra từ cùng một màn trình diễn mang lại vào Chủ nhật tại album Village Vanguard, với Evans, tay bass Scott Lafaro và tay trống Paul Motian thể hiện mức độ đồng cảm và giao tiếp cộng sinh cao chưa bao giờ chứng kiến ​​trong bối cảnh Jazz Trio. Lafaro, chỉ 25 tuổi, đã bị giết một cách bi thảm mười ngày sau đó, mặc dù thiên tài của anh được bảo tồn trong những màn trình diễn tuyệt vời của anh ở đây. brought a fresh perspective to jazz piano playing by avoiding bebop clichés and drawing on the lush harmonization of French impressionist classical composers Debussy and Ravel. “Waltz For Debby” was a song inspired by the pianist’s young niece; first recorded in 1956 on the album New Jazz Conceptions, it quickly became a jazz standard. It also became the title track of this live album recorded in June 1961 at the Village Vanguard in New York. Waltz For Debby’s material was drawn from the same performance that yielded the Sunday At The Village Vanguard album, with Evans, bassist Scott LaFaro and drummer Paul Motian showing a high degree of empathy and symbiotic communication never before witnessed in a jazz trio setting. LaFaro, just 25, was tragically killed ten days later, though his genius is preserved in his amazing performances here.
Key track: “My Foolish Heart”

28: Lee Morgan: Sidewinder (ghi chú màu xanh)

Một thần đồng kèn từ Philadelphia, người đã tham gia Blue Note khi anh ta còn là một thiếu niên, Lee Morgan đã nổi tiếng với tư cách là thành viên của các sứ giả Jazz Art Blakey. Bài hát tiêu đề của Sidewinder, với các motifs sừng và motifous Side Soulty, là một đĩa đơn cho Blue Note và giúp album mẹ trở thành nhãn hiệu bán chạy nhất LP. Bên cạnh ca khúc chủ đề định hướng thương mại hơn, bốn lần cắt còn lại cung cấp một cái gì đó khác biệt, cho thấy nhạc sĩ 25 tuổi khám phá các rãnh nhạc jazz sâu sắc hơn như Hồi Totem Pole, và H Focus P Focus. Lá Morgan, là nghệ sĩ saxophone tenor Joe Henderson, người có giọng điệu mạnh mẽ và trần thế so với tiếng kèn vang lên, âm thanh mạ vàng. Cung cấp hỗ trợ vững chắc là phần nhịp điệu, bao gồm Barry Harris, Bob Cranshaw và Billy Higgins.Key Track: Hồi The Sidewinder
Key track: “The Sidewinder”

Sidewinder (Remastered 1999/Rudy Van Gelder Edition)

Bấm để tải video

27: Bill Evans: Chủ nhật tại Village Vanguard (Riverside)

Xuất thân từ Plainfield, New Jersey, và tổ tiên của người xứ Wales và Nga, Bill Evans đã hợp nhất bebop và âm nhạc cổ điển ấn tượng để mang lại sự nhạy cảm mới cho chơi piano jazz. Sau khi ra mắt vào năm 1956, Evans đã nhanh chóng ghi dấu ấn trong thế giới nhạc jazz và hai năm sau, được Miles Davis tuyển dụng, giúp định hình âm thanh của album đột phá năm 1959 của mình, Kind of Blue. Chủ nhật tại Village Vanguard là một album trực tiếp tuyệt vời từ năm 1961 cho thấy Evans, cùng với tay bass Scott Lafaro và tay trống Paul Motian, đã mang đến một khái niệm mới về tập thể ngẫu hứng cho thẩm mỹ piano Trio. Thật vậy, sự tương tác của họ đạt đến một mức độ giao tiếp gần như thần giao cách cảm. Mặc dù Evans, Forte là những bản ballad lãng mạn tươi tốt, Chủ nhật tại Village Vanguard cho thấy anh ta cũng có thể đi theo đường đua thực sự.
Key track: “My Man’s Gone Now”

26: Monk Thelonious: góc rực rỡ (bờ sông)

Thelonious Monk đã đi trước thời đại, đó là lý do tại sao trong nhiều năm, âm nhạc của anh thường bị hiểu lầm và thậm chí bị chế giễu. Vào thời điểm mà nghệ sĩ piano/nhà soạn nhạc Bắc Carolina đã ghi lại những góc rực rỡ cho Riverside vào năm 1956, tuy nhiên, ông đã bắt đầu nhận được sự công nhận và giải thưởng mà ông xứng đáng. Về các đặc điểm xác định của nó, album - với những giai điệu góc cạnh, hòa âm bất đồng và nhịp điệu swing vui nhộn - là tinh túy. Album năm bài hát có một Sonny Rollins 26 tuổi trên tenor Saxophone, Slaloming thông qua các chuỗi hợp âm đầy thách thức của Monk với sự bất ngờ. Những điểm nổi bật bao gồm ca khúc chủ đề, cộng với Pannonica, (dành riêng cho người bảo trợ châu Âu Monk, Nam tước Kathleen Pannonica de Koenigswarter, trên đó Monk đóng vai Celeste) và Bem Bemsha.
Key track: “Bemsha Swing”

25: Keith Jarrett: Buổi hòa nhạc Köln (ECM)

Số phận gần như âm mưu chống lại Keith Jarrett thực hiện buổi hòa nhạc Köln, được ghi lại trực tiếp ở Cologne, sau đó ở Tây Đức, vào ngày 25 tháng 1 năm 1975. Nghệ sĩ piano Pennsylvania, sau đó là 29, đang bị đau lưng. Buổi biểu diễn, chỉ để thấy rằng cây đàn piano không phải là sự hài lòng của anh ấy. Jarrett ban đầu từ chối chơi nhưng cuối cùng cũng phải chịu đựng, ngồi xuống để cung cấp 66 phút viết lách của piano solo. Đến lượt trữ tình và sốt, âm nhạc dường như tuôn ra khỏi anh ta trong một dòng cảm xúc. Album kết quả nhanh chóng nổi tiếng và cho đến nay, nó vẫn là album bán chạy nhất của nhạc piano không có người đi kèm. Jarrett đã thu âm nhiều album piano solo kể từ đó, và tất cả đều tốt, nhưng không ai trong số họ có thể đứng đầu cảm giác siêu việt xác định bản nhạc Köln Concert.key:Keith Jarrett making The Köln Concert, which was recorded live in Cologne, then in West Germany, on 25 January 1975. The Pennsylvanian pianist, then 29, was suffering from excruciating back pain as well as fatigue after a long drive to the gig, only to find that the piano wasn’t to his satisfaction. Jarrett initially refused to play but eventually relented, sitting down to deliver 66 spellbinding minutes of solo piano extemporization. By turns lyrical and febrile, the music just seemed to pour out of him in a cathartic torrent of emotions. The resulting album quickly gained notoriety and, to date, it remains the biggest-selling album of unaccompanied piano music. Jarrett has recorded many solo piano albums since, and they’re all good, but none of them can top the transcendent feeling that defines The Köln Concert.
Key track: “Part 1”

24: John Coltrane: Những bước khổng lồ (Đại Tây Dương)

Một sự chuyển đổi từ uy tín sang nhãn hiệu Đại Tây Dương lớn hơn vào tháng 3 năm 1959 đã chứng kiến ​​Coltrane nâng cấp trò chơi của anh ấy với lần ra mắt cho công ty mới của mình. Được phát hành vào tháng 1 năm 1960, những bước khổng lồ đã đánh dấu lần đầu tiên Coltrane đã thu âm một album gồm các tài liệu nguyên bản, và, đáng kể, hai trong số các bài hát-giai điệu tiêu đề cổ điển, với giai điệu giảm dần của nó đối với các thay đổi hợp âm theo chu kỳ và sự tuyệt vời Ballad Hồi Naima Hồi - tiếp tục được công nhận là tiêu chuẩn nhạc jazz. Bao quanh mình với những người phụ nữ Simpatico - nghệ sĩ piano Tommy Flanagan (được thay thế bởi Wynton Kelly trên Hồi Naima Hồi), tay bass Paul Chambers và tay trống Art Taylor - những cuộc thám hiểm âm nhạc của Coltrane đã đưa Bebop lên đỉnh cao nhất. Những điểm nổi bật khác của bộ bất tử này bao gồm anh em họ Mary Mary Mary và Mr Mr PC, sau đó là một sự tôn vinh cho tay bass của Paul Chambers.Key Track:
Key track: “Giant Steps”

23: Herbie Hancock: Voyage Maiden (ghi chú xanh)

Được ghi lại và phát hành vào năm 1965, album này, có năm bài hát được hợp nhất bởi một chủ đề hải lý, là nghệ sĩ piano Chicago, buổi đi chơi solo thứ năm cho Blue Note. Chỉ 24 tuổi vào thời điểm ghi âm, Hancock là một ngôi sao đang lên trong thế giới nhạc jazz và đang ghi dấu ấn với tư cách là thành viên của Miles Davis Quintet nổi tiếng (cùng với Ron Carter và Tony Williams, người cũng đóng góp cho album). Bài hát tiêu đề nhẹ nhàng của Maiden Voyage là một bức chân dung của những chiếc thuyền buồm nhỏ và tìm thấy Hancock và ban nhạc của anh ấy (với một tiền tuyến hai mã lực bao gồm Trumpeter Freddie Hubbard và Tenor Saxophonist George Coleman) là một Maelstrom của âm thanh và giận dữ. Một điểm nổi bật khác là điệu nhảy cá heo blithe và becalmed. Có thể truy cập được với một tai cho những gì đã tiên tiến vào thời điểm đó, Maiden Voyage là viên ngọc trong vương miện màu xanh của Hancock, và được giới thiệu vào Hội trường danh vọng Grammy năm 1999. Kích hoạt
Key track: “Maiden Voyage”

22: Duke Ellington: Ellington tại Newport (Columbia)

Một số người được coi là Duke Ellington sẽ vượt qua ngày bán hàng của mình khi anh ấy xuất hiện tại Lễ hội Jazz Newport cùng với nhiều người hiện đại của thế giới nhạc jazz vào năm 1956. Tuy nhiên Rằng họ vẫn có thể giao hàng trong khi khẳng định rằng các ban nhạc lớn vẫn có một vị trí trong nhạc jazz. Bộ của ông bao gồm cả vật liệu cũ và mới; Sau này bao gồm các lễ hội được viết đặc biệt của Junction, và New Newport Up, mặc dù đó là một hạt dẻ cũ, Hồi Diminuendo và Crescendo in Blue, được viết vào năm 1937, đã đánh cắp chương trình. Nó đáng chú ý cho một buổi độc tấu phi thường của nghệ sĩ saxophone Paul Gonsalves, người đã thổi 27 bản hợp xướng và đánh bại đám đông thành một cơn điên cuồng. Album gốc chỉ chứa năm bản nhạc, nhưng nó đã được mở rộng sang bản phát hành CD kéo dài hai giờ vào năm 2009. Kích hoạt:
Key track: “Diminuendo And Crescendo In Blue”

21: Cecil Taylor: Cấu trúc đơn vị (ghi chú màu xanh)

Một người New York, nghệ sĩ piano và nhà thơ bản địa, Cecil Taylor, đã đẩy ranh giới âm nhạc vài năm trước khi Ornette Coleman giới thiệu khái niệm Jazz miễn phí cho một thế giới không nghi ngờ. Một nghệ sĩ piano được đào tạo bài bản, Taylor đã thu âm album đầu tiên của mình, Jazz Advance, vào năm 1956, và vào thời điểm anh ghi lại các cấu trúc đơn vị (album đầu tiên trong hai album cho Blue Note) mười năm sau, anh đã phát triển cá nhân hóa của riêng mình trên Jazz miễn phí . Các cấu trúc đơn vị có bốn cuộc thám hiểm dài trong các sonics tự do và tìm thấy Taylor được hỗ trợ bởi sáu nhạc sĩ cùng chí hướng, bao gồm cả người thổi kèn Eddie Gale, nghệ sĩ saxophone Alto Jimmy Lyons và tay trống Andrew Cyrille. Taylor và đoàn quân của anh ta không có tù nhân với các ảnh ghép âm thanh của họ, mà, đối với những người không quen biết, là không chính đáng và thách thức. Cấu trúc đơn vị vẫn là một trong những album nhạc jazz hay nhất xuất hiện từ bản nhạc avant garde.key:free jazz to an unsuspecting world. A classically trained pianist, Taylor recorded his first album, Jazz Advance, in 1956, and by the time that he recorded Unit Structures (the first of two albums for Blue Note) ten years later, he had developed his own personalized take on free jazz. Unit Structures features four lengthy explorations in free-form sonics and finds Taylor assisted by six like-minded musicians, including trumpeter Eddie Gale, alto saxophonist Jimmy Lyons and drummer Andrew Cyrille. Taylor and his cohorts take no prisoners with their sound collages, which, to the uninitiated, are unremittingly intense and challenging. Unit Structures remains one of the best jazz albums to come out of the avant-garde.
Key track: “Steps”

20: Charlie Parker: Bản ghi âm Savoy và Dial Studio hoàn chỉnh (Concord)

Cùng với người thổi kèn Dizzy Gillespie, nghệ sĩ saxophone Alto sinh ra ở thành phố Kansas, Parker đã bắt đầu một cuộc cách mạng nhạc jazz vào giữa những năm 40 khi ông tạo ra một âm thanh mới được mệnh danh là Bebop. Với những màn trình diễn có độ đi của sự điêu luyện kết hợp với các hòa âm tiên tiến và nhịp điệu được đồng bộ hóa, Parker đã giúp thay đổi nhận thức về nhạc jazz, biến nó từ nhạc khiêu vũ thành một loại hình nghệ thuật nghiêm túc. Hầu hết các bản thu âm của anh ấy đã ra mắt với tư cách là người độc thân cho các nhãn Savoy và Dial trong thập niên 40 và chúng có thể được tìm thấy trên bản tổng hợp năm 2000 này, trong đó cung cấp một ảnh chụp nhanh về những năm vinh quang của Bebop. Nó bắt giữ Parker ở đỉnh cao sức mạnh của anh ta trước khi nghiện heroin làm hỏng sự nghiệp của anh ta.
Key track: “Now’s The Time”

19: Miles Davis: Sinh của Cool (Capitol)

Một người tạo ra xu hướng không sợ xa lánh hội nghị, Miles Davis trở nên mệt mỏi với sự hồi hộp điên cuồng của Bebop vào cuối những năm 40 và thử nghiệm âm nhạc thay thế Sonic Heat bằng sự thanh lịch, được nghiên cứu. Dẫn đầu một người không bao gồm các nghệ sĩ saxophone Lee Konitz và Gerry Mulligan, cũng như các tay trống Max Roach và Kenny Clarke, trên khắp năm 1949 và 1950 dặm đã ghi lại một loạt các đĩa đơn cho Capitol xác định lại Jazz hiện đại. Đáng kể, người sắp xếp Gil Evans cũng đã làm việc trong phiên này, và tình bạn của anh ấy với The Trusheter sẽ dẫn đến sự hợp tác trong tương lai vào cuối những năm 50 (trên các album Miles Awey, Porgy và Bess và Sketches of Tây Ban Nha). Những hạt giống cho những tác phẩm lớn sau này có thể được nghe thấy trong sự ra đời của sự lạnh lùng (đặc biệt là trên đường đua được sắp xếp theo Evans, Moon Moon Dream Dream). Tiêu đề album của nhóm - được trao cho các phiên trong phiên bản phát hành album gốc của họ vào năm 1957 - phản ánh ảnh hưởng của các bên đối với Bờ Tây Jazz Jazz Cool Jazz.Birth Of The Cool (especially on the Evans-arranged track “Moon Dream”). The album’s title – given to the sessions on their original album release in 1957 – reflects the influence the sides had on the West Coast “cool jazz “sound.
Key Track: “Boplicity”

18: Art Blakey và The Jazz Messengers: Moanin, (ghi chú xanh)

Không ai có thể đánh trống như Art Blakey. Một nhà lãnh đạo tự nhiên trong Bandstand, người đã kết hợp cả sức mạnh và sự tinh tế, theo bản năng anh ta biết cách tạo ra một đường đua nhưng cũng có thể bổ sung cho một nghệ sĩ độc tấu, sử dụng các cuộn báo chí núi lửa của mình để tạo ra kịch và truyền cảm hứng. Tất cả những phẩm chất đó có thể được tìm thấy trên Moanin, LP 1958 của anh ấy với các sứ giả Jazz. Tiêu đề truyền nhiễm cắt, được chấp bút bởi nghệ sĩ piano Bobby Timmons, người đã làm nổi bật sáng tác của mình bằng các biến động của nhà thờ, dự đoán phong cách Jazz Soul đã trở nên phổ biến trong thập niên 60. Nghệ sĩ saxophone Benny Golson đóng góp bốn bài hát nổi tiếng hàng đầu, bao gồm cả nhạc blues march, Hồi giáo đã đến với Betty, và bộ phim The Drum Thunder Suite, sau đó là một màn trình diễn bùng nổ của khả năng đa nhịp của Blakey. Trên Trumpet là một ca khúc Lee Morgan.key 19 tuổi: Hồi Moanin
Key track: “Moanin’”

17: Albert Ayler: Thống nhất tâm linh (ESP-Disk,)

Được phát hành lần đầu tiên trên nhãn hiệu độc lập của Bernard Stollman, nhỏ, ESP-Disk, vào năm 1964, Unity Spiritual đã công bố nghệ sĩ saxophone sinh ra ở Ohio Ayler, Ayler xuất hiện trên sân khấu thế giới. Đó là liên doanh ghi âm khai mạc của anh ấy, nhưng đó là album quan trọng đầu tiên của anh ấy. Nhiều người đã tìm thấy sự nguyên vẹn và cường độ nội tạng của nó - đôi khi Ayler, Sax giống như một chiếc cưa máy cắt vào tổ ong - đáng lo ngại sâu sắc. Được hỗ trợ bởi các tương tác trực quan và cộng sinh từ tay bass Gary Peacock và tay trống Sunny Murray, Ayler đưa khái niệm Jazz miễn phí của Ornette Coleman, lên một cấp độ khác. Các tiêu đề bài hát của album - Ghost Ghosts: Biến thể thứ nhất, Hồi giáo The Wizard, Hồi giáo, tinh thần, và Ghost Ghosts: Biến thể thứ hai - phục vụ để nhấn mạnh bản chất khác của vũ trụ âm nhạc độc đáo của Ayler. Một trong những album nhạc jazz hay nhất của thời đại, nó vẫn nghe có vẻ đáng kinh ngạc vào ngày hôm nay.
Key track: “Spirits”

16: Eric Dolphy: ra bữa trưa! (Ghi chú màu xanh)

Một người chơi nhiều người có năng khiếu phi thường, đã xuất sắc trên Alto Saxophone và Bass Clarinet, Eric Dolphy sinh ra ở Los Angeles cũng là một người chơi sáo. Lần đầu tiên anh ghi dấu ấn vào năm 1958 khi anh gia nhập tay trống Chico Hamilton, và sau đó, vào đầu những năm 60, khi anh trở thành một ánh sáng hàng đầu của phong trào tiên phong, anh chơi với Charles Mingus và John Coltrane. Ghi lại vào tháng 2 năm 1964, ra bữa trưa! là lần ra mắt Dolphy Dolphy cho Blue Note và xuất hiện trên mặt sau của một số LPS cho dấu ấn nhạc jazz mới của Uy tín. Tham gia Dolphy ra ngoài ăn trưa! Phiên là Freddie Hubbard, Bobby Hutcherson, Richard Davis và một Tony Williams 18 tuổi trên trống. Âm nhạc rất hăng hái trong việc khám phá các thế giới âm thanh mới và mặc dù có những bất hòa kỳ lạ, nhưng có một cảm giác xoay quanh phổ biến mang lại sự gắn kết âm nhạc. Đáng buồn thay, Dolphy đã chết, 36 tuổi, trong tình trạng hôn mê liên quan đến bệnh tiểu đường bốn tháng sau khi thu âm một trong những album nhạc jazz hay nhất từ ​​bản nhạc jazz miễn phí.
Key track: “Hat And Beard”

15: Oliver Nelson: The Blues và The Traff Truth (Impulse!)

Nelson sinh ra ở St Louis là một nghệ sĩ saxophone tài năng, người có thể đóng vai cả các loại tenor và alto, nhưng người đã nổi tiếng hơn trong sự nghiệp tương đối ngắn của mình với tư cách là một người sắp xếp bậc thầy, người có thể chuyển tay sang nhạc nền và điểm phim. Sau ba năm thu âm cho nhãn hiệu uy tín, Nelson đã gia nhập nhà sản xuất Creed Taylor tại Dấu ấn nhạc jazz mới thành lập của ABC-Paramount, Impulse !, Vào năm 1961. Album đầu tay của anh là The Magnificent The Blues và The Trân trọng, trên đó Xếp hạng bao gồm Freddie Hubbard, Eric Dolphy và Bill Evans. Nó có một album có mọi khía cạnh - từ vật chất, sự sắp xếp, công việc hòa tấu và các đoạn solo - pha trộn hoàn hảo để tạo ra một tổng thể tinh tế. Tuy nhiên, về sự thanh lịch của nó, không có gì vượt qua phần mở đầu siêu hạng, những khoảnh khắc bị đánh cắp.
Key track: “Stolen Moments”

14: Erroll Garner: Buổi hòa nhạc bên bờ biển (Columbia)

Nổi tiếng với phong cách bàn phím hoa, có hoa, sinh ra ở Pittsburgh bị ảnh hưởng nặng nề bởi Earl Hines và Fats Waller nhưng đã tìm được giọng nói đặc biệt của riêng mình trên cây đàn piano. Nắm bắt Garner trong một hội trường ở Carmel, California, vào năm 1955, buổi hòa nhạc bên bờ biển bắt đầu như một bản ghi âm không chính thức được thực hiện bởi một đài truyền hình địa phương cho Đài phát thanh vũ trang của Hoa Kỳ. Người quản lý của Garner, đã nghe các băng và thuyết phục Columbia phát hành chúng dưới dạng album, trong đó nó được bán bởi xe tải (đến năm 1958, nó được ước tính đã kiếm được hơn 1 triệu đô la doanh thu). Garner đi cùng với tay bass của Eddie Calhoun và tay trống Denzil Best, và cung cấp các kết xuất thông thường của các tiêu chuẩn như là tôi, tôi nhớ đến tháng Tư Một bức chân dung sống động của một bản nhạc thiên tài chơi đàn piano.
Key track: “Red Top”

13: Wayne Shorter: Nói không ác (ghi chú xanh)

Tốt nghiệp các sứ giả nhạc jazz đáng gờm-Học viện Hard Hard BOP nổi tiếng của Drummer Art Blake Ghi lại ba tháng sau khi anh tham gia Miles Davis Quintet. Mặt trước ngắn hơn một nhóm át chủ bài của riêng mình ở đây, bao gồm Freddie Hubbard, Herbie Hancock, Ron Carter và Coltrane, sau đó, Elvin Jones, và họ cùng nhau gợi lên một phiên đáng nhớ có sáu bài hát được sáng tác bởi nghệ sĩ saxophone. Những điểm nổi bật bao gồm người mở beguiling, Hunt Witch Hunt, Hồi với giai điệu rắn của nó; Bài hát tiêu đề tuyệt vời, với chủ đề còi siêu phàm do Short và Hubbard chơi; Và đôi mắt trẻ sơ sinh nhẹ nhàng, được phủ đầy nhiều, hiện được coi là một tiêu chuẩn nhạc jazz. Wayne Shorter đã thực hiện nhiều album tốt trong sự nghiệp lâu dài của mình nhưng bản này, được ghi lại vào đêm Giáng sinh năm 1964, là bài hát đặc biệt.
Key track: “Infant Eyes”

12: Stan Getz và João Gilberto: Getz/Gilberto (Verve)

Mặc dù có nguồn gốc từ Pennsylvania, Tenor Sax Titan Stan Getz trở nên gắn liền với âm thanh Jazz Cool, Coast Coast trong thập niên 50. Trong thập kỷ tiếp theo, anh đã giúp kích thích sự quan tâm đến âm nhạc Brazil với album Jazz Samba năm 1962. Hai năm sau, sự hợp tác đầy cảm hứng của anh với ca sĩ và tay guitar Brazil đang lên João Gilberto (trên Getz/Gilberto) đã giúp sinh ra cơn sốt Bossa Nova ở Mỹ. Sự kết hợp của các vụ ảm đạm saxophone mượt mà với giọng hát tinh tế của Gilberto và tiếng guitar nhẹ nhàng rất kỳ diệu, trong khi album nổi tiếng nhất của album, The Girl From Ipanema, có một vai khách mời tuyệt đẹp từ vợ Gilberto, Astrud. Một phiên bản chỉnh sửa đã trở thành một đĩa đơn và tạo ra một khán giả toàn cầu khổng lồ cho âm thanh Bossa Nova quyến rũ. Nó cũng giúp biến Astrud Gilberto thành một ngôi sao sau đó ra mắt sự nghiệp thành công của riêng mình.KEY Ca khúcStan Getz became associated with the cool, West Coast jazz sound in the 50s. In the following decade, he helped to stimulate interest in Brazilian music with his 1962 album Jazz Samba. Two years later, his inspired collaboration with rising Brazilian singer and guitarist João Gilberto (on Getz/Gilberto) helped to birth a bossa nova craze in the US. The combination of Getz’s silky saxophone effusions with Gilberto’s delicate vocals and softly-strummed guitar was magical, while the album’s most popular track, “The Girl From Ipanema,” featured a stunning cameo from Gilberto’s wife, Astrud. An edited version became a hit single and created a huge global audience for the seductive bossa nova sound. It also helped to transform Astrud Gilberto into a star who then launched her own successful career.
Key track: “The Girl From Ipanema”

11: Louis Armstrong: Best of the Hot 5s và 7s (Columbia)

Kỷ lục 33 1/3RPM chơi dài đã tồn tại khi cảm giác kèn của New Orleans và ca sĩ Scat Louis Armstrong (còn gọi là Satchmo,) đã giúp xác định những gì nhà văn Hoa Kỳ F Scott Fitzgerald mô tả là thời đại Jazz Jazz vào cuối những năm 20. Người thổi kèn tài năng từ một nền tảng nghèo khó, Armstrong đã chơi với Vua Oliver và Fletcher Henderson trước khi thành lập năm ban nhạc nóng bỏng của riêng mình vào năm 1925. Một số bên của Armstrong với ban nhạc này có thể được tìm thấy trên bản tổng hợp vinh quang này, bao gồm cả âm nhạc từ nóng sau đó của anh ấy Bảy nhóm (được ghi nhận vào năm 1927). Ở mặt sau của các bản hit như Hồi Heebie Jeebies, và Blues West End có ảnh hưởng, Hồi Armstrong trở thành một ngôi sao khổng lồ và sau đó đảm nhận vai trò đại sứ trong thế giới nhạc jazz. Đối với những người tìm kiếm một bộ sưu tập cấp nhập cảnh tập trung vào sự trỗi dậy của New Orleans Jazz và The Trumpeter hồi đầu năm, hồi tưởng này có thể bị đánh bại.Louis Armstrong (aka “Satchmo”) helped to define what US writer F Scott Fitzgerald described as the “Jazz Age” in the late 20s. A virtuoso trumpeter from an impoverished background, Armstrong played with King Oliver and Fletcher Henderson before forming his own Hot Five Band in 1925. Some of Armstrong’s seminal sides with this band can be found on this glorious compilation, which also includes music from his later Hot Seven group (which recorded in 1927). On the back of hits such as “Heebie Jeebies” and the influential “West End Blues,” Armstrong became a huge star and later assumed an ambassadorial role in the jazz world. For those seeking an entry-level collection focusing on the rise of New Orleans jazz and the trumpeter’s early years, this retrospective can’t be beaten.
Key track: “West End Blues”

10: John Coltrane: Blue Train (Blue Note)

Đây là kiệt tác đầu tiên của John Coltrane, đã ghi lại một tuần trước sinh nhật lần thứ 32 của anh ấy. Mặc dù nghệ sĩ saxophone đã được ký hợp đồng với uy tín vào thời điểm đó, anh ta được phép ghi lại một phiên một lần cho nhãn Alfred Lion Lion Blue Note, và hóa ra đó là một viên ngọc tuyệt đối. Đầu năm nay, Trane đã bị sa thải khỏi Quintet Miles Davis vì nghiện heroin, nhưng đến tháng 9 năm 1957, anh ta đã bỏ thuốc vì tốt và bắt đầu xây dựng lại cả cuộc đời và danh tiếng. Blue Train là một sự khẳng định về cảm giác sáng tạo mới của Coltrane và có một sextet bao gồm nghệ sĩ piano Kenny Drew, Paul Chambers và Philly Joe Jones từ ban nhạc Miles Davis, cộng với các sứ giả nhạc jazz Lee Morgan và Curtis Fuller. Giai điệu tiêu đề, với chủ đề Sừng CLARION đáng nhớ của nó, đã tạo ra giai điệu cho một album sáu bài hát chỉ chứa một tiêu chuẩn (Tôi là Old Old Fashioned) và làm nổi bật chữ ký của Trane. "Tàu xanh"“sheets of sound” style.
Key track: “Blue Train”

Blue Train (Remastered 2003/Rudy Van Gelder Edition)

Bấm để tải video

9: Miles Davis: Bitches Brew (Columbia)

Vào cuối thập niên 60, Miles Davis không ngừng nghỉ đã tìm cách thay đổi hướng âm nhạc của mình một lần nữa. Để mắt đến những chân trời âm thanh mới và thể hiện sự quan tâm đến thẩm mỹ rock và funk, anh bắt đầu sử dụng các nhạc cụ điện tử và tạo ra các rãnh mở rộng được điều khiển bởi một backbeat. Một cột mốc quan trọng đầu tiên trong sự phát triển này là Epochal Bitches Brew, một loại album đôi ngổn ngang được phát hành vào năm 1970. Sử dụng một bản hòa tấu lớn bao gồm tay guitar người Anh John McLaughlin và ba bàn phím điện (Joe Zawinul, Chick Corea và Larry Young), Davis Set Trong chuyển động, phong trào hợp nhất thống trị tư duy jazz trong thập niên 70. Phần lớn âm nhạc được định hình trong hậu kỳ, được chỉnh sửa rất nhiều bởi nhà sản xuất Miles, Teo Macero, nhưng Bitches Brew trở nên có ảnh hưởng lớn, mở ra thời đại của nhạc jazz-rock. Bây giờ gần nửa thế kỷ, nó vẫn giống như âm nhạc của bản nhạc tương lai.
Key track: “Spanish Key”

8: Sonny Rollins: Saxophone Colossus (uy tín)

Ở tuổi 88, Sonny Rollins là một trong những người vĩ đại cuối cùng còn sống sót của kỷ nguyên vàng Jazz Jazz. Mặc dù vì lý do sức khỏe, anh không còn chơi Saxophone tenor yêu dấu của mình, album bán kết năm 1957 này - đã mang đến cho Rollins biệt danh của mình - nhắc nhở chúng tôi về sự sáng chói vô song của anh ấy như một người ngẫu hứng. Rollins nhận được sự hỗ trợ của Sterling từ nghệ sĩ piano Tommy Flanagan, tay bass Doug Watkins và tay trống Bebop huyền thoại Max Roach, và cùng nhau, bộ tứ đã tạo ra một sức mạnh tổng hợp giả kim dẫn đến ma thuật thuần túy. Rollins tham khảo gia đình của anh ấy, Caribbean Caribbean Roots trong calypso-esque tự do của mình, đã trở thành một trong những giai điệu đặc trưng của anh ấy) và đóng góp thêm hai bài hát gốc trong hình dạng của Stred Strode Rode, và Blue Blue 7. Sự sáng chói của anh ấy với tư cách là một người thích ballade được nhấn mạnh trong một bài đọc tuyệt đẹp về tiêu chuẩn của bạn, bạn không biết tình yêu là gì.
Key track: “St Thomas”

7: Cannonball Adderley: Somethin’ Else (Blue Note)

Recorded in 1958, this is undoubtedly the greatest album made by alto saxophonist Julian “Cannonball” Adderley during his 20-year career. What makes it special is the presence of Miles Davis in a rare sideman role (Adderley was a member of the trumpeter’s sextet at the time), while the contributions of the great Art Blakey on drums, along with excellent work from pianist Hank Jones and bassist Sam Jones, conspire to make this one of the best jazz albums recorded by a small-group ensemble. On the gently swinging “Autumn Leaves” and “Love For Sale,” Miles plays some bewitching muted trumpet lines, but he doesn’t outshine Cannonball or the rest of the group. A must-own album for any serious jazz collector.
Key track: “Autumn Leaves”

6: Charles Mingus: The Black Saint And The Sinner Lady (Impulse!)

Featuring an 11-piece band playing opulent, cinematic arrangements by Bob Hammer, this 1963 concept album from bassist/composer Charles Mingus was notable for its use of overdubbing, a procedure usually shunned by most jazz musicians. Even so, Mingus produced one of his most compelling studio creations here: a thrilling collision of jazz, blues, and gospel flavors (which he once described as “ethnic folk-dance music”) that was distinguished by taut, cohesive ensemble work and stunning solos. The influence of Duke Ellington is almost palpable, but such was the force of Mingus’ individuality as a composer that his personality dominates the album. In Mingus’ canon, this album’s brilliance is only eclipsed only by the earlier Mingus Ah Um.
Key track: “Duet Solo Dancers” (aka “Hearts Beat And Shades In Physical Embraces”)

Charles Mingus - Duet Solo Dancers

Click to load video

5: Ornette Coleman: The Shape Of Jazz To Come (Atlantic)

From Fort Worth, Texas, Ornette Coleman made two albums for Lester Koenig’s California-based Contemporary label before joining Atlantic in 1959, where this, his debut for the company, proved one of the most revolutionary albums in jazz. Leading a quartet comprising trumpeter Don Cherry, bassist Charlie Haden and drummer Billy Higgins, Coleman shredded the bebop rulebook by jettisoning orthodox notions of what constituted melody and harmony. In the process, he created a brave new musical language of free-form collective improvisation that shook the jazz world to its core. The Shape Of Jazz To Come was extremely divisive at the time, but its status as one of the best jazz albums in history is secure today; it gave birth to the free jazz movement that would gain momentum as a viable musical currency in the 60s.
Key track: “Lonely Woman”

4: Charles Mingus: Mingus Ah Um (Columbia)

One of jazz’s most colorful characters, renowned for his volcanic temper, Charles Mingus – a bass player and composer originally from Arizona but raised in Los Angeles – created a unique style that melded driving hard bop with plaintive blues cries and sanctified gospel cadences. His greatest creation was this, his 1959 debut for Columbia, on which propulsive uptempo songs (“Better Git It In Your Soul”) were balanced with beautiful shimmering ballads (“Goodbye Pork Pie Hat,” an elegy for saxophonist Lester Young, who had died earlier in 1959). The album also had a biting political edge thanks to the track “Fables Of Faubus,” which attacked Arkansas Governor Orval E Faubus, who resisted racial integration in American schools.
Key track: “Goodbye Pork Pie Hat”

3: Dave Brubeck Quartet: Time Out (Columbia)

Released in 1959 – the year that Ornette Coleman produced his game-changing free jazz manifesto, The Shape Of Jazz To Come – California pianist Dave Brubeck proved that jazz didn’t have to be wild and way out to be revolutionary and innovative. Time Out album finds Brubeck’s classic quartet (featuring the eloquent Paul Desmond on alto sax) experimenting with a range of unorthodox time signatures but still managing to balance sonic exploration with an accessible selection of tunes. The album spawned an unlikely hit single in 5/4 time (the jaunty, Desmond-written “Take Five”) and went on to sell over a million copies.
Key track: “Take Five”

2: John Coltrane: A Love Supreme (Impulse!)

Released in 1965, jazz mystic and saxophonist/composer John Coltrane’s four-part hymn to God remains deeply influential and is regarded as the album that birthed what became known as spiritual jazz. A Love Supreme was the first time that a musician had successfully used the language of jazz to explore deeper metaphysical concerns. Assisted by pianist McCoy Tyner, bassist Jimmy Garrison, and über-drummer Elvin Jones, Coltrane takes us on a journey into the realm of religious exaltation. He leaves the listener exhausted – the music can seem almost overwhelming due to its emotional intensity – but also blissfully contented after the final chord has sounded. Though Coltrane recorded several landmark albums both before and after A Love Supreme, this game-changing 1965 LP sealed his immortality and sits rightfully among the best jazz albums of all time.
Key track: “Part One: “Acknowledgement’”

Một tình yêu tối cao, pt. Tôi - thừa nhận

Bấm để tải video

1: Miles Davis: Loại màu xanh (Columbia)

Đứng đầu danh sách 50 album nhạc jazz hay nhất của chúng tôi từ trước đến nay là tác phẩm kinh điển vượt thời gian này từ The Great Miles Davis. Nó kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của mình vào năm 2019 nhưng vẫn còn mát mẻ và hông như ngày nó được ghi lại lần đầu tiên. Phiên này đã tìm thấy Miles dẫn đầu một sextet toàn sao bao gồm các nghệ sĩ saxophone John Coltrane và Cannonball Adderley, cũng như ngôi sao piano nổi tiếng Bill Evans. Tại đây, Miles và các đoàn quân của anh ta đã từ bỏ cường độ sốt của Bebop, cho một sự rung cảm lỏng lẻo, thoải mái để tạo ra một loạt các rãnh mở rộng đến để xác định nhạc jazz phương thức. Album nhạc jazz bán chạy nhất mọi thời đại, loại Blue đã tạo ra một ngôn ngữ âm nhạc mới có ảnh hưởng lớn không chỉ trong thế giới nhạc jazz mà còn đối với nhiều nhạc sĩ nhạc rock và pop, đảm bảo với vị trí chính đáng của album ở đầu danh sách bất kỳ danh sách nào của bất kỳ danh sách nào Album nhạc jazz tuyệt vời nhất trong lịch sử.Key Track: SO SO What
Key track: “So What”

Miles Davis - Vì vậy, những gì (âm thanh chính thức)

Bấm để tải video

1: Miles Davis: Loại màu xanh (Columbia)

Những gì được coi là album nhạc jazz hay nhất mọi thời đại?

10 album nhạc jazz hay nhất mọi thời đại..
Herbie Hancock - Voyage Maiden ..
Ornette Coleman - Hình dạng của Jazz sắp tới ..
Charles Mingus - Mingus ah um ..
John Coltrane - Những bước khổng lồ ..
Cannonball Adderley - đôi khi khác ..
Bill Evans - Chủ nhật tại Village Vanguard ..
John Coltrane - Một tình yêu tối cao (Impulse!).
Miles Davis - Loại màu xanh ..

Những album nhạc jazz quan trọng nhất là gì?

50 album nhạc jazz hay nhất mọi thời đại (hướng dẫn nghe thiết yếu)..
Art Blakey và The Jazz Messenger: Moanin '....
Dave Brubeck: Thời gian ra ngoài.....
Sonny Rollins: Saxophone Colossus.....
Ornette Coleman: Hình dạng của nhạc jazz sắp tới.....
Charles Mingus: Mingus ah um.....
John Coltrane: Một tình yêu tối cao.....
Miles Davis: Loại màu xanh ..

Jazz hay nhất để nghe là gì?

Bạn muốn tham gia vào nhạc jazz ?..
Ellington tại Newport của Duke Ellington (1956).
Ella và Louis một lần nữa bởi Ella Fitzgerald và Louis Armstrong (1957).
Tàu xanh của John Coltrane (1958).
Chân dung trong Jazz của Bill Evans Trio (1960).
Jazz tại Hội trường Massey của Quintet (1953).

Bài hát Jazz số 1 là gì?

Jazz 100.