Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

Đây là một tên người Bồ Đào Nha. Họ đầu tiên hay họ ngoại là Arantes và họ thứ hai hay họ nội là Nascimento.

Pelé
KBE

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

Pelé năm 1995

SinhPelé
23 tháng 10, 1940 (82 tuổi)
Três Corações, Minas Gerais, Brasil
Quốc tịch
Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
 
Brasil
Nghề nghiệp

  • Cầu thủ bóng đá
  • nhà nhân đạo

Chiều cao173 cm (5 ft 8 in)
Phối ngẫu

  • Rosemeri dos Reis Cholbi (cưới 1966–1982)

  • Assíria Lemos Seixas (cưới 1994–2008)

  • Marcia Aoki (cưới 2016)

Bạn đờiXuxa Meneghel (1981–1986)
Con cái7
Cha mẹDondinho, Celeste Arantes
Trang webpele10.com

Sự nghiệp bóng đá

Vị trí

  • Tiền đạo
  • Tiền vệ công

Sự nghiệp cầu thủ trẻ
1953–1956 Bauru
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1956–1974 Santos 638 (619)
1975–1977 New York Cosmos 56 (31)
Tổng cộng 694 (650)
Đội tuyển quốc gia
1957–1971 Brasil 92 (77)

Thành tích

Đại diện cho
Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
 
Brasil
Bóng đá nam
FIFA World Cup
Vô địch Thuỵ Điển 1958
Vô địch Chile 1962
Vô địch México 1970
Copa América
Á quân Argentina 1959

* Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải quốc gia

Edson Arantes do Nascimento (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ˈɛtsõ (w)ɐˈɾɐ̃tʃiz du nɐsiˈmẽtu]; sinh ngày 23 tháng 10 năm 1940), được biết đến nhiều nhất với tên Pelé, là một cựu cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Brasil. Với biệt danh "Vua bóng đá", ông được coi là một trong những cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất mọi thời đại. Vào năm 1999, ông được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỉ 20 bởi hiệp hội IFFHS. Cũng trong năm đó, ông được IOC bầu chọn là Vận động viên của thế kỉ và được tạp chí TIME đưa vào danh sách 100 người có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Vào năm 2013, ông được FIFA trao tặng giải thưởng Quả bóng vàng danh dự (Ballon d'Or Prix d'Honneur).

Được phát hiện tài năng từ khi còn rất trẻ, Pelé bắt đầu chơi bóng cho Santos Futebol Clube khi mới 15 tuổi, vào đội tuyển quốc gia khi 16 tuổi và lần đầu đoạt Cúp Thế giới khi mới ở tuổi 17. Trong sự nghiệp quốc tế của mình, ông đã giành được 3 Cúp thế giới của FIFA vào các năm 1958, 1962 và 1970, và là cầu thủ duy nhất tính tới thời điểm hiện tại làm được điều này. Pelé là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của Brasil với 77 bàn thắng sau 92 trận đấu. Ở cấp câu lạc bộ, ông là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho Santos, và đưa đội bóng đến chức vô địch Copa Libertadores năm 1962 và 1963. "Cách chơi bùng nổ và thiên hướng ghi bàn ngoạn mục" của Pelé đã khiến ông trở thành một ngôi sao trên khắp thế giới. Kể từ khi giải nghệ năm 1977, Pelé là một đại sứ trên toàn thế giới về bóng đá và có nhiều liên doanh về diễn xuất và thương mại. Năm 2010, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch danh dự của New York Cosmos.

Pelé cũng đã được biết đến với việc kết nối cụm từ "The Beautiful Game" với bóng đá. Một cầu thủ ghi bàn phong phú, Pelé đã được biết đến với khả năng thực hiện những cú sút mạnh mẽ và chính xác với cả hai chân cùng với việc dự đoán hướng di chuyển của đối thủ trên sân. Trong phần đầu sự nghiệp của mình, Pelé chơi bóng trong hàng loạt các sơ đồ tấn công và sử dụng kỹ năng lừa bóng của mình để đi qua đối thủ. Sau này, ông đóng vai trò kiến thiết bóng phía sau tiền đạo tấn công. Ở Brasil, Pelé được ca ngợi là một anh hùng dân tộc vì những thành tựu của mình trong bóng đá và sự hỗ trợ thẳng thắn của ông về các chính sách cải thiện điều kiện xã hội của người nghèo. Trong suốt sự nghiệp của mình và trong thời gian nghỉ hưu, Pelé đã nhận được nhiều giải thưởng cá nhân và nhóm cho màn trình diễn của ông trong bóng đá, cho những thành tích kỷ lục và cho di sản của ông trong môn thể thao này.

Tiểu sử

Pele được sinh ra tại Três Corações, Minas Gerais, Brasil, con trai của cầu thủ bóng đá Fluminense Dondinho (tên khai sinh: João Ramos do Nascimento) và Celeste Arantes. Ông là anh lớn của hai anh em ruột.[1] Ông được đặt tên theo nhà phát minh người Mỹ Thomas Edison.[2] Cha mẹ ông đã quyết định bỏ đi chữ "i" và gọi ông là "Edson", nhưng có một lỗi trên giấy khai sinh, nên nhiều tài liệu đã đưa tên ông như là "Edison" chứ không phải "Edson".[3] Ban đầu ông có biệt danh Dico do gia đình đặt cho.[4] Ông đã nhận được biệt danh là "Pelé" trong những ngày đi học, theo kể lại ông đã có biệt danh như vậy vì tên của cầu thủ ưa thích của ông, thủ môn của đội Vasco da Gama Bilé, đã bị ông phát âm sai thành Pelé nhưng khi ông càng thanh minh thì càng bị gọi như vậy. Trong cuốn tự truyện của mình, Pele tuyên bố ông và bạn bè ông lúc đó không biết biệt danh đó có nghĩa gì. Ngoài việc phát âm nhầm như trên, và Pelé trong tiếng Hebrew có nghĩa là "phép lạ" (פֶּ֫לֶא), từ này không có ý nghĩa gì nổi bật trong tiếng Bồ Đào Nha.[5]

Pelé lớn lên trong đói nghèo ở Bauru ở bang São Paulo. Ông kiếm tiền bằng cách làm việc trong các cửa hàng chè như một người phục vụ. Được cha dạy đá bóng, nhưng anh không có được một quả bóng đá phù hợp và thường chơi bóng với một cái túi nhồi báo được buộc chặt.[6] Khi còn nhỏ ông chơi cho một số đội nghiệp dư: Sete de Setembro, Canto do Rio, São Paulinho, và Amériquinha.[7][8] Pelé đã cùng với Bauru Athletic Club juniors (huấn luyện viên Waldemar de Brito) giành ba chức vô địch toàn bang São Paulo liên tiếp từ năm 1954 đến năm 1956.[9] Ông cũng thống trị các cuộc thi đấu bóng bầu dục ở Futebol de Salão trong khu vực và giành được nhiều chức vô địch với đội địa phương Radium.[9]

Theo Pelé, bóng đá trong nhà có những thách thức khó khăn; ông nói nó nhanh hơn rất nhiều so với bóng đá trên sân cỏ và người chơi phải suy nghĩ nhanh hơn vì mọi người ở khoảng cách gần hơn. Pelé công nhận bóng đá trong nhà đã giúp ông suy nghĩ tại chỗ tốt hơn. Ngoài ra, bóng đá trong nhà cho phép ông chơi với người lớn khi ông mới khoảng 14 tuổi. Trong một trong các giải đấu mà Pelé được tham gia, ban đầu ông được coi là quá trẻ để chơi, nhưng cuối cùng Pelé đã kết thúc giải với tư cách cầu thủ ghi bàn hàng đầu với mười bốn hoặc mười lăm bàn thắng. "Điều đó đã cho tôi rất nhiều tự tin", Pelé nói, "Tôi biết sau đó tôi sẽ không sợ bất cứ điều gì có thể đến".[10]

Sự nghiệp câu lạc bộ

Santos

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé trong đội hình Santos tại Hà Lan, tháng 10 năm 1962

Năm 1956, de Brito đưa Pelé đến Santos, một thành phố cảng công nghiệp nằm gần São Paulo, để thử đá chuyên nghiệp với câu lạc bộ chuyên nghiệp Santos FC. Ông nói với các giám đốc ở Santos rằng cầu thủ 15 tuổi này sẽ là "cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất thế giới. "[11] Pelé đã gây ấn tượng với HLV Santos Lula trong thời gian thử việc tại Estádio Vila Belmiro, và ông đã ký hợp đồng chuyên nghiệp với câu lạc bộ vào tháng 6 năm 1956.[12] Pelé được quảng cáo rất mạnh trong các phương tiện truyền thông địa phương như một siêu sao trong tương lai. Ông đã ra mắt đội hình chính thức vào ngày 7 tháng 9 năm 1956 ở tuổi 15 với Corinthians Santo Andre và có một màn trình diễn ấn tượng hôm đó trong chiến thắng 7–1 của đội bóng, ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp sung mãn của mình.[13][14]

Khi mùa giải 1957 bắt đầu, Pelé đã được trao một vị trí xuất phát trong đội hình chính và ở tuổi 16, trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong giải đấu. Mười tháng sau khi ký hợp đồng chuyên nghiệp, ông được gọi lên đội tuyển quốc gia Brasil. Sau World Cup 1962, các câu lạc bộ châu Âu giàu có như Real Madrid, Juventus và Manchester United đã cố gắng để ký được hợp đồng với ông, nhưng chính phủ Brasil dưới quyền Tổng thống Jânio Quadros đã tuyên bố Pelé là "kho báu quốc gia chính thức" vào năm trước đó để ngăn chặn việc chuyển nhượng Pelé ra khỏi đất nước này.[6][15]

Pelé giành danh hiệu lớn đầu tiên của mình với Santos vào năm 1958 khi đội giành được Campeonato Paulista; Pelé kết thúc giải đấu với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu với 58 bàn thắng,[16] một kỷ lục đứng vững cho tới ngày nay. Một năm sau, ông giúp đội giành chiến thắng đầu tiên tại Torneio Rio-São Paulo với tỷ số 3-0 trước Vasco da Gama.[17] Tuy nhiên, Santos không thể giữ lại danh hiệu Paulista. Năm 1960, Pelé ghi 33 bàn thắng để giúp đội của mình giành lại danh hiệu Campeonato Paulista nhưng đã thua trong giải đấu Rio-São Paulo sau khi kết thúc ở vị trí thứ 8.[18] Trong mùa giải 1960, Pelé ghi được 47 bàn và giúp Santos tiếp tục vô địch Campeonato Paulista. Câu lạc bộ tiếp tục chiến thắng Taça Brasil cùng năm đó, đánh bại Bahia trong trận chung kết; Pelé trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu với 9 bàn thắng. Chiến thắng này cho phép Santos tham gia Copa Libertadores, giải đấu câu lạc bộ uy tín nhất ở Tây bán cầu.[19]

"Tôi đến với hy vọng để ngăn chặn một người vĩ đại, nhưng sau đó tôi đã được thuyết phục rằng đã được tôi đã đối đầu với một người không được sinh ra trên cùng một hành tinh như phần còn lại của chúng ta."

—Thủ môn đội Benfica Costa Pereira phát biểu sau trận thua Santos năm 1962.[20]

Pelé là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Santos.

Mùa Copa Libertadores thành công nhất của Santos bắt đầu vào năm 1962,[21] đội được làm đội hạt giống trong bảng 1 cùng với Cerro Porteño và Deportivo Municipal Bolivia. Santos chiến thắng mọi trận đấu trong nhóm của họ trừ một trận hòa 1–1 lượt đi với Cerro. Santos đánh bại Universidad Católica ở bán kết và gặp nhà đương kim vô địch Peñarol trong trận chung kết. Pelé ghi hai bàn trong trận playoff và giành danh hiệu vô địch Copa Libertadores đầu tiên cho một câu lạc bộ Brasil.[22] Pelé trở thành cầu thủ ghi bàn thứ hai của giải với bốn bàn thắng. Cùng năm đó, Santos đã thành công trong việc bảo vệ Campeonato Brasileiro (với 37 bàn thắng của Pelé) và Taça Brasil (Pelé ghi được 4 bàn trong loạt trận chung kết gặp Botafogo). Santos cũng giành được Intercontinental Cup năm 1962 khi thắng Benfica.[23] Mặc chiếc áo số 10, Pelé đã tạo ra một trong những màn trình diễn xuất sắc nhất trong sự nghiệp của anh, ghi được một hat-trick tại Lisbon với tỷ số chung cuộc Santos thắng 5-2.[24][25]

Là nhà vô địch, Santos được tự động đưa thẳng vào vòng bán kết của Copa Libertadores năm 1963. Ballet blanco, biệt danh được Santos trao cho Pelé, nỗ lực giữ lại danh hiệu sau khi chiến thắng các đội Botafogo và Boca Juniors. Pelé đã giúp Santos vượt qua một đội bóng Botafogo có nhiều cầu thủ huyền thoại người Brasil như Garrincha và Jairzinho với bàn thắng vào phút chót ở lượt đi bán kết, gỡ hòa 1–1. Ở lượt về, Pelé ghi được một hat-trick tại Estádio do Maracanã và Santos thắng 0–4 lượt về. Santos bắt đầu loạt chung kết cuối cùng bằng chiến thắng, 3–2 ở lượt đi và đánh bại Boca Juniors 1–2 tại La Bombonera. Đó là một kỳ tích hiếm hoi trong các cuộc thi chính thức, với một bàn thắng khác của Pelé.[26] Santos trở thành đội Brasil đầu tiên (và đến nay) nâng cúp Libertadores trên đất Argentina. Pelé kết thúc giải đấu với 5 bàn thắng. Santos đánh bại Campeonato Paulista sau khi kết thúc ở vị trí thứ ba nhưng tiếp tục giành chiến thắng trong giải đấu Rio-São Paulo sau chiến thắng 0-3 trước Flamengo trong trận chung kết, với Pelé ghi được một bàn thắng. Pelé cũng giúp Santos tiếp tục vô địch Intercontinental Cup và Taça Brasil với các chiến thắng trước Milan và Bahia.[23]

Tại Copa Libertadores năm 1964, Santos bị Independiente đánh bại ở cả hai lượt trận bán kết. Câu lạc bộ đã giành được Campeonato Paulista, với Pelé ghi 34 bàn thắng. Santos cũng chia sẻ danh hiệu Rio-São Paulo cùng với Botafogo và thắng giải Taça Brasil trong năm thứ tư liên tiếp. Vào Copa Libertadores năm 1965, Santos tiến đến bán kết và gặp Peñarol trong trận chung kết, lặp lại chung kết năm 1962. Sau hai trận đấu, tỷ số vẫn hòa và cần một trận playoff.[27] Không giống như năm 1962, Peñarol vượt lên đánh bại Santos 2–1.[27] Tuy vậy Pelé kết thúc với tư cách cầu thủ ghi nhiều bàn nhất của giải đấu với 8 bàn thắng.[28] Điều này đã khởi đầu của sự thoái trào khi Santos không thể tiếp tục vô địch giải Torneio Rio-São Paulo. Năm 1966, Pelé và Santos cũng thất bại trong việc bảo vệ chức vô địch Taça Brasil vì các bàn thắng của Pelé là không đủ để ngăn chặn thất bại 9-4 trước Cruzeiro (do Tostão dẫn đội) trong loạt đấu cuối cùng. Tuy vậy Santos cũng giành chiến thắng giải Campeonato Paulista năm 1967, 1968 và 1969. Vào ngày 19 tháng 11 năm 1969, Pelé ghi bàn thắng thứ 1000 của mình trong tất cả các giải đấu, và đây một thời điểm được mong đợi ở Brasil. Bàn thắng, được gọi là O Milésimo (Thứ 1000), xảy ra trong một trận đấu với Vasco da Gama, khi Pelé ghi bàn từ một quả phạt đền, tại sân vận động Maracanã.[29]

New York Cosmos

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé ký vào bóng để tặng Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tại Nhà Trắng năm 1973, hai năm trước khi gia nhập New York Cosmos

Sau mùa giải 1974 (mùa thứ 19 với Santos), Pelé đã nghỉ đá mặc dù ông tiếp tục chơi cho Santos trong các trận đấu chính thức. Hai năm sau, ông tiếp tục đá với hợp đồng với New York Cosmos của Giải bóng đá Bắc Mỹ(NASL) cho mùa giải năm 1975. Mặc dù đã qua thời kỳ đỉnh cao, Pelé được ghi nhận với việc làm gia tăng đáng kể nhận thức của công chúng và sự quan tâm của môn thể thao này ở Hoa Kỳ. Hy vọng sẽ thúc đẩy nhận thức về bóng đá tại Cộng hòa Dominica, anh và đội Cosmos chơi một trận đấu trình diễn với đội bóng Haiti Violette AC, tại Estadio Olímpico Félix Sánchez vào ngày 3 tháng 6 năm 1976, với hơn 25.000 người hâm mộ đã chứng kiến Pelé ghi bàn thắng trong những giây cuối của trận đấu, giúp Cosmos chiến thắng với tỷ số 2–1.[30] Pelé đưa câu lạc bộ này đến chức vô địch năm 1977 trong giải đấu thứ ba và cuối cùng của mình với câu lạc bộ.[31]

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé (trái) với Eusébio (phải) trước một trận đấu tại North American Soccer League vào tháng 4 năm 1977

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1977, Pelé kết thúc sự nghiệp của mình trong một trận đấu biểu diễn giữa Cosmos và Santos. Santos đến New York sau khi đánh bại Seattle Sounders ở New Jersey, 2–0. Trận đấu đã bán hết vé tại Sân vận động Giants và được truyền hình tại Hoa Kỳ trên kênh ABC cũng như trên khắp thế giới. Cha và vợ của Pelé đều tham dự trận đấu, cũng như Muhammad Ali và Bobby Moore.[32]

Sự nghiệp quốc tế

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé (quỳ, thứ hai từ phải sang) và đội tuyển Brasil tại 1959 Copa America

Trận đấu quốc tế đầu tiên của Pelé là trận thua 2–1 trước Argentina vào ngày 7 tháng 7 năm 1957 tại Maracanã.[33][34] Trong trận đấu đó, ông đã ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Brasil khi mới 16 tuổi 9 tháng để trở thành cầu thủ trẻ nhất ghi bàn trong bóng đá quốc tế.[35]

Cúp Thế giới 1958

Pelé đến Thụy Điển với thương tích ở đầu gối, nhưng khi ông quay trở về từ phòng điều trị, các đồng đội của ông đã đồng lòng và khăng khăng lựa chọn ông vào đội hình thi đấu.[36] Trận đấu đầu tiên của ông là trận đấu với Liên Xô trong trận đấu thứ ba của vòng bảng của Giải bóng đá vô địch thế giới 1958, và Pelé đã hỗ trợ cho bàn thắng thứ hai của Vavá.[37] Ông là cầu thủ trẻ nhất của giải đấu đó, và vào thời điểm đó là cầu thủ trẻ nhất từng chơi tại World Cup[note 1][34] Trong trận bán kết, Brasil đã dẫn 2–1 tại giờ nghỉ giải lao, và rồi Pelé ghi hat-trick, trở thành người trẻ nhất trong lịch sử World Cup từng thực hiện điều này.[39]

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé (khi đó mới 17 tuổi) khóc trên vai thủ môn Gilmar sau khi Brasil vô địch 1958 World Cup.

Vào ngày 29 tháng 6 năm 1958, Pelé trở thành cầu thủ trẻ nhất chơi trong trận chung kết World Cup với 17 tuổi và 249 ngày. Anh ghi hai bàn thắng trong trận chung kết đó khi Brasil đánh bại Thụy Điển 5–2 tại thủ đô Stockholm. Bàn thắng đầu tiên của anh khi anh vẩy bóng qua một hậu vệ trước khi đưa bóng vào lưới, đã được chọn là một trong những bàn thắng đẹp nhất trong lịch sử World Cup. Sau bàn thắng thứ hai của Pelé, cầu thủ Thụy Điển Sigvard Parling sau đó đã bình luận; "Khi Pelé ghi bàn thắng thứ năm trong trận chung kết đó, tôi phải trung thực nói rằng tôi muốn vỗ tay hoan hô".[40] Khi trận đấu kết thúc, Pelé đã ngất đi ngay trên sân và được Garrincha làm hồi tỉnh lại.[41] Sau đó anh hồi phục, và đã bật khóc vì chiến thắng khi anh được đồng đội chúc mừng. Anh đã kết thúc giải đấu với sáu bàn thắng trong bốn trận đấu được vào sân, đồng vị trí thứ hai, sau cầu thủ phá kỷ lục Just Fontaine, và được mệnh danh là cầu thủ trẻ xuất sắc nhất của giải đấu.[42]

Chính tại giải vô địch thế giới năm 1958 mà Pelé bắt đầu mặc một chiếc áo số 10. Việc này là kết quả của sự tổ chức kém: các nhà lãnh đạo của bóng đá Brasil đã không gửi số áo của các cầu thủ và FIFA đã chọn số 10 cho Pelé, người vào sân thay thế.[43] Báo chí tuyên bố Pelé là khám phá vĩ đại nhất của World Cup 1958, và ông cũng giành Quả bóng bạc, với tư cách cầu thủ hay thứ hai của giải đấu, sau Didi.[40]

Cúp Thế giới 1962

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé tranh bóng với thủ môn đội Thụy Điển Kalle Svensson trong trận chung kết năm 1958

Khi Cúp Thế giới 1962 bắt đầu, Pelé là cầu thủ hay nhất trên thế giới vào thời điểm đó.[44]] Trong trận đấu đầu tiên của Cúp Thế giới 1962 ở Chile, đối đầu với Mexico, Pelé đã hỗ trợ trong bàn thắng đầu tiên và sau đó ghi bàn thắng thứ hai, sau khi vượt qua bốn hậu vệ, để nâng tỷ số lên 2–0.[45] Ông đã bị chấn thương trong trận đấu tiếp theo trong khi cố gắng thực hiện một cú sút tầm xa khi đấu với đội Tiệp Khắc.[46] Chấn thương này đã bắt Pelé phải ngồi ngoài sân suốt phần còn lại của giải đấu, và buộc huấn luyện viên Aymoré Moreira thực hiện thay đổi đội hình duy nhất trong toàn giải. Người thay thế Pelé là Amarildo, đã thi đấu tốt trong các trận còn lại của giải đấu. Tuy nhiên, Garrincha mới là người đã đóng vai trò dẫn đầu đội bóng và đưa Brasil đến danh hiệu Cup Thế giới thứ hai của họ, sau khi đánh bại Tiệp Khắc tại trận chung kết ở Santiago.[47]

Cúp Thế giới 1966

Pelé là cầu thủ bóng đá nổi tiếng nhất thế giới tại Cúp Thế giới 1966 ở Anh, và Brasil đã đưa đến Anh hàng loạt cầu thủ vô địch thế giới 4 năm trước đó như Garrincha, Gilmar và Djalma Santos với sự bổ sung của các ngôi sao khác như Jairzinho, Tostão và Gérson.[48] Brasil bị loại ở ngay vòng đầu tiên, chỉ chơi có 3 trận.[48] Cúp Thế giới 1966 đã được ghi nhận có nhiều điều đáng nói, trong đó có việc phạm lỗi đối với Pelé khiến ông bị chấn thương do các hậu vệ người Bulgaria và Bồ Đào Nha chơi xấu.[49]

Pelé đã ghi bàn thắng đầu tiên từ một cú đá phạt vào lưới Bulgaria, trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong ba Cúp Thế giới liên tiếp, nhưng do chấn thương vì bị các hậu vệ Bulgaria phạm lỗi, anh đã bỏ lỡ trận đấu thứ hai với Hungary. Brasil thua trận này và Pelé, mặc dù vẫn đang trong thời gian phục hồi, đã được huấn luyện viên người Brasil Vicente Feola đưa ra sân cho trận đấu quyết định cuối cùng với Bồ Đào Nha tại Goodison Park ở Liverpool. Feola đã thay đổi toàn bộ hàng phòng thủ, bao gồm cả thủ môn, trong khi ở hàng tiền vệ, Pelé trở lại với đội hình đầu tiên. Trong trận đấu này, hậu vệ người Bồ Đào Nha João Morais phạm lỗi với Pelé, nhưng không bị trọng tài George McCabe đuổi khỏi sân.[50] Pelé phải đi khập khiễng trên sân trong thời gian còn lại của cả trận đấu, vì việc thay thế cầu thủ không được phép vào lúc đó.[50] Sau trận đấu này, Pelé thề rằng ông sẽ không bao giờ chơi ở Cúp Thế giới nữa, nhưng sau đó ông đã đổi ý.[44]

Cúp Thế giới 1970

Pelé, thứ hai từ bên phải, hàng trước, chụp trước khi trận đấu với Peru.
Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Mário Zagallo (HLV của Brasil năm 1970 với Pelé năm 2008). Zagallo nói về Pelé: "Một đứa trẻ tại Thụy Điển [Cúp thế giới 1958] bộc lộ dấu hiệu của một thiên tài, và tại Mexico [Cúp thế giới 1970] anh ấy đã giữ lời hứa và đóng cuốn sách lại với một chiếc chìa khóa vàng. Và tôi có vinh dự được quan sát cận cảnh cả quá trình trên."[51]

Pelé được gọi vào đội tuyển quốc gia đầu năm 1969, lúc đầu anh từ chối, nhưng sau đó được chấp nhận và chơi trong sáu trận đấu vòng loại World Cup, ghi được sáu bàn thắng.[52] Cúp Thế giới ở Mexico được kỳ vọng là giải vô địch thế giới cuối cùng của Pelé. Đội hình của Brasil cho giải đấu có những thay đổi lớn so với đội hình năm 1966. Những cầu thủ như Garrincha, Nilton Santos, Valdir Pereira, Djalma Santos và Gilmar đã giải nghệ. Tuy nhiên, đội hình World Cup 1970 của Brasil, bao gồm các cầu thủ như Pelé, Rivelino, Jairzinho, Gérson, Carlos Alberto Torres, Tostão và Clodoaldo, thường được coi là đội bóng hay nhất trong lịch sử.[53][54]

Năm người Jairzinho, Pelé, Gerson, Tostão và Rivelino ở tuyến trên cùng nhau tạo ra một động lực tấn công, với Pelé đóng vai trò trung tâm trong bước tiến của Brasil đến trận chung kết.[55] Tất cả các trận đấu của Brasil trong giải đấu (ngoại trừ trận chung kết) đều được chơi ở Guadalajara, và trong trận đấu đầu tiên với Tiệp Khắc, Pelé đã đưa Brasil dẫn trước 2-1, bằng cách kiểm soát đường chuyền dài của Gerson bằng ngực và sau đó ghi bàn. Trong trận đấu này, Pelé đã cố gắng đánh bại thủ thành Ivo Viktor từ đường chuyền nửa chừng, suýt ghi bàn thắng vào lưới Tiệp Khắc.[56] Brasil tiếp tục giành chiến thắng trong trận đấu này với tỷ số 4–1. Trong nửa đầu của trận đấu với đội tuyển Anh, Pelé gần như ghi bàn bằng cú đánh đầu nhưng thủ môn Anh Gordon Banks đã phá được.[57] Trong hiệp hai, anh kiểm soát một đường chuyền từ Tostão trước khi chuyền bóng cho Jairzinho ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.[58]

Trong trận gặp Romania, Pelé ghi hai bàn thắng, với Brasil đi tiếp với tỉ số 3-2. Trong trận tứ kết gặp Peru, Brasil thắng 4-2, với Pelé giúp Tostão ghi bàn thứ ba của Brasil. Trong trận bán kết, Brasil gặp Uruguay lần đầu tiên kể từ trận chung kết World Cup 1950. Jairzinho đưa Brasil lên dẫn trước 2–1, và Pelé đã hỗ trợ Rivelino ấn định tỷ số 3–1. Trong trận đấu đó, Pelé đã thực hiện một trong những cú đi bóng nổi tiếng nhất của anh.[56] Tostão chuyền bóng cho Pelé, thủ môn của Uruguay là Ladislao Mazurkiewicz đã nhận ra và chạy ra khỏi khung thành của mình để đón bóng trước Pelé. Tuy nhiên, Pelé đã tới trước và lừa Mazurkiewicz bằng cách không chạm vào bóng khiến nó lăn qua phía trái Mazurkiewicz, trong khi Pelé chạy vòng qua bên phải. Pelé chạy vòng quanh Mazurkiewicz để lấy lại bóng và thực hiện một cú sút trong khi quay người về phía khung thành, nhưng anh đã quay quá mức khi sút, và quả bóng sạt cột góc xa ra ngoài.[59]

Brasil gặp Ý trong trận chung kết tại sân vận động Azteca ở Mexico City.[60] Pelé ghi bàn mở tỉ số bằng một cú đánh đầu đánh bại hậu vệ người Ý Tarcisio Burgnich. Sau đó anh hỗ trợ cho bàn thắng thứ ba của Brasil của Jairzinho, và bàn thắng thứ tư của Carlos Alberto. Bàn thắng cuối cùng của trận đấu này thường được coi là bàn thắng tập thể hay nhất mọi thời đại bởi vì nó được tất cả các cầu thủ của đội Brasil tham gia trừ hai cầu thủ đang ở ngoài sân của đội. Trận đấu lên đến đỉnh điểm sau khi Pelé chuyền bóng ngẫu nhiên đi vào đúng đà chạy của Carlos Alberto. Alberto chạy vượt lên và ghi bàn.[61] Brasil giành chiến thắng 4–1, được giữ cúp Jules Rimet vĩnh viễn, và Pelé nhận được Quả bóng Vàng - cầu thủ xuất sắc nhất của giải đấu.[40][62] Burgnich, người đã kèm Pelé trong trận chung kết, được trích dẫn nói rằng "Tôi đã tự nhủ trước trận đấu, anh ấy cũng là da thịt giống như mọi người khác - nhưng tôi đã sai".[63]

Trận đấu quốc tế cuối cùng của Pelé diễn ra vào ngày 18 tháng 7 năm 1971 với Nam Tư ở Rio de Janeiro. Với Pelé trên sân, kỷ lục của Brasil là 67 trận thắng, 14 trận hòa và 11 trận thua.[52] Brasil không bao giờ thua khi có cả Pelé và Garrincha trong đội hình.[64]

Phong cách chơi bóng

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé lừa bóng qua một hậu vệ khi chơi trong màu áo đội Brasil, tháng 5 năm 1960.

Pelé cũng đã được biết đến với việc kết nối cụm từ "The Beautiful Game" với bóng đá.[65] Là một cầu thủ ghi bàn thành công, anh được biết đến với khả năng dự đoán vị trí của đối thủ trong khu vực và kết thúc cơ hội bằng một cú sút chính xác và mạnh mẽ bằng một trong hai chân.[66][67][68] Pelé cũng là một cầu thủ làm việc chăm chỉ, với tầm nhìn và trí thông minh đặc biệt, được công nhận vì các cú chuyền chính xác, và khả năng liên kết với các đồng đội và hỗ trợ họ.[69][70][71]

Trong sự nghiệp ban đầu của mình, Pelé chơi ở nhiều vị trí tấn công khác nhau. Mặc dù Pelé thường hoạt động trong vòng cấm như một tiền đạo chính hoặc tiền đạo trung tâm, nhưng nhiều kỹ năng của anh cũng cho phép Pelé chơi ở vai trò lùi nhiều hơn, như một tiền đạo bên trong hoặc thứ hai, hoặc tiền đạo chơi rộng hơn.[72] Trong phần sau của sự nghiệp, Pelé đảm nhận vai trò tiền vệ kiến tạo nhiều hơn, thường chơi đằng sau các tiền đạo, và hoạt động như một tiền vệ tấn công.[73] [74] Phong cách chơi độc đáo của Pelé kết hợp tốc độ, sáng tạo và kỹ năng kỹ thuật với sức mạnh thể chất, sức chịu đựng và bền bỉ. Kỹ thuật tuyệt vời, sự cân bằng, tinh tế, nhanh nhẹn và kỹ năng rê bóng của Pelé cho phép anh thường đi bóng qua đối thủ, và thường xuyên sử dụng những thay đổi hướng đột ngột và những pha lừa bóng tinh vi để vượt qua các cầu thủ, như cách di chuyển mang thương hiệu của Pelé, drible da vaca. [75] Một trong những động thái đặc trưng khác của anh là paradinha, hay dừng bóng đột ngột. [note 2] [76]

Mặc dù có vóc dáng tương đối nhỏ, 5 feet 8 inch (1,73 m),[77] Pelé xuất sắc khi tranh bóng trên không, do độ chính xác, thời gian và độ cao của cú bật nhảy.[67][75][78] Nổi tiếng với những cú sút cầu vồng, Pelé cũng là một cầu thủ sút phạt và là người thực hiện phạt điền chính xác, mặc dù Pelé thường không chịu sút phạt đền, và nói rằng đó là một cách ghi bàn hèn nhát.[79][80]

Pelé cũng được biết đến là một cầu thủ chơi công bằng và có ảnh hưởng lớn, người nổi bật nhờ khả năng lãnh đạo và tinh thần thể thao lôi cuốn trên sân. Cái ôm ấm áp của Pelé với Bobby Moore sau trận đấu Brazil-Anh tại World Cup 1970 được xem là hiện thân của thể thao, với tờ New York Times nêu rõ hình ảnh "chiếm được sự tôn trọng mà hai cầu thủ vĩ đại dành cho nhau. Khi họ trao đổi áo, chạm vào nhau và nhìn nhau, tính thể thao giữa hai người đã được ghi lại trong các hình ảnh. Không có sự hả hê, không có nắm đấm từ Pelé. Không có sự tuyệt vọng, không cảm giác thất bại từ Bobby Moore." [81] Pelé cũng nổi tiếng vì thường là cầu thủ có tính quyết định cho các đội bóng của mình, do xu hướng ghi bàn thắng quan trọng trong các trận đấu quan trọng của anh.[82][83][84]

Di sản

"Pelé là một trong số ít người mâu thuẫn với ý nghĩ của tôi: thay vì 15 phút nổi tiếng, anh ấy sẽ nổi tiếng trong 15 thế kỷ."

—Andy Warhol.[20]

"Tên tôi là Ronald Reagan, Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng bạn không cần phải giới thiệu về mình, vì mọi người đều biết Pelé là ai."

—Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan chào đón Pelé tại Nhà Trắng.[20]

Pelé là một trong những cầu thủ được ca ngợi nhiều nhất trong lịch sử bóng đá và thường xuyên được xếp hạng cầu thủ hay nhất từ trước đến nay.[85][86][87] Trong số những người cùng thời, ngôi sao người Hà Lan Johan Cruyff tuyên bố: "Pelé là cầu thủ bóng đá duy nhất vượt qua ranh giới của logic." Đội trưởng giành chiến thắng tại World Cup 1970 của Brazil Carlos Alberto Torres, tỏ ra hào hứng: "Bí mật lớn của Pelé là sự ngẫu hứng. Những điều anh làm chỉ trong một khoảnh khắc. Anh ấy có một nhận thức phi thường về môn thể thao này." Tostão, tiền đạo chơi cùng trên hàng tấn công của anh tại World Cup 1970 nói rằng: "Pelé là người tuyệt vời nhất - anh ấy thật hoàn hảo. Và ngoài sân cỏ, anh luôn tươi cười và lạc quan. Bạn không bao giờ thấy anh nóng tính. Anh ấy thích trở thành Pelé." Đồng đội người Brazil của anh, Clodoaldo đã bình luận về câu ngạn ngữ mà anh chứng kiến: "Ở một số nước họ muốn chạm tay vào Pelé, ở một số nước họ muốn hôn Pelé. Ở một số nước khác, họ thậm chí còn hôn xuống mặt đất nơi Pelé đã đi qua. Tôi nghĩ chuyện này thật đẹp đẽ, đơn giản là đẹp".

Cựu ngôi sao của Real Madrid và Hungary Ferenc Puskás tuyên bố: "Cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá là Di Stéfano. Tôi từ chối phân loại Pelé như một cầu thủ. Anh ấy đã vượt lên trên mức cầu thủ rồi". Just Fontaine, tiền đạo người Pháp và là tay săn bàn số một tại World Cup 1958 nói: "Khi tôi thấy Pelé chơi, nó khiến tôi cảm thấy mình nên treo giày". Đội trưởng giành chiến thắng World Cup 1966 của Anh Bobby Moore nhận xét: "Pelé là cầu thủ hoàn thiện nhất tôi từng thấy, anh ấy có tất cả mọi thứ. Hai chân tốt. Phép thuật khi tranh bóng trên không. Nhanh. Khỏe. Có thể đánh bại mọi người bằng kỹ năng. Có thể chạy nhanh hơn mọi người. Chỉ cao năm feet và tám inch, nhưng anh ta dường như là một vận động viên khổng lồ trên sân. Cân bằng hoàn hảo và có tầm nhìn không thể tin nổi. Anh ấy là người vĩ đại nhất bởi vì anh ấy có thể làm bất cứ điều gì và mọi thứ trên một sân bóng đá. Tôi nhớ Saldanha huấn luyện viên được một nhà báo người Brazil hỏi rằng, ai là thủ môn giỏi nhất trong đội hình của Brazil. Saldanha nói rằng đó là Pelé. Một cầu thủ mà có thể chơi ở bất kỳ vị trí nào".[67] Cựu tiền đạo của Manchester United và là thành viên của đội bóng giành chiến thắng FIFA World Cup 1966 của Anh, Sir Bobby Charlton tuyên bố; "Đôi khi tôi cảm thấy như thể bóng đá được phát minh cho cầu thủ ma thuật này." Trong World Cup 1970, khi hậu vệ Paddy Crerand của Manchester United (người là thành viên của hội đồng ITV) được hỏi: "Làm thế nào để bạn đánh vần Pelé?", anh trả lời: "Dễ thôi: C-H-Ú-A".

Đời tư

Các mối quan hệ và con cái

Con của Pelé

  • Với Anizia Machado
    • Sandra (1964–2006)
  • Với Lenita Kurtz
    • Flávia (sinh năm 1968)
  • Với Rosemeri dos Reis Cholbi
    • Kelly Cristina (sinh năm 1967)
    • Edson (sinh năm 1970)
    • Jennifer (sinh năm 1978)
  • Với Assíria Lemos Seixas
    • Joshua (sinh năm 1996)
    • Celeste (sinh năm 1996)

Pelé tặng chiếc áo đã có chữ ký cho Giáo hoàng Francis.[88]

Pelé đã kết hôn ba lần, và đã có một vài lần ngoại tình, với vài đứa con riêng. Ngày 21 tháng 2 năm 1966, Pelé kết hôn với Rosemeri dos Reis Cholbi.[89] Họ có hai con gái và một con trai: Kelly Cristina (sinh ngày 13 tháng 1 năm 1967), kết hôn với Tiến sĩ Arthur DeLuca, Jennifer (sinh năm 1978) và con trai Edson ("Edinho", ngày 27 tháng 8 năm 1970). Cặp đôi này đã ly dị vào năm 1982.[90] Từ năm 1981 đến năm 1986, Pelé quan hệ tình cảm với người dẫn chương trình truyền hình Xuxa, và tạo ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp của cô. Xuxa chỉ mới 17 tuổi khi họ bắt đầu hẹn hò.[91] Vào tháng 4 năm 1994, Pelé kết hôn với nhà tâm lý học và ca sĩ phúc âm Assíria Lemos Seixas. Ngày 28 tháng 9 năm 1996, hai người có cặp sinh đôi Joshua và Celeste thông qua phương pháp điều trị sinh sản. Cặp đôi này đã ly dị vào năm 2008.[92]

Pelé có ít nhất hai đứa con nữa từ các tình cũ. Sandra Machado, đứa trẻ được sinh ra từ một mối tình Pelé có vào năm 1964 với một người giúp việc gia đình, Anizia Machado, đã chiến đấu trong nhiều năm để đứa con này được Pelé công nhận, dù cho Pelé đã từ chối đệ trình xét nghiệm DNA.[93][94][95] Mặc dù Sandra Machado được tòa án công nhận là con gái sinh học của Pelé dựa trên bằng chứng DNA vào năm 1993, Pelé không bao giờ thừa nhận cô con gái cả này ngay cả sau khi cô qua đời vào năm 2006, cũng như hai đứa con của cô, Octavio và Gabriel.[94][95] Pelé cũng có một cô con gái khác, Flávia Kurtz, trong một vụ ngoại tình vào năm 1968 với nhà báo Lenita Kurtz. Flávia đã được ông công nhận là con gái của ông.[93]

Ở tuổi 73, Pelé tuyên bố ý định kết hôn với Marcia Aoki, 41 tuổi, một nhà nhập khẩu thiết bị y tế của Nhật Bản-Brasil từ Penápolis, São Paulo, người mà ông đã hẹn hò từ năm 2010. Họ gặp nhau lần đầu vào giữa những năm 1980 ở New York, trước khi gặp lại vào năm 2008.[96] Họ kết hôn vào tháng 7 năm 2016.[97]

Chính trị

Năm 1970, Pelé bị chế độ độc tài quân sự Brasil điều tra vì nghi ngờ ủng hộ cánh tả. Các tài liệu được giải mật cho thấy Pelé đã bị điều tra sau khi được trao một tuyên ngôn kêu gọi thả các tù nhân chính trị. Bản thân Pelé đã không tham gia sâu vào các cuộc đấu tranh chính trị trong nước.[98]

Vào tháng 6 năm 2013, ông bị dư luận chỉ trích vì có quan điểm bảo thủ.[99][100] Trong các cuộc biểu tình ở Brasil năm 2013, Pelé yêu cầu mọi người "quên các cuộc biểu tình đi" và hãy ủng hộ đội tuyển quốc gia Brasil.[101]

Sức khỏe

Năm 1977, truyền thông Brazil đưa tin rằng Pelé đã phải cắt bỏ thận phải.[102] Vào tháng 11 năm 2012, Pelé đã trải qua một ca phẫu thuật không thành công.[103] Vào tháng 12 năm 2017, Pelé xuất hiện trên chiếc xe lăn tại lễ bốc thăm World Cup 2018 tại Moscow, nơi ông chụp hình cùng Tổng thống Nga Vladimir Putin và Diego Maradona.[104] Một tháng sau, ông suy sụp vì kiệt sức và được đưa đến bệnh viện.[104] Năm 2019, sau khi nhập viện vì nhiễm trùng đường tiết niệu, Pelé đã trải qua phẫu thuật gắp sỏi thận.[105] Vào tháng 2 năm 2020, con trai ông, Edinho, đã thông báo rằng Pelé không thể tự đi lại và không muốn ra khỏi nhà, cho rằng tình trạng yếu ớt của ông là do thiếu hồi phục sau ca phẫu thuật hông.[106]

Sau khi giải nghệ

Năm 1994, Pelé được bổ nhiệm làm Đại sứ thiện chí của UNESCO.[107] Vào năm 1995, Tổng thống Brasil Fernando Henrique Cardoso đã bổ nhiệm Pelé vào chức vụ Bộ trưởng Thể thao đặc biệt. Trong thời gian này, ông đã đề xuất luật để giảm tham nhũng trong bóng đá Brasil, được gọi là "luật Pelé."[108] Pelé rời vị trí của mình vào năm 2001 sau khi bị buộc tội tham gia vào vụ bê bối tham nhũng đã lấy cắp 700.000 đô la từ UNICEF. Người ta cho rằng số tiền được trao cho công ty của Pelé cho một trận đấu từ thiện, không được trả lại sau khi nó bị hủy bỏ, mặc dù không có gì được chứng minh, và UNICEF đã phủ nhận việc này.[109][110] Năm 1997, ông nhận chức danh Hiệp sĩ danh dự từ Nữ hoàng Elizabeth II tại một buổi lễ ở Cung điện Buckingham.[111] Pelé cũng đã giúp khai mạc trận chung kết FIFA World Cup 2006, cùng với siêu mẫu Claudia Schiffer.[54]

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Pelé, Bộ trưởng Thể thao đặc biệt của Brasil, diện kiến tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tại Rio de Janeiro, 15 tháng 10 năm 1997

Năm 1993, Pelé công khai cáo buộc nhà quản trị bóng đá Brasil Ricardo Teixeira tham nhũng sau khi công ty truyền hình của Pelé bị từ chối trong một cuộc đua giành bản quyền trong nước của Brasil tại World Cup 1994.[112] Lời buộc tội của Pelé dẫn đến một mối thù tám năm giữa hai người.[113] Kết quả của vụ việc, Chủ tịch FIFA, João Havelange đã cấm Pelé không được rút thăm cho World Cup 1994 tại Las Vegas. Những lời chỉ trích về lệnh cấm này được cho là đã ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội tái đắc cử của Havelange với tư cách là chủ tịch FIFA năm 1994.[112]

Pelé đã xuất bản nhiều cuốn tự truyện, đóng vai chính trong phim tài liệu, và sáng tác các bản nhạc, bao gồm cả nhạc nền cho bộ phim Pelé năm 1977.[114] Ông xuất hiện trong bộ phim Escape to Victory năm 1981, về một trận đấu bóng đá trong thế chiến II giữa các tù binh Đồng Minh và một đội tuyển Đức. Pelé đóng vai chính bên cạnh những cầu thủ bóng đá khác trong những năm 1960 và 1970, với các diễn viên Michael Caine và Sylvester Stallone.[115] Năm 1969, Pelé đóng vai chính trong một telenovela gọi là Os Estranhos, về việc tiếp xúc đầu tiên với người ngoài hành tinh. Phim này được sản xuất để thu hút sự chú ý của công chúng vào các sứ mệnh Apollo.[116] Năm 2001, ông đóng một vai cameo trong bộ phim châm biếm, Mike Bassett: England Manager.[117].

Thành tích

Thống kê

Cấp câu lạc bộ

Tại Santos FC (1956-1971)

Ông đã ghi được 643 bàn thắng sau 656 lần ra sân cho câu lạc bộ.

Tại New York Cosmos (1971-1977)

Bảng thống kê bàn thắng

Câu lạc bộ Mùa Thành tích quốc nội VĐQG Cúp Thành tích quốc tế Tổng
Chính thức
Tổng gồm
giao hữu
SPS[118]RSPS[118]T. de PrataCamp. Brasil.[118]T. BrasilCopa LibertadoresIntercontinental Cup
TrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBàn TrậnBàn
Santos 1956 0* 0* 0* 0* 2* 2*[119] 2* 2*
1957 14+15* 19+17*[120] 9 5 38* 41* 29* 16* 67* 57*
1958 38 58 8 8 46 66 14* 14* 60* 80*
1959 32 45 7 6 39 51 4* 2* 40* 47* 83* 100*
1960 30 33 3 0 33 33 0 0 0 0 0 0 34* 26* 67* 59*
1961 26 47 7 8 33 55 5* 7 0 0 0 0 36* 48* 74* 110*
1962 26 37 0 0 26 37 5* 2* 4* 4* 2 5 13* 14* 50* 62*
1963 19 22 8 14 27 36 4* 8 4* 5* 1 2 16 16* 52* 67*
1964 21 34 4 3 25 37 6* 7 0* 0* 0 0 16* 13* 47* 57*
1965 30 49 7 5 37 54 4* 2* 7* 8 0 0 18* 33* 66* 97*
1966 14 13 0* 0* 14* 13* 5* 2* 0 0 0 0 19* 16* 38* 31*
1967 18 17 14* 9* 32* 26* 0 0 0 0 0 0 32* 26* 65* 56*
1968 21 17 17* 11* 38* 28* 0 0 0 0 0 0 38* 28* 73* 55*
1969 25 26 12* 12* 37* 38* 0 0 0 0 37* 38* 61* 57*
1970 15 7 13* 4* 28* 11* 0 0 0 0 28* 11* 54* 47*
1971 19 8 21 1 40 9 0 0 0 0 40 9 72* 29*
1972 20 9 16 5 36 14 0 0 0 0 36 14 74* 50*
1973 19 11 30 19 49 30 0 0 0 0 49 30 66* 52*
1974 10 1 17 9 27 10 0 0 0 0 27 10 49* 19*
Tổng cộng 412470534956*36*8434605*589*33301517[121]3765664311201087

Hình ảnh

  • Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

    Năm 2004

  • Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

    Pelé với Bill Clinton - 1997

  • Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

    Pelé - 1997

  • Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

  • Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

    Pelé ở Sheffield

Chú thích

  1. ^ Thành tích sau đó bị phá ỡ bởi Norman Whiteside của Bắc Ireland tại World Cup 1982.[38]
  2. ^ Pelé would stop in the middle of a run-up to a penalty kick before shooting the ball; goalkeepers complained that this gave strikers an unfair advantage, however, and in the 1970s, FIFA banned this move from competitions.[76]

Tham khảo

  1. ^ Robert L. Fish; Pelé (1977). My Life and The Beautiful Game: The Autobiography of Pelé, Chapter 2. Doubleday & Company, Inc., Garden City, New York. ISBN 0-385-12185-7
  2. ^ Anibal Massaini Neto (Director/Producer), (2004). Pelé Eterno [Documentary film]. Brazil: Anima Produções Audiovisuais Ltda. International: Universal Studios Home Video.
  3. ^ “Un siglo, diez historias” (bằng tiếng Tây Ban Nha). BBC. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2010.
  4. ^ “From Edson to Pelé: my changing identity”. Article by The Guardian. London. ngày 13 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2006.
  5. ^ Winterman, Denise (ngày 4 tháng 1 năm 2006). “Taking the Pelé”. Article by BBC Online. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2010. word had no meaning in Portuguese so he presumed it was an insult, but recently he has found out that it means miracle in Hebrew.
  6. ^ a b “Pelé”. Biography.com, via A&E Television Networks. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2017.
  7. ^ Pelé; Orlando Duarte; Alex Bellos (2006). Pelé: the autobiography. London: Simon & Schuster UK Ltd. ISBN 978-0-7432-7582-8.
  8. ^ “Pelé”. Vivendo Bauru. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2012.
  9. ^ a b Joe Marcus (1976). The world of Pele. New York: Mason/Charter. ISBN 978-0-88405-366-8.
  10. ^ “Pele Speaks of Benefits of Futebol de Salão”. International Confederation of Futebol de Salão. ngày 24 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2016.
  11. ^ Massarela, Louis (ngày 7 tháng 9 năm 2016). “Exclusive interview: Pele on his Santos years”. FourFourTwo. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2017.
  12. ^ Marcus 1976, tr. 20.
  13. ^ “Pele helps Brazil to World Cup title”. History. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2017.
  14. ^ Da Mata, Alessandro (ngày 26 tháng 10 năm 2007). “Mesário da estréia de Pelé lembra atrapalhada” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Sâo Paulo: LANCE!. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2008.
  15. ^ Chelala, Cesar (2014). “Pele, Maradona and Messi: soccer's holy trinity”. Japan Times.
  16. ^ “Campeonato Paulista: Artilheiros da história – 2”. Folha Online (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 17 tháng 1 năm 2008.
  17. ^ Unzelte, Celso; Varanda, Pedro; Cammarota, Giuseppe; Barreto Berwanger, Alexandre Magno (2011). “Fichas Técnicas De Jogos Que Decidiram O Torneio Rio-Sâo Paulo” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation.
  18. ^ Matta, Fernando; Varanda, Pedro; Barreto Berwanger, Alexandre Magno; Unzelte, Celso; Leme de Arruda, Marcelo (2009). “Torneio Rio-São Paulo 1960” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2009.
  19. ^ “Santos revive spirit of Pele”. BBC Sport. ngày 16 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  20. ^ a b c "What they said about Pele" Lưu trữ 2016-03-05 tại Wayback Machine FIFA. 23 Oct 2010.
  21. ^ Dunmore 2015, tr. 290.
  22. ^ Pierrend, José Luis; Beuker, John; Ciullini, Pablo; Gorgazzi, Osvaldo. “Copa Libertadores de América 1962”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2016.
  23. ^ a b "Intercontinental Cups 1962 and 1963". FIFA. ngày 15 tháng 1 năm 2015
  24. ^ “Extraordinary Pele crowns Santos in Lisbon”. FIFA. ngày 11 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012.
  25. ^ Vickery, Tim (ngày 23 tháng 12 năm 2009). “Will South Africa 2010 produce a new Pele?”. BBC Sport. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  26. ^ “1963: With an amazing Pele, Brazil's Santos wins their second Copa Libertadores Tournament”. CONMEBOL. ngày 12 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2016.
  27. ^ a b Bassorelli, Gerardo. “En los años sesenta, Peñarol y Santos protagonizaron inolvidables batallas por la Libertadores, generando una rivalidad que transformó a este duelo en el primer clásico que tuvo la Copa”. LaRed21. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2017.
  28. ^ Andrés, Juan Pablo; Ballesteros, Frank; Di Maggio, Robert. “Copa Libertadores - Topscorers”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2015.
  29. ^ “Pele scores 1,000th goal”. History.com. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2017.
  30. ^ “Pelé's Hail Mary In Santo Domingo”. Life. 2015. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015.
  31. ^ Dunmore 2011, tr. 198.
  32. ^ Freedman 2014, tr. 165.
  33. ^ “Seven the number for Pele”. FIFA. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  34. ^ a b Williams, Bob (ngày 28 tháng 10 năm 2008). “Top 10: Young sporting champions”. The Daily Telegraph. UK. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  35. ^ Morrison, Neil; Gandini, Luca; Villante, Eric. “Oldest and Youngest Players and Goal-scorers in International Football”. Rec. Sport.Soccer Statistics Foundation.
  36. ^ “Simply the best ever”. ABC News (Australia). ngày 25 tháng 4 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2003.
  37. ^ “Copa 1958”. Terra Networks (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 2006.
  38. ^ Gault, Matt (ngày 9 tháng 7 năm 2015). “Norman Whiteside: world beater at 17, retired by 26”. These Football Times. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2017.
  39. ^ Hawkes, Will (ngày 26 tháng 5 năm 2010). “Flashback No 6. Sweden 1958: Pele's genius propels Brazil to first title”. The Independent.
  40. ^ a b c “The King of football”. FIFA. 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  41. ^ Pelé (ngày 13 tháng 5 năm 2006). “How a teenager took the world by wizardry”. The Guardian. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2017.
  42. ^ 1958 FIFA World Cup Sweden – Awards Lưu trữ 2019-04-03 tại Wayback Machine FIFA.
  43. ^ Spencer, Jamie (ngày 7 tháng 9 năm 2015). “The Fascinating Stories Behind 13 Famous Shirt Numbers”. 90 Min. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2017.
  44. ^ a b “PELE – International Football Hall of Fame”. ifhof.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
  45. ^ Kunti, Samindra (ngày 23 tháng 10 năm 2015). “A Look Back at Pelé's Legendary Takedown of Mexico's Defense at the 1962 World Cup”. Remezcla.
  46. ^ Downie, Andrew (ngày 6 tháng 7 năm 2014). “Brazilians look to Pele and 1962 for Cup-winning omen”. Reuters. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2017.
  47. ^ Moore, Glenn (ngày 3 tháng 6 năm 2006). “Pele: The Greatest”. The Independent. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  48. ^ a b "1966 FIFA World Cup England: Group 3" Lưu trữ 2018-03-10 tại Wayback Machine. FIFA. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2015
  49. ^ Haydon, John. “Player of the Century? Why, Pele, of course”. Soccer Times. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2017.
  50. ^ a b Collins, Nick (ngày 9 tháng 7 năm 2010). “World Cup final: 10 top World Cup refereeing errors”. The Telegraph. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  51. ^ Vickery, Tim (ngày 4 tháng 4 năm 2017). “Zagallo and Tostao”. The Blizzard. Bản gốc lưu trữ 5 Tháng tư năm 2017. Truy cập 19 Tháng sáu năm 2018.
  52. ^ a b Mamrud, Roberto. “Edson Arantes do Nascimento "Pelé" – Goals in International Matches”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
  53. ^ Bell, Jack (ngày 11 tháng 7 năm 2007). “1970 Brazilian Soccer Team Voted Best Ever”. The New York Times. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  54. ^ a b Joseph, Paul (ngày 9 tháng 4 năm 2008). “The boys from Brazil: On the trail of football's dream team”. The Independent. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2011.
  55. ^ “Mexico in thrall to Brazilians' beautiful game”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2017.
  56. ^ a b Hughes, Rob (ngày 29 tháng 12 năm 1999). “The Greatest? For Century, Pele Eclipses Muhammad Ali”. New York Times. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  57. ^ Hattenstone, Simon (ngày 30 tháng 6 năm 2003). “And God created Pelé”. The Guardian. London. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  58. ^ “Jairzinho and Banks reunited”. BBC. ngày 2 tháng 8 năm 2002. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2003.
  59. ^ Joyce, Stephen (ngày 12 tháng 1 năm 2010). “Mexico 1970: Brazilians show all how beautiful game should be played”. Sky Sports. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2010.
  60. ^ "World Championship – Jules Rimet Cup 1970 Final" Lưu trữ 2019-11-27 tại Wayback Machine. FIFA. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014
  61. ^ Benson, Andrew (ngày 2 tháng 6 năm 2006) "The perfect goal". BBC Sport.
  62. ^ "Brazil's heroes of 1970 relive their days of glory"”. FIFA. ngày 10 tháng 6 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2011.
  63. ^ Kirby, Gentry (2003). “Pele, King of Futbol”. ESPN. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  64. ^ Stevenson, Jonathan (ngày 20 tháng 1 năm 2008). “Remembering the genius of Garrincha”. BBC. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
  65. ^ “The World Cup will show why football is still a beautiful game” (ngày 12 tháng 6 năm 2014). The Telegraph.
  66. ^ “Pelé (Brazilian Athlete)”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2017.
  67. ^ a b c Malley, Frank (ngày 23 tháng 12 năm 1999). “Pele, the perfect player”. The Independent. London.
  68. ^ Bate, Adam (ngày 19 tháng 3 năm 2015). “Messi? Ronaldo? Pele? Maradona? Who is the greatest of all-time?”. Sky Sports. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  69. ^ Massarella, Louis (ngày 5 tháng 11 năm 2015). “Pele or Puskas? Maradona or Messi? Just who is the best No.10 of all-time?”. FourFourTwo. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2016.
  70. ^ Miller, David (ngày 12 tháng 12 năm 2000). “Maradona's genius cannot eclipse Brazilian master”. The Telegraph. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  71. ^ Adams, Tom (ngày 9 tháng 11 năm 2015). “Mesut Ozil's assists at Arsenal make a compelling case for player of the year”. ESPN FC. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  72. ^ “Pelé and Maradona – two very different number tens”. FIFA. ngày 25 tháng 1 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  73. ^ Pelé 2008, tr. 41.
  74. ^ Pastorin, Darwin. “PELE (Edson Arantes do Nascimento)” (bằng tiếng Italian). Treccani: Enciclopedia dello Sport (2002). Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  75. ^ a b Marino, Giovanni (ngày 21 tháng 4 năm 2010). “La vita mancina di Mario Corso "Io, tra Herrera, Pelè e Berselli"”. La Repubblica (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2017.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  76. ^ a b Pelé 2008, tr. 112.
  77. ^ “Pele Player Profile”. ESPN FC. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2017.
  78. ^ Radogna, Fiorenzo (ngày 1 tháng 10 năm 2017). “40 anni fa l'addio al calcio di Pelé: la storia di O Rei, tre volte campione del mondo”. Il Corriere della Sera (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  79. ^ Miller, Nick (ngày 15 tháng 6 năm 2015). “Pele Top 10: World Cup glory, with Bobby Moore and goals, goals goals”. ESPN FC. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  80. ^ Crosetti, Maurizio (ngày 26 tháng 5 năm 2014). “Palleggio volante ed esterno destro il mondo conobbe il bambino Pelé”. La Repubblica (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  81. ^ “A Shot That Captured the Bigger Meaning in Sports”. The New York Times. ngày 15 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2018.
  82. ^ Longhi, Lorenzo (ngày 18 tháng 10 năm 2010). “Il mastino Burgnich: "Il mio Pelé, il migliore di tutti"” (bằng tiếng Italian). sport.sky.it. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  83. ^ Fiori, Stefano (ngày 27 tháng 6 năm 2018). “Mondiali, la maledizione dei campioni in carica continua” (bằng tiếng Italian). foxsports.it. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  84. ^ Motisi, Domenico (ngày 5 tháng 10 năm 2017). “Da Pelé a Grosso, i 20 calciatori più determinanti e decisivi ai Mondiali” (bằng tiếng Italian). sport.sky.it. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  85. ^ “Pele: The greatest of them all”. FIFA. ngày 28 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  86. ^ “Pele tops World Cup legends poll”. BBC News. ngày 12 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  87. ^ “The Best of the Best”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2010.
  88. ^ Morrissey, Paul (ngày 27 tháng 4 năm 2013). “Romario trolls Pele on Twitter, says he's a phony Catholic and talks nothing but shit”. 101greatgoals.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2014.
  89. ^ “Brazil's greatest Pele turns 75”. Daily Express. ngày 23 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.[liên kết hỏng]
  90. ^ “Pelé Scores A Marriage Hat Trick”. Latin Times. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  91. ^ Simón, Yara (ngày 28 tháng 8 năm 2015). “A Look Back at Xuxa and Pelé's Controversial Relationship”. Remezcla. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2017.
  92. ^ “Brazilian Soccer Legend Pelé Scores A Marriage Hat Trick [VIDEO]”. Latin Times. ngày 9 tháng 3 năm 2018.
  93. ^ a b “Pele's daughter dies of cancer at 42”. ESPN. ngày 17 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2014.
  94. ^ a b "Pele misses funeral of "daughter he never wanted". People. ngày 18 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2014
  95. ^ a b "Daughter who sued Pele dies of cancer at 42". ESPN. ngày 17 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2014.
  96. ^ 'Minha primeira paixão foi uma japonesa e a última também vai ser', afirma Pelé” ['My first love was a Japanese and will also be the last,' says Pele] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brasil Online. ngày 11 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2014.
  97. ^ “Football legend Pele marries 'definitive love'”. BelfastTelegraph.co.uk (bằng tiếng Anh). ISSN 0307-1235. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  98. ^ “Pelé foi investigado pela ditadura na década de 1970” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Folha Online. ngày 1 tháng 1 năm 1970. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  99. ^ “Estranho, conservador, desastroso e 'de outro planeta'; comentaristas analisam declarações de Pelé” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ESPN UOL. ngày 19 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  100. ^ Romero, Simon; Neuman, William (ngày 21 tháng 6 năm 2013). “How Angry Is Brazil? Pelé Now Has Feet of Clay”. The New York Times.
  101. ^ “Estátua de Pelé é "amordaçada" na cidade natal do jogador” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Terra Networks. ngày 21 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  102. ^ Guilherme Seto, Rafael Reis (ngày 28 tháng 11 năm 2014). “Pelé tem apenas um rim desde que era jogador de futebol”. Folha de S.Paulo (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  103. ^ “Pele in hospital, hip operation a success, report says”. ESPN. ngày 13 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014.
  104. ^ a b “Pele recovering in hospital after collapsing with exhaustion”. The Telegraph. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2018.
  105. ^ Gray, Melissa. “Pele recovering after kidney stone procedure in Brazil”. CNN. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2019.
  106. ^ “Pele: Brazil legend reluctant to leave his home, says son Edinho”. Sky Sports. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2020.
  107. ^ “World Sport Humanitarian Hall of Fame Inductees – Pelé”. Sports Humanitarian. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  108. ^ “Pele Law on sports introduced in Brazil”. BBC News. ngày 25 tháng 3 năm 1998. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2017.
  109. ^ “UNICEF denies Pele corruption reports”. SportBusiness.com. Reuters. ngày 23 tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2016.
  110. ^ Pelé slips from Brazil pedestal, The Observer, ngày 25 tháng 11 năm 2001.
  111. ^ “Education: Sir Pele lends his support”. The Independent. ngày 3 tháng 12 năm 1997. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2011.
  112. ^ a b Darby 2002, tr. 110.
  113. ^ Bellos 2003, tr. 114.
  114. ^ Pelé trên AllMusic
  115. ^ “Escape to Victory remake: who should follow in Pelé's footsteps?”. The Guardian. ngày 27 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
  116. ^ “Estranhos extraterrestres chegavam na tela da Excelsior para fazer contato com Pelé” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Cartâo de Visita. ngày 16 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
  117. ^ “Mike Bassett: England Manager (2001)”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
  118. ^ a b c All statistics relating to Pele's goalscoring record between 1957 and 1974 in the SPS, RSPS, and Campeonato Brasileiro are taken from http://soccer-europe.com/Biographies/Pele.html. Soccer Europe compiled this list from http://www.rsssf.com (The Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation). For a full list of Pele's goals see http://rivelino.caltech.edu/~pelesl/pele/english/pele_statistics.html Lưu trữ 2007-05-16 tại Wayback Machine.
  119. ^ Pele's first two matches for Santos are assumed here to be friendlies. No record of them exists in any of the tournaments listed at rsssf.com.
  120. ^ In 1957 the Sao Paulo championship was split into two halves, Série Azul and Série Branca. In the first half Pelé scored 19 goals in 14 games, and then in Série Azul he scored 17 goals in 15 games See http://paginas.terra.com.br/esporte/rsssfbrasil/tables/sp1957.htm Lưu trữ 2006-12-11 tại Wayback Machine
  121. ^ Totalised statistics relating to Pele's record between 1957 and 1974 in the Taça de Prata, Taça Brasil and Copa Libertadores are taken from http://soccer-europe.com/Biographies/Pele.html. Soccer Europe compiled this list from http://www.rsssf.com (The Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation), but do not give a season-by-season breakdown. For a full list of Pele's goals see http://rivelino.caltech.edu/~pelesl/pele/english/pele_statistics.html Lưu trữ 2007-05-16 tại Wayback Machine.

Thư mục

  • Bar-On, Tamir (2014). The World Through Soccer: The Cultural Impact of a Global Sport. Rowman & Littlefield. tr. 307. ISBN 1442234733.
  • Bellos, Alex (2003). Futebol: The Brazilian Way of Life. Bloomsbury. tr. 416. ISBN 0747561796.
  • Blevins, David (2011). The Sports Hall of Fame Encyclopedia: Baseball, Basketball, Football, Hockey, Soccer. Scarecrow Press. tr. 1291. ISBN 0-8108-6130-5.
  • Darby, Paul (2002). Africa, Football, and FIFA: Politics, Colonialism, and Resistance. Taylor & Francis. tr. 236. ISBN 0714649686.
  • Dunmore, Tom (2011). Historical Dictionary of Soccer. Scarecrow Press. tr. 338. ISBN 0810873958.
  • Dunmore, Tom (2015). Encyclopedia of the FIFA World Cup. Scarecrow Press. tr. 406. ISBN 0810887436.
  • Ebony (1963). World's Highest Paid Athlete: Brazilian Soccer Star Earns $150,000 A Year. Johnson Publishing Company. tr. 120. OCLC 1567306.
  • Freedman, Lew (2014). Pelé: A Biography. ABC-CLIO. tr. 187. ISBN 1440829810.
  • Marcus, Joe (1976). The World of Pelé. Mason Charter Publishing. tr. 200. ISBN 0884053660.
  • Pelé (2008). Pelé: The Autobiography. Simon and Schuster. tr. 368. ISBN 1847394884.
  • Pelé; Fish, Robert L. (1977). My Life and the Beautiful Game: The Autobiography of Pelé. Doubleday Publishing. tr. 371. ISBN 0385121857.
  • Heizer, Teixeira (1997). O jogo bruto das copas do mundo. Mauad Editora Ltda. tr. 324. ISBN 8585756527.
  • Magill, Frank Northen (1999). Dictionary of World Biography: The 20th century, O-Z. Routledge. tr. 4175. ISBN 1579580483.

Liên kết ngoài

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Pelé.
  • Trang web chính thức
  • Pelé – Thành tích thi đấu FIFA
  • Pelé tại National Soccer Hall of Fame
  • Pelé: A Legend Looks Back – Life
  • Danh sách bàn thắng cho Brasil
  • Pelé trên IMDb
  • Chuyến du đấu của Pelé cho Santos và Cosmos
  • American Soccer History Archives Lưu trữ 2009-03-02 tại Wayback Machine
  • Play Soccer with Pele
  • Pelé tại Santos
  • Pelé tại International Football Hall of Fame
  • Pelé tại Planet World Cup

Top 5 đường chuyền nfl mọi thời đại năm 2022

10. John Elway: Denver Broncos (1983-1998)

Tốt

Elway là một trong những người qua đường vĩ đại nhất mà trò chơi từng thấy.

Anh đứng thứ ba trong lịch sử NFL trong các nỗ lực, hoàn thành và các sân đi qua.Tính nhất quán của anh ấy được thể hiện bằng kỷ lục 12 mùa của anh ấy vượt qua trong 3000 yard trở lên.Anh ta đã ném chính xác 300 đường chuyền chạm bóng, đứng thứ năm mọi thời đại.

Ông đã kiếm được chín lựa chọn Pro Bowl, lần thứ hai nhất trong số các tiền vệ.Elway đã giành được danh hiệu NFL MVP vào năm 1986 và được vinh danh là Cầu thủ tấn công của AFC năm 1993.

Elway là một người chiến thắng.Anh đứng thứ hai trong lịch sử NFL với 148 chiến thắng mùa giải thường xuyên.Anh ấy đã giành được Super Bowls trong hai mùa giải trước và giành được danh hiệu MVP Super Bowl trong trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp.

Sự trở lại trong quý 4 của anh ấy xếp hạng đầu tiên trong lịch sử NFL.Trong trò chơi AFC Championship năm 1986, anh đã dẫn dắt Broncos trên một chuyến đi dài 98 yard huyền thoại để buộc trận đấu, mà cuối cùng Broncos đã giành chiến thắng trong giờ làm thêm.

Anh ấy là một người chạy tốt hơn hầu hết mọi người nhớ, gấp rút trong hơn 200 yard trong mười một mùa.Máy bay trực thăng của anh ấy chạy vào năm 1997 Super Bowl đã chứng minh rằng người đàn ông 37 tuổi vẫn có thể mang nó.

774 sự nghiệp của anh Rushes xếp thứ hai trong số các tiền vệ, chỉ sau Randall Cickyham, và anh là người chơi duy nhất chạy cho một cú chạm bóng trong bốn Super Bowls.

Những người xấu

Anh ta đã mất ba Super Bowls đầu tiên, dẫn đầu hành vi phạm tội của mình tới 40 điểm kết hợp trong ba trận đấu đó.Anh ta đã ném một cuộc đánh chặn trong cả năm Super Bowls của mình và đứng đầu trong lịch sử Super Bowl với tám lần đánh chặn.

Số liệu thống kê vượt qua của anh ấy thậm chí không gần với mọi người nghĩ họ.

Anh ấy đã từng đi bảy mùa liên tiếp mà không đứng đầu 20 lần chạm bóng.Anh ấy không bao giờ ném 30 lần chạm bóng trong một mùa và chỉ đứng đầu 4000 yard một lần.Năm lần anh thất bại trong việc ném cho nhiều lần chạm bóng hơn là đánh chặn.

Elway nói chung được hỗ trợ bởi một diễn viên hỗ trợ rất tốt.

Chạy trở lại Terrell Davis đã kiếm được ba lựa chọn Pro Bowl và được đặt tên là MVP giải đấu vào năm 1998. Người nhận rộng Rod Smith đã được chọn để chơi trong ba Pro Bowls và Shannon Sharpe kết thúc chặt chẽ là một người chuyên nghiệp tám lần.Broncos sở hữu một hàng phòng ngự hàng đầu bảy lần trong sự nghiệp của Elway.

Điểm mấu chốt

Chiến thắng trở lại trong quý IV của anh ấy và hai chức vô địch Super Bowl cho anh ấy danh tiếng là một trong những trận tứ kết ly hợp lớn nhất mọi thời đại.Trong khi điều này là đúng, anh ấy vẫn biểu diễn khủng khiếp trong ba Super Bowls.

9. Brett Favre: Atlanta Falcons (1991), Green Bay Packers (1992-2007), New York Jets (2008-Present)

Tốt

Truyền thuyết về Brett Favre bắt đầu trong trận đấu thứ ba của mùa giải 1992, khi anh thay thế một Don Majkowski bị thương và dẫn dắt gói chiến thắng trở lại trong tuần thứ ba.Kể từ đó, anh ấy đã bắt đầu trong một kỷ lục 266 trận đấu thường xuyên liên tiếp và 22 trận nữa trong cuộc tranh luận.

Anh ta đã chơi qua một ngón tay cái bị gãy và bong gân trên tay phải, mắt cá chân bị bong gân, chân trái bong gân, đầu gối trái bị bong gân, dây chằng rách ở đầu gối trái, hông trái bị bầm tím nghiêm trọng và một vai trái bị tách ra.

Brett Favre nắm giữ hầu hết mọi bản ghi NFL, bao gồm các nỗ lực, hoàn thành, sân và đường chuyền chạm bóng.Anh là người chiến thắng MVP trở lại duy nhất trong lịch sử NFL (1995-1997).Anh ta đã được chọn vào chín Pro Bowls và dẫn NFL trong lần chạm bóng bốn lần và đi qua hai lần.

Favre đã dẫn dắt Packers đến một chức vô địch Super Bowl năm 1996, ném hai đường chuyền chạm bóng chống lại New England Patriots.Các Packers đã đến Super Bowl một lần nữa vào năm tới.Favre đã dẫn đầu gói tới chín danh hiệu phân chia và bốn buổi biểu diễn trò chơi vô địch hội nghị.

Những người xấu

Anh ta đã mất ba Super Bowls đầu tiên, dẫn đầu hành vi phạm tội của mình tới 40 điểm kết hợp trong ba trận đấu đó.Anh ta đã ném một cuộc đánh chặn trong cả năm Super Bowls của mình và đứng đầu trong lịch sử Super Bowl với tám lần đánh chặn.

Số liệu thống kê vượt qua của anh ấy thậm chí không gần với mọi người nghĩ họ.

Anh ấy đã từng đi bảy mùa liên tiếp mà không đứng đầu 20 lần chạm bóng.Anh ấy không bao giờ ném 30 lần chạm bóng trong một mùa và chỉ đứng đầu 4000 yard một lần.Năm lần anh thất bại trong việc ném cho nhiều lần chạm bóng hơn là đánh chặn.

Elway nói chung được hỗ trợ bởi một diễn viên hỗ trợ rất tốt.

Điểm mấu chốt

Chiến thắng trở lại trong quý IV của anh ấy và hai chức vô địch Super Bowl cho anh ấy danh tiếng là một trong những trận tứ kết ly hợp lớn nhất mọi thời đại.Trong khi điều này là đúng, anh ấy vẫn biểu diễn khủng khiếp trong ba Super Bowls.

Tuy nhiên, anh ấy đã nổi tiếng là một nghệ sĩ biểu diễn tuyệt vời sau chiến thắng Super Bowl của mình vào năm 1996, và trong phần còn lại của sự nghiệp, đã thất bại khi nó quan trọng nhất.

8. Dan Marino: Miami Dolphins (1983-1999)

Tốt

Dan Marino sẽ mãi mãi được biết đến với có thể là bản phát hành nhanh nhất và cánh tay mạnh nhất trong lịch sử của NFL.Trong mùa giải NFL thứ hai của mình, anh đã phá vỡ các bản ghi NFL cho các sân vượt qua (5084) và đường chuyền chạm bóng (48).Ông đã giành được danh hiệu MVP và dẫn dắt Cá heo đến Super Bowl.

Marino đã nghỉ hưu với hồ sơ nghề nghiệp trong các nỗ lực vượt qua, hoàn thành, sân và đường chuyền chạm bóng.Anh ấy đã dẫn đầu NFL trong hầu hết mọi loại chuyền, bao gồm cả các sân năm lần, lần chạm bóng vượt qua ba lần và xếp hạng người qua đường một lần.

Anh đứng thứ ba mọi thời đại trong các lần trở lại quý IV (37) và thắng bằng một tiền vệ bắt đầu (147).

Những người xấu

Anh ta không có khả năng giành được một Super Bowl là những gì anh ta được nhớ đến nhiều hơn so với các giải thưởng vượt qua của anh ta.Nếu chỉ có anh ta giành được một Super Bowl, nhiều người sẽ coi Marino là một vị trí tiền vệ hàng đầu.Mất một Super Bowl của anh ấy là một cú đánh hoàn toàn (38-16) không gần như điểm số được chỉ ra.Anh ấy đã ném 24 lần đánh chặn trong sự nghiệp playoff của mình và Cá heo của anh ấy đã thua 62-7 trong trận playoff '99 trận đấu cuối cùng của anh ấy từ trước đến nay.

Mười lần trong sự nghiệp của mình, đường tấn công của Marino cho phép anh ta bị sa thải ít hơn bất kỳ tiền vệ nào trong giải đấu.Tỷ lệ bao tải sự nghiệp của anh ta đứng thứ hai mọi lúc và anh ta gần như không bao giờ bị thương trên bao tải.

Điểm mấu chốt

Anh ấy không bao giờ giành được một Super Bowl.Bây giờ Peyton Manning có một chiếc nhẫn, Marino sẽ luôn được coi là tiền vệ vĩ đại nhất để không bao giờ giành được Super Bowl.Anh ấy là ví dụ đầu tiên xuất hiện trong tâm trí của một người khi được hỏi về các vận động viên chuyên nghiệp giỏi nhất không bao giờ giành được chức vô địch.

Anh ấy đã ném 48 lần chạm bóng trong một mùa giải và 420 trong sự nghiệp của mình ... nhưng anh ấy đã không giành được tất cả vào tháng 1.

7. Bart Starr: Green Bay Packers (1956-1971)

Tốt

Dan Marino sẽ mãi mãi được biết đến với có thể là bản phát hành nhanh nhất và cánh tay mạnh nhất trong lịch sử của NFL.Trong mùa giải NFL thứ hai của mình, anh đã phá vỡ các bản ghi NFL cho các sân vượt qua (5084) và đường chuyền chạm bóng (48).Ông đã giành được danh hiệu MVP và dẫn dắt Cá heo đến Super Bowl.

Marino đã nghỉ hưu với hồ sơ nghề nghiệp trong các nỗ lực vượt qua, hoàn thành, sân và đường chuyền chạm bóng.Anh ấy đã dẫn đầu NFL trong hầu hết mọi loại chuyền, bao gồm cả các sân năm lần, lần chạm bóng vượt qua ba lần và xếp hạng người qua đường một lần.

Anh đứng thứ ba mọi thời đại trong các lần trở lại quý IV (37) và thắng bằng một tiền vệ bắt đầu (147).

Những người xấu

Anh ta không có khả năng giành được một Super Bowl là những gì anh ta được nhớ đến nhiều hơn so với các giải thưởng vượt qua của anh ta.Nếu chỉ có anh ta giành được một Super Bowl, nhiều người sẽ coi Marino là một vị trí tiền vệ hàng đầu.Mất một Super Bowl của anh ấy là một cú đánh hoàn toàn (38-16) không gần như điểm số được chỉ ra.Anh ấy đã ném 24 lần đánh chặn trong sự nghiệp playoff của mình và Cá heo của anh ấy đã thua 62-7 trong trận playoff '99 trận đấu cuối cùng của anh ấy từ trước đến nay.

Mười lần trong sự nghiệp của mình, đường tấn công của Marino cho phép anh ta bị sa thải ít hơn bất kỳ tiền vệ nào trong giải đấu.Tỷ lệ bao tải sự nghiệp của anh ta đứng thứ hai mọi lúc và anh ta gần như không bao giờ bị thương trên bao tải.

Những người xấu

Anh ta không có khả năng giành được một Super Bowl là những gì anh ta được nhớ đến nhiều hơn so với các giải thưởng vượt qua của anh ta.Nếu chỉ có anh ta giành được một Super Bowl, nhiều người sẽ coi Marino là một vị trí tiền vệ hàng đầu.Mất một Super Bowl của anh ấy là một cú đánh hoàn toàn (38-16) không gần như điểm số được chỉ ra.Anh ấy đã ném 24 lần đánh chặn trong sự nghiệp playoff của mình và Cá heo của anh ấy đã thua 62-7 trong trận playoff '99 trận đấu cuối cùng của anh ấy từ trước đến nay.

Mười lần trong sự nghiệp của mình, đường tấn công của Marino cho phép anh ta bị sa thải ít hơn bất kỳ tiền vệ nào trong giải đấu.Tỷ lệ bao tải sự nghiệp của anh ta đứng thứ hai mọi lúc và anh ta gần như không bao giờ bị thương trên bao tải.

Điểm mấu chốt

Anh ấy không bao giờ giành được một Super Bowl.Bây giờ Peyton Manning có một chiếc nhẫn, Marino sẽ luôn được coi là tiền vệ vĩ đại nhất để không bao giờ giành được Super Bowl.Anh ấy là ví dụ đầu tiên xuất hiện trong tâm trí của một người khi được hỏi về các vận động viên chuyên nghiệp giỏi nhất không bao giờ giành được chức vô địch.

Anh ấy đã ném 48 lần chạm bóng trong một mùa giải và 420 trong sự nghiệp của mình ... nhưng anh ấy đã không giành được tất cả vào tháng 1.

Tốt

7. Bart Starr: Green Bay Packers (1956-1971)

Starr là người chơi không thể thiếu nhất có lẽ là triều đại vĩ đại nhất trong lịch sử NFL.

Là một tiền vệ, Starr đã hướng dẫn Packers đến năm giải vô địch NFL trong bảy mùa.Điều này bao gồm chiến thắng trong hai Super Bowls đầu tiên từng có cả hai trong đó Starr giành được danh hiệu MVP.

Graham thống trị thống kê trong một khoảng thời gian khi các tiền vệ không được dự kiến sẽ tạo ra nhiều hơn nhiều hơn một nửa.9,0 sân của anh ấy cho mỗi lần thử đứng đầu trong lịch sử của NFL.

Anh ta đã dẫn đầu AAFC/NFL trong mỗi thống kê vượt qua chính ít nhất một lần, bao gồm cả các sân vượt qua năm lần, xếp hạng người qua đường và tỷ lệ phần trăm hoàn thành bốn lần và chạm bóng vượt qua ba lần.Graham là người giỏi nhất trong NFL khi ném bóng và không lật bóng.

Graham được đặt tên là All-Pro trong tất cả 10 mùa.Ông đã kiếm được MVP NFL vào năm 1951, 1953 và 1955, mùa giải cuối cùng của anh ấy trong giải đấu.Ông cũng kiếm được MVP AAFC vào năm 1947 và gắn liền với giải thưởng vào năm 1948.

Graham là một trong những lý do chính cho khẩu trang ngày nay.Trong một trận đấu với San Francisco 49ers vào năm 1953, anh đã nhận được một cú đánh vào hàm từ một người chơi 49er, cần 15 mũi khâu.Graham rời khỏi trò chơi, nhưng cuối cùng trở lại.Huấn luyện viên trưởng Paul Brown ngay lập tức bắt đầu xây dựng khẩu trang để bảo vệ tiền vệ ngôi sao của mình.

Những người xấu

Chỉ cần đếm NFL, một kỷ lục 3-3 trong các trò chơi vô địch chỉ là trung bình về mặt kỹ thuật, mặc dù phần khó khăn rõ ràng là đạt đến trò chơi vô địch mỗi năm.Các nhà phê bình cũng coi AAFC là một giải đấu nhỏ, và trong khi bốn chức vô địch trong bốn mùa cũng tốt như nó, nó vẫn được coi là 'giải đấu nhỏ'.

Đồng đội của Graham và huấn luyện là hoàn toàn không thể tin được.Marion Motley được cho là Top 10 chạy trở lại mọi thời đại.Dante Lavelli và Mac Speedie là hai trong số các máy thu rộng trên cùng trong NFL.

Pete Brewster và Dub Jones đã được chọn vào hai Bowls Pro.Lou Groza là một kicker hàng đầu.Và quốc phòng được xếp hạng: thứ hai, thứ nhất, thứ nhất, thứ nhất, thứ hai, thứ nhất, thứ hai, thứ nhất, thứ nhất và thứ nhất, trong mười mùa của Graham.

Chỉ có 12 đội NFL thi đấu cho giải thưởng lớn trong những ngày của Graham.Người chơi đã không nảy từ đội này sang đội khác, vì vậy Graham đã có sự sang trọng của những cầu thủ tuyệt vời trong toàn bộ sự nghiệp của anh ấy, với sự cạnh tranh ít hơn nhiều.

Trong AAFC, chỉ có bảy đội thi đấu cho chức vô địch.Ngày nay, các tiền vệ đối phó với 31 đội khác, với cơ hội gần như không có người nhận rộng yêu thích của họ ở lại với họ cho toàn bộ sự nghiệp của họ.

Điểm mấu chốt

Graham không thể giành chiến thắng nhiều trận đấu như một tiền vệ.Mười lần xuất hiện trò chơi vô địch, bao gồm bảy chiến thắng, trong sự nghiệp 10 mùa là lập kỷ lục.Tuy nhiên, bốn chức vô địch đến từ AAFC, thấp hơn nhiều so với NFL.Người ta tự hỏi những gì anh ta sẽ làm trong một giải đấu 32 đội.

5. Peyton Manning: Indianapolis Colts (1998-Hiện tại)

Tốt

Peyton Manning là cỗ máy tấn công vĩ đại nhất trong lịch sử NFL.Anh ta ném những cú chạm bóng với tốc độ lập kỷ lục (1,90 mỗi trận) và có thể sẽ đặt dấu ấn sự nghiệp trong sáu hoặc bảy mùa tiếp theo.

Tám lần Manning đã ném trong 4000 yard trong một mùa, một kỷ lục, trong đó có sáu lần liên tiếp, cũng là một kỷ lục.Anh ấy đã ném cho hơn 25 đường chuyền chạm bóng trong mười mùa liên tiếp kỷ lục (mỗi mùa đầy đủ trong sự nghiệp của anh ấy).

Anh ấy giữ các hồ sơ nghề nghiệp của NFL để hoàn thành mỗi trò chơi (21,7), vượt qua sân mỗi trò chơi (260.2) và các trò chơi với xếp hạng người qua đường hoàn hảo (năm, bao gồm một trong phần sau).

Manning đã giành được giải thưởng NFL MVP năm 2004 sau khi thiết lập các bản ghi NFL trong các lần chạm bóng (49) và xếp hạng người qua đường (121.1).Anh ấy đã giành được một ESPY với tư cách là cầu thủ NFL giỏi nhất và đã được chọn vào tám Pro Bowls trong 10 mùa giải của anh ấy, giành được danh hiệu MVP vào năm 2004. Manning là người chiến thắng trong tháng của AFC AFFIVSETuần trong 16 lần.

Manning không bao giờ bị tổn thương.Bao giờ.Anh ấy đã bắt đầu mọi trò chơi trong sự nghiệp của mình, có từ năm 1998 (170 trò chơi).Anh ta thường chơi khỏe mạnh, nhờ một đường tấn công mạnh mẽ, và anh ta thường chiến thắng.

Anh ấy đã dẫn dắt Colts đến một kỷ lục 111-57 (bao gồm mốc 3-13 trong mùa giải tân binh của anh ấy).Anh ấy là tiền vệ đầu tiên đánh bại mọi đội NFL khác trong mùa giải thông thường.

Anh đã giành được danh hiệu Super Bowl đầu tiên (và duy nhất) vào năm 2006, dẫn đầu Colts từ vòng đấu thẻ hoang dã và đánh bại kẻ thù lớn nhất của anh, New England Patriots, với sự trở lại 18 điểm lập kỷ lục kỷ lục kỷ lục kỷ lục kỷ lục kỷ lục 18Trong trò chơi vô địch AFC.

Anh ta có một số trò chơi hậu kỳ lớn nhất trong lịch sử NFL, bao gồm 360 yard vượt qua Denver Broncos vào năm 2004, trong hiệp một!

Manning có thể là tiền vệ thông minh nhất từng chơi trò chơi.Anh ấy là tiền vệ tích cực duy nhất gọi các vở kịch của anh ấy từ The Huddle, và nổi tiếng với những người nghe thấy của anh ấy ở dòng tội ác.

Anh ta không hoảng sợ dưới áp lực.Anh ấy biết khi nào nên ném bóng, và khi nào không ném bóng.Manning là hoàn toàn không thể chạm tới chống lại blitz.

Những người xấu

Peyton Manning luôn phải vật lộn trong phần hậu kỳ.

Anh ấy đã thua ba trận playoff đầu tiên và có một kỷ lục sau khi làm việc trong sự nghiệp là 7-7.Ngay cả vào năm 2006, khi anh ấy giúp Colts giành được Super Bowl từ vòng thẻ hoang dã, anh ấy đã dựa vào hàng phòng ngự tuyệt vời của mình, ném nhiều đánh chặn hơn so với những lần chạm bóng trong bốn trận đấu đó.

Trở ngại lớn nhất của anh trong vòng playoffs là New England Patriots, người mà cuối cùng anh đã đánh bại trong trò chơi vô địch hội nghị năm 2006.

Manning đã ném một số lượng tương đối đáng kể các đánh chặn, đặc biệt là trong mùa giải tân binh của anh ấy (28).Anh ta luôn có xu hướng cho một trò chơi năm hoặc sáu lần đánh chặn (xem: San Diego, 2007).

Manning có thể cảm ơn dòng tấn công của anh ta vì không bao giờ bị tổn thương, bởi vì anh ta chưa bao giờ chơi qua một chấn thương nghiêm trọng, như Johnny Unitas hay Brett Favre.Anh ta thường là tiền vệ ít bị trả tiền nhất trong NFL.

Anh cũng có thể cảm ơn dàn diễn viên hỗ trợ của mình, đặc biệt là Edgerrin James (bốn Pro Bowls), Joseph Addai (One Pro Bowl), Marvin Harrison (tám Pro Bowls) và Reggie Wayne (hai Pro Bowls).

Điểm mấu chốt

Anh chàng này khá tốt, nếu bạn thích 6'5 ", các tiền vệ 230 pound với vũ khí tên lửa laser. Manning có thể sẽ một ngày nào đó phá vỡ từng kỷ lục vượt qua của con người. Anh ta không bao giờ bị thương và là một trong những người đàn ông thông minh nhất trong lịch sửcủa các môn thể thao chuyên nghiệp. Anh ấy có một chiếc nhẫn Super Bowl, và một hoặc hai người nữa có thể cho anh ấy một trường hợp mạnh mẽ cho danh hiệu tiền vệ vĩ đại nhất mọi thời đại.

4. Steve Young: Tampa Bay Buccaneers (1985-1986), San Francisco (1987-1999)

Tốt

Young được cho là người qua đường vĩ đại nhất mà trò chơi bóng đá từng thấy.

Sáu lần anh đứng đầu xếp hạng 100 người qua đường cho mùa giải.Ba tiền vệ được xếp hạng trên anh kết hợp để làm điều đó bảy lần.

Young đã dẫn đầu NFL trong đánh giá người qua đường một bản thu âm sáu lần.Tỷ lệ hoàn thành năm lần.Touchdown vượt qua bốn lần.Ít tỷ lệ đánh chặn nhất hai lần.

Anh ấy đã lập kỷ lục một mùa cho xếp hạng người qua đường (112,8) vào năm 1994, ném 35 lần chạm bóng và hoàn thành 70,2 % số đường chuyền của anh ấy, tổng số mùa cao thứ hai trong lịch sử.Mùa giải năm 1994 của Young, được cho là trò chơi hay nhất từng thấy cho đến Peyton Manning vào năm 2004, đã giành được giải thưởng MVP mùa thường xuyên, và sau đó là giải thưởng MVP Super Bowl.

Young cũng giành được danh hiệu MVP vào năm 1992. Ông đã kiếm được bảy lựa chọn liên tiếp cho Pro Bowl và là tiền vệ duy nhất trong lịch sử NFL để thay thế thành công một Hall of Famer.

Young xếp hạng đầu tiên trong lịch sử NFL trong xếp hạng người qua đường (96,8) và các sân điều chỉnh cho mỗi lần thử (7.38).Anh ta dẫn đầu tất cả các tiền vệ Hall of Fame trong tỷ lệ phần trăm hoàn thành và chỉ dẫn đầu Tom Brady với tỷ lệ phần trăm đánh chặn thấp nhất và tỷ lệ chạm vào giữa các lần.

Young có những cú chạm bóng vội vã nhất và sân gấp rút thứ hai của bất kỳ tiền vệ nào trong lịch sử.Anh ta nổi tiếng với khả năng tranh giành 'đi' khỏi cơn vội vàng.

Năm 1988, anh đã phá vỡ bảy cú tắc bóng trong cuộc chạy đua 49 yard chiến thắng trong trò chơi để đánh bại người Viking Minnesota, sau đó đã bỏ phiếu cho cuộc chạy đua vĩ đại nhất trong lịch sử NFL bởi một nhóm chuyên gia vào năm 1994.

Young đã giành được Super Bowl đầu tiên và duy nhất của mình vào năm 1994, cuối cùng đã đánh bại Dallas Cowboys trong trò chơi vô địch NFC và ném một cú chạm bóng NFL sáu lần trong Super Bowl.

Anh ta đã ném một trong những lần chạm bóng bị đánh giá thấp hơn trong lịch sử NFL, một cuộc đình công ghi bàn 25 yard vào Terrell Owens với ba giây còn lại trong trò chơi playoff thẻ hoang dã NFC, kết thúc một triều đại Green Bay tiềm năng.

Những người xấu

Young thường bị chỉ trích vì "chỉ" chiến thắng một Super Bowl và thường xuyên thua Dallas Cowboys và Green Bay Packers trong cuộc tranh luận.

Trong khi phòng thủ của anh ấy không giúp ích nhiều, trẻ cũng không.Anh ấy có xếp hạng sau khi làm việc trong sự nghiệp là 85,8, vẫn còn rất cao, nhưng hơn mười phần trăm so với xếp hạng người đi đường thường xuyên của anh ấy.

Kỷ lục playoff nghề nghiệp của anh ấy (trò chơi ném ít nhất 10 đường chuyền) là 8-6, trên mức trung bình, nhưng khác xa với giới thượng lưu.

Anh ấy rất tệ khi là một Buccaneer của Tampa Bay vào năm 1985 và 1986, chiến thắng ba trận đấu trong hai mùa.Anh ta đã ném 11 lần chạm bóng và 21 lần đánh chặn, trong khi hoàn thành ít hơn 55 phần trăm số đường chuyền của anh ta.Anh ấy đã không trở thành người khởi đầu toàn thời gian cho đến mùa giải 1992, ở tuổi 30.

Young bị nhiều chấn thương trong suốt sự nghiệp của mình và chỉ chơi 16 trận mùa ba lần.

Điểm mấu chốt

Anh chàng này khá tốt, nếu bạn thích 6'5 ", các tiền vệ 230 pound với vũ khí tên lửa laser. Manning có thể sẽ một ngày nào đó phá vỡ từng kỷ lục vượt qua của con người. Anh ta không bao giờ bị thương và là một trong những người đàn ông thông minh nhất trong lịch sửcủa các môn thể thao chuyên nghiệp. Anh ấy có một chiếc nhẫn Super Bowl, và một hoặc hai người nữa có thể cho anh ấy một trường hợp mạnh mẽ cho danh hiệu tiền vệ vĩ đại nhất mọi thời đại.

3. Johnny Unitas: Baltimore Colts (1956-1972), San Diego Chargeers (1973)

Tốt

Unitas là một trong những người lãnh đạo nhóm vĩ đại nhất mọi thời đại.

John Mackey, một đồng đội chặt chẽ của Hall of Fame và đồng đội của Unitas, cho biết, đã ở trong cuộc trò chuyện với Johnny Unitas giống như ở trong cuộc trò chuyện với Chúa.Unitas đã dẫn dắt Colts tới các danh hiệu NFL vào năm 1958 và 1959.

Anh ấy đã dẫn dắt Colts giành chiến thắng Super Bowl vào năm 1970, và mặc dù bị thương, đã ra khỏi băng ghế dự bị trong '68 Super Bowl để dẫn Colts đến ổ đĩa duy nhất của họ.

Ông đã giành được ba giải thưởng cầu thủ có giá trị nhất, cách đầu tiên và cuối cùng cách nhau tám năm (1959, 1964, 1967).Năm 1959, ông đã phá vỡ kỷ lục một mùa cho các lần chạm bóng (32).

Anh ta đã ném cho một đường chuyền chạm bóng trong một kỷ lục 47 trận liên tiếp, một chuỗi đáng lẽ phải nhận được sự công nhận mà chuỗi cú đánh của Joe Dimaggio đã làm.Unitas kiếm được 10 lựa chọn cho Pro Bowl và được đặt tên là Cầu thủ của thập kỷ cho những năm 1960.

Unitas là một trong những người chơi khó khăn nhất trong lịch sử NFL.

Anh ấy đã chơi trong một kỷ nguyên khi các tiền vệ nhận được rất ít để không bảo vệ cho các cú đánh muộn.Unitas đã chơi qua một cái mũi bị gãy nặng, những ngón tay bị gãy, gân cánh tay bị rách, sụn đầu gối rách, phổi bị thủng và một đốt sống bị gãy.

Chỉ còn chưa đầy một phút trong một trận đấu với 49ers, Hall of Fame Fame, Doug Atkins đã phá vỡ mũi của Unitas trên một bao tải.Mặc dù không có khả năng ngừng chảy máu, Unitas vẫn ở trong trò chơi và ném một đường chuyền chạm bóng cho Lenny Moore trong những giây cuối cùng để giành chiến thắng trong trò chơi.

Hall of Fame, giải quyết phòng thủ Merlin Olsen được gọi là Unitas là người đàn ông dũng cảm nhất mà tôi đã biết trong bóng đá.

Unitas đã nghỉ hưu giữ 22 hồ sơ vượt qua, bao gồm các nỗ lực vượt qua, hoàn thành, đường chuyền và đường chuyền chạm bóng.Đường chuyền cuối cùng của anh ấy là một Colt là một cú chạm bóng 63 yard.

Năm 1969, Unitas được vinh danh là tiền vệ vĩ đại nhất của mọi thời đại trong lễ kỷ niệm 50 năm của NFL vào năm 1969. Ông được Sports Illustrated là tiền vệ vĩ đại nhất mọi thời đại.

Những người xấu

Anh ta được bao quanh bởi Hall of Famers trong toàn bộ sự nghiệp của anh ta, bảy cầu thủ khác nhau và hai huấn luyện viên.Theo tôi, Lenny Moore là một trong những người chơi bị đánh giá thấp hơn trong lịch sử trò chơi, trong khi Raymond Berry được cho là một người nhận hàng đầu trong lịch sử NFL.

Unitas cũng đã ném rất nhiều đánh chặn.Tỷ lệ chạm vào sự nghiệp của anh ấy là 1.146, tốt hơn so với chỉ 10 trong số 24 tiền vệ của Hall of Fame hiện đại (bao gồm Brady và Manning, vì những lý do rõ ràng).

Unitas đã chơi kém trong Super Bowl 1970.Anh ta chỉ chơi trong quý thứ tư của Super Bowl năm 1968 và ném một cuộc đánh chặn quý IV khiến Colts phải trả giá cho bất kỳ cơ hội nào trở lại để giành chiến thắng trong trò chơi.

Colts của anh đã thua trận đấu NFL Championship năm 1964 27-0.Và Unitas thực sự đã không chơi đặc biệt tốt trong bất kỳ trận đấu playoff nào sau trò chơi tiêu đề năm 1959.

Điểm mấu chốt

Unitas thống trị trong mùa giải thông thường, giành được ba giải thưởng MVP.Anh ấy đã dẫn dắt Colts tới hai tựa game NFL và một chiếc nhẫn Super Bowl, mặc dù anh ấy đã hơi quá nhiều trong phần hậu kỳ.Khả năng chơi qua nỗi đau và chơi thành công, các yếu tố huyền thoại của anh ấy như là một người đứng đầu mọi thời gian.

2. Tom Brady: New England Patriots (2001-nay)

Tốt

Tất cả những gì Tom Brady làm là giành chiến thắng với tốc độ thống trị hơn cả Joe Montana.Anh ấy đã giành được ba Super Bowls trong bốn mùa đầu tiên của mình.Anh ấy đã dẫn dắt những người yêu nước đến kỷ lục 16-0 đầu tiên vào năm 2007, và sự xuất hiện của Super Bowl thứ tư của thập kỷ.Anh ấy đã giành được 10 trận đấu đầu tiên của mình và có một kỷ lục playoff nghề nghiệp là 13-3.

Brady đã dẫn 28 ổ đĩa chiến thắng trò chơi quý IV.Hồ sơ nghề nghiệp của anh ấy trong giờ làm thêm?7-0.Chống lại các đội NFC?27-5.Khi những người yêu nước có vị trí dẫn đầu quý IV trong một trò chơi mùa giải thông thường?84-1.

Anh ta có tỷ lệ chiến thắng trong sự nghiệp cao nhất bởi bất kỳ tiền vệ nào với ít nhất 100 trận đấu bắt đầu (87-24; .784 phần trăm).Anh ấy đã tiếp quản một đội 0-2 Patriots vào năm 2001, và hướng dẫn họ đến 11 chiến thắng và một danh hiệu Super Bowl.

Họ đã thắng 14 trận trong năm 2003 và 2004. Từ năm 2006 đến 2007, Tom Brady đã giúp những người yêu nước giành chiến thắng 21 trận liên tiếp, một kỷ lục NFL, vượt qua 18 trong số những người yêu nước '03 -'04.

Anh ấy có một số màn trình diễn đáng nhớ nhất trong lịch sử NFL:

  1. Các ổ đĩa trò chơi và chiến thắng trò chơi huyền thoại của anh ấy trên con đường chống lại Oakland năm 2001
  2. Cuộc tập trận kéo dài hai phút của anh ấy trong Super Bowl 2001
  3. Cuộc tập trận kéo dài hai phút của anh ấy trong Super Bowl 2003
  4. Chiến thắng trở lại quý IV của tám điểm trước San Diego năm 2006
  5. 26 trên 28 của anh ấy vượt qua Jaguars năm 2007
  6. Đường chuyền chạm bóng của anh ấy cho Randy Moss với dưới ba phút còn lại trong Super Bowl 2007 để đưa những người yêu nước vào vị trí để kết thúc mùa giải 19-0

Brady đã lập kỷ lục một mùa cho các lần chạm bóng với 50 vào năm 2007. Ông cũng đã dẫn đầu NFL trong các lần chạm bóng vào năm 2002 (28).Xếp hạng người đi qua sự nghiệp của anh là 92,9 là thứ năm mọi thời đại.Anh ta là tiền vệ bị chặn nhất thứ bảy mọi thời đại, và đầu tiên trong số Hall of Famers.

Brady biết cách chơi qua nỗi đau.Anh ấy đã chơi hai tháng cuối cùng của mùa giải 2005 với một thoát vị thể thao, một chấn thương mà thế giới bóng đá đã không phát hiện ra cho đến sau lần mất mát đầu tiên trong sự nghiệp của Brady.

Anh ấy đã chơi trong trò chơi vô địch AFC 2004 sau khi bị sốt 103 độ vào đêm hôm trước;The Patriots đã đánh bại 15-1 Steelers 41-27.Anh ấy đã không bỏ lỡ một trò chơi do chấn thương cho đến khi mở đầu mùa giải 2008. Chuỗi 111 trận đấu thường xuyên liên tiếp của anh ấy bắt đầu đứng thứ tư trong danh sách mọi thời đại của các tiền vệ NFL.

Những người xấu

Mất một đội 10-6 trong Super Bowl là không thể chấp nhận được.Không thể chấp nhận được.Sự đổ lỗi không thể chỉ được đặt vào Tom Brady, nhưng tiền vệ luôn luôn có và sẽ luôn nhận được phần lớn tín dụng khi đội chiến thắng và đổ lỗi khi đội thua.

Spygate.Vào đầu mùa giải 2007, New England Patriots đã bị NFL quay video bất hợp pháp các tín hiệu của các huấn luyện viên phòng thủ của New York Jets.NFL áp đặt một khoản tiền phạt nghiêm trọng đối với những người yêu nước.

Được coi là Spy Spygate, những người yêu nước đã mất rất nhiều sự tôn trọng xung quanh NFL, với niềm tin rằng sự gian lận của họ có khả năng giúp họ giành được Super Bowls trước St. Louis Rams và Philadelphia Eagles.

Cho dù tôi có tin những người yêu nước hay không, không nên đổ lỗi cho Tom Brady.Thật quá khó để chứng minh rằng những người yêu nước đã lừa dối họ đến một hoặc hai Super Bowl.Nhiều lời chỉ trích đã xảy ra trong tình huống này, nhưng không ai trong số đó ảnh hưởng đến bảng xếp hạng của Tom Brady trong số các tiền vệ lớn nhất mọi thời đại.

Trong khi Tom Brady không được bao quanh bởi những người chơi tấn công, anh ta đã có sự sang trọng của một hàng phòng ngự tuyệt vời và là một trong những huấn luyện viên vĩ đại nhất trong lịch sử NFL.

Adam Vinatieri trở thành một huyền thoại với hai mục tiêu chiến thắng trong trò chơi ở cuối Super Bowls, cũng như hai cú đá cực kỳ mạnh mẽ chống lại đội Raiders của Oakland trong trận play-off phân chia năm 2001.

Một số người sẽ lập luận rằng Peyton Manning đã mất cơ hội tại một chiếc nhẫn Super Bowl vào năm 2005 do cú đá kém của Mike Vanderjagt, vào thời điểm đó, nơi đặt chỗ chính xác nhất trong lịch sử NFL.

Tom Brady bị chấn thương đầu gối nghiêm trọng vào đầu mùa giải 2008 và nhiều người đặt câu hỏi về khả năng của anh ấy để lấy lại vị thế ưu tú như một tiền vệ NFL.Brady không bao giờ bỏ lỡ một trò chơi do chấn thương trong mùa giải đầu tiên của anh ấy, nhưng chỉ chơi bảy phút trong trận đấu đầu tiên của mùa giải 2008.

Điểm mấu chốt

Thế giới không hiểu rằng Tom Brady thực sự thành công như thế nào.Anh ấy đã giành được Super Bowls, MVP và Super Bowl MVP.Anh ta biết làm thế nào để giành chiến thắng tốt hơn bất kỳ tiền vệ nào đã từng sống, bao gồm cả Joe Montana.

Anh ta giữ nhiều hồ sơ vượt qua và anh ta đã thực hiện phần lớn trong số này mà không có một dàn diễn viên hỗ trợ tốt.Anh ta sống vì áp lực và không có tiền vệ nào đáng sợ hơn với trò chơi trên đường.

Nếu anh ta thắng thêm một Super Bowl, có lẽ anh ta sẽ vượt qua Joe Montana là tiền vệ vĩ đại nhất trong lịch sử NFL.

1. Joe Montana: San Francisco 49ers (1979-1992), Trưởng thành phố Kansas (1993-1994)

Tốt

Bắt đầu từ đâu?Anh ấy đã giành được bốn Super Bowls, đến trong vòng chín năm.Anh ta đã ném 11 lần chạm bóng và không đánh chặn bằng không trong các Super Bowl đó (xếp hạng 127,8 QB) và ba lần bước đi khi MVP của trò chơi.

Anh ấy đã dẫn đầu một ổ đĩa chiến thắng trò chơi dài 92 yard trong Super Bowl 1988, lên đến đỉnh điểm trong một cuộc tấn công chạm bóng 10 yard cho John Taylor.Anh ấy đã ném năm lần chạm bóng trong Super Bowl 1989.

Anh ta đã ném trò chơi vô địch hội nghị nổi tiếng nhất vượt qua trong lịch sử, một chiếc Floater thứ ba xuống một Dwight Clark, đánh dấu sự khởi đầu của một triều đại cho 49ers.

Anh ấy đã chơi trong tám trận đấu thẳng thắn với xếp hạng người qua đường trên 100.0 và giữ các hồ sơ tranh chấp sự nghiệp cho các sân vượt qua (5772) và vượt qua (45).Xếp hạng người qua đường của anh ấy là 96.2 cải thiện xếp hạng mùa thường xuyên của anh ấy.

Anh ấy đã giành được hai Associated Press MVP, ở độ tuổi 33 và 34. Anh ấy đã nhận được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của NFL năm 1986, sau khi trở về sau chấn thương trở lại nghiêm trọng đến nỗi được các bác sĩ đề nghị anh ấy nghỉ hưu từ bóng đá chuyên nghiệp.Montana kiếm được tám lựa chọn Pro Bowl chỉ trong 13 mùa đầy đủ.

Montana được Sports Illustrated, Sports Illustrated.Anh ấy đã ủy quyền cho The The Drive, và The Catch, và có biệt danh là Joe Joe Cool.Ông cho phép 31 sự trở lại quý IV.

Tỷ lệ chạm vào giữa các lần giao thoa của Montana là gần 2: 1.Anh ấy đã dẫn đầu NFL về tỷ lệ phần trăm hoàn thành năm lần, lần chạm bóng hai lần và xếp hạng người qua đường hai lần.Ông đứng thứ năm trong lịch sử NFL trong xếp hạng người qua đường và phá vỡ danh sách mười người đứng đầu trong phần lớn số liệu thống kê.

Những người xấu

Không nhiều.

Anh ta đã tham gia vào một trong những tổn thất tồi tệ nhất mọi thời đại, một cuộc tấn công 49-3 chống lại L.T.và người khổng lồ nhà vô địch Super Bowl cuối cùng.Người khổng lồ đã loại bỏ Montana khỏi cuộc tranh luận ba lần trong sáu mùa.Một bao tải của kết thúc phòng thủ Leonard Marshall trong trận play -off năm 1990 đã đánh bật Montana khỏi bóng đá cho cả mùa giải tới.

Montana đã bị ảnh hưởng bởi những chấn thương muộn trong sự nghiệp của mình.Ngoài bản hit Marshall, Montana đã bỏ lỡ tám trận đấu của mùa giải 1986.Một chấn thương khuỷu tay khiến anh bỏ lỡ toàn bộ mùa giải 1992 (trừ một trò chơi).Tổng cộng, Montana đã bỏ lỡ hơn 40 trận đấu do chấn thương trong sự nghiệp NFL của mình.

Jerry Rice.Nhiều người nói rằng máy thu rộng lớn nhất của NFL từng giúp các số liệu thống kê của Montana rất nhiều, mặc dù Joe Cool đã giành được hai Super Bowls mà không cần gạo.

Điểm mấu chốt

Montana là tiền vệ tuyệt vời nhất từng chơi trong NFL.

Anh ta đã giành được bốn chiếc nhẫn Super Bowl, ghi lại danh hiệu MVP ba lần.Anh ấy đã giành được một giải thưởng MVP giải đấu và hoàn thiện cuộc tập trận kéo dài hai phút.

"Cuộc đuổi bắt.""Joe Cool.""Đứa trẻ trở lại."Tất cả Montana.

Năm đường chuyền hàng đầu trong lịch sử NFL là ai?

Danh sách các nhà lãnh đạo chạm bóng mọi thời đại mọi thời đại..
Tom Brady*, 624 td Passes.....
Drew Brees, 571 td Passes.....
Brett Favre, 508 td Passes.....
Aaron Rodgers*, 449 td Passes.....
Philip Rivers, 421 TD Passes.....
Dan Marino, 420 TD Passes.....
Ben Roethlisberger*, 418 td Passes.....
Eli Manning, 366 TD vượt qua ..

Ai có sân vượt qua nhiều nhất trong lịch sử NFL?

Tom Brady giữ cả kỷ lục mùa giải thông thường, với 88.698 sân và kỷ lục playoff, với 13.049 yard, với tổng số kỷ lục kết hợp là 101.747 yard. holds both the regular season record, with 88,698 passing yards, and the playoff record, with 13,049 yards, for a combined record total of 101,747 yards.

Có QB nào ném cho 6000 yard không?

Tiền vệ đầu tiên đạt mốc 6.000 yard là Dan Marino, người đã làm điều đó vào năm 1984. Trong một trong những mùa vĩ đại nhất trong lịch sử NFL, QB năm thứ hai đã dẫn dắt Dolphins đến Super Bowl trong một năm mà anh ấy đã ném trong 6.085 yardvà 56 lần chạm bóng.Dan Marino, who did it in 1984. In one of the greatest seasons in NFL history, the second-year QB led the Dolphins to the Super Bowl in a year where he threw for 6,085 yards and 56 touchdowns.

Ai là người qua đường vĩ đại nhất trong lịch sử NFL?

Xếp hạng người qua đường mọi thời đại.