Trình bày và cho ví dụ cụ thể về quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.

Phó Trưởng Khoa lý luận cơ sở

Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng”, những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, được bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới. Nội dung này, được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học cấp Nhà nước với chủ đề: “Học thuyết giá trị thăng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin: Những giá trị cốt lõi, những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, sự bổ sung, phát triển trong bối cảnh mới”. C. Mác - Nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, nhằm vạch rõ nguồn gốc và bản chất của nó, từ đó vạch rõ bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa, v.v… Sau gần 2 thế kỷ, C.Mác đã phát minh ra học thuyết giá trị thặng dư, nhờ đó tìm ra và nhận thức rõ quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi bất công xã hội, triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người.

Tuy nhiên, ở đây, người viết chỉ tập trung bàn về việc máy móc hiện đại trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản như những luận điệu xuyên tạc và phủ nhận của các thế lực thù địch về vai trò lịch sử của Học thuyết. Người ta cho rằng, trước kia chỉ có công nhân “sản xuất” mới tạo ra giá trị gia tăng, bây giờ “chính tri thức chứ không phải lao động mới là nguồn gốc của giá trị thặng dư”. Trong đó, máy móc là thứ tạo ra giá trị thặng dư chứ không phải sức lao động của con người tạo ra.

Vì vậy, tư bản ngày nay không còn bóc lột giá trị thăng dư, nếu có thì chủ nghĩa tư bản chỉ còn bóc lột “người máy”. Vì trong các xí nghiệp hiện đại, tự động hóa, quá trình sản xuất ra sản phẩm không cần hoặc cần rất ít lao động sống, nhưng giá trị do các xí nghiệp này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất nhiều công nhân, v.v. Trong thực tế, đời sống công nhân có nâng lên do thu nhập cũng tăng thông qua việc tham gia cổ phần trong các nhà máy, xí nghiệp tư bản.

Các nhà kinh tế học tư sản trước đây và hiện nay hay cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Nên họ ngộ nhận tư bản là “vật” và tư bản là một phạm trù vĩnh viễn. Thực ra, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy, tư bản không phải là một vật mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.

Vì vậy, chúng ta cần bàn thêm về tư liệu sản xuất (máy móc, trang thiết bị, nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất) được C. Mác kí hiệu là C gồm có C1 và C2. Nó có đặc điểm là trong quá trình sản xuất, giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm. Nghĩa là bản thân nó không tự tạo ra một lượng giá trị mới trong đó có giá trị thăng dự, khác với quan điểm tư sản cho rằng mọi tư liệu sản xuất đều tạo ra giá trị thặng nên tư bản không bóc lột sức lao động, vì nó do máy móc tạo ra. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới hình thức giá trị sử dụng mới. Hàng hóa máy móc, nguyên nhiên vật liệu ban đầu được mua trên thị trường còn dưới dạng đầu vào của quá trình sản xuất. Khi đưa vào sản xuất hàng hóa tiêu dùng, thì chúng biến đổi thành một sản phẩm mới phục vụ cho tiêu dùng. Và hàng hóa này khi đi vào tiêu dùng thì người tiêu dùng chỉ sử dụng giá trị sử dụng của chúng (giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa).

Ví dụ, trang bị 2 máy vi tính hiện đại nhất hiện nay cho 2 lao động có trình độ công nghệ thông tin khác nhau, thì kết quả năng suất lao động sẽ khác nhau. Nghĩa là người có trình độ và thành thạo việc sử dụng máy tính cao sẽ cho năng suất lao động cao. Ngược lại, người có trình thấp, việc sử dụng máy tính chưa thành thạo thì năng suất lao động sẽ thấp. Điều đó đã chứng minh năng suất lao động là do sức lao động của con người tạo ra trên cơ sở quyết định của trình độ tay nghề. Máy móc chính là yếu tố của quá trình lao động, là phương tiện giúp con người tạo ra năng suất, chứ máy móc không quyết định việc tạo ra năng suất lao động.

Cho nên có thể khẳng định, tư bản bất biến (máy móc, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu) không tạo ra giá trị thăng dư, nó là điều kiện cần thiết để cho quá trình sản xuất giá trị thặng dư được diễn ra. Nguồn gốc tạo giá trị thặng là sức lao động của người làm thuê.

Vậy, sức lao động được biểu hiện như thế nào? Có tham gia gì vào quá trình sản xuất giá trị thặng dự. Tư bản khả biến là một bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động (trả lương, thuê mướn công nhân), đại lượng của nó thay đổi trong quá trình sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư và ký hiệu là v. Tư bản khả biến có thể tạo ra sự biến đổi về giá trị, có vai trò quyết định trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dự, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước một tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong quá trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy được gọi là tư bản bất biến. Nhưng đối với bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì trong quá trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng của mình, người công nhân tạo ra một giá trị mới không chỉ bù đắp đủ giá trị sức lao động của công nhân mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản này đã có sự biến đổi về lượng và được gọi là tư bản khả biến.

Ngày nay, với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão đã tiến mạnh vào các ngành sản xuất vật chất của xã hội; của cải vật chất tạo ra thật nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng cho con người. Điều đó làm cho con người dễ nhầm tưởng máy móc trực tiếp và quyết định tạo ra năng suất, cũng đồng tạo ra giá trị thặng dư, nên tư bản ngày nay không còn bóc lột công nhân làm thuê.

Chính vì lẽ đó, các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật, đặc biệt là đòi xét lại học thuyết Mác nói chung, cụ thể là học thuyết về giá trị thăng dư, họ cho rằng nó không còn đúng, đã lạc hậu, lỗi thời. Có chăng Học thuyết chỉ đúng trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, ngày nay đã chấm dứt vai trò lịch sử của nó. Đây là những quan điểm sai trái, thiếu tính khoa học, tính thực tiễn, thậm chí phản động, phản cách mạng.

Bản thân sản xuất giá trị thăng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sự tồn tại của giá trị thăng dư. Giá trị thăng dư là cơ sở tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản, không những phản ánh mục đích mà cả phương pháp, thủ đoạn và phương tiện để đạt mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Về mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng và cũng không phải vì sản xuất ra giá trị nói chung, mà sản xuất ra giá trị thặng dư. Đối với tất cả nhà tư bản, giá trị thăng dư càng nhiều càng tốt.

Về phương pháp và thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để có giá trị thặng dư ngày càng lớn là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động. Phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó là một bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản, là lao động không công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Tóm lại, do sự tác động của quy luật giá trị thặng dư nên sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác động của quy luật này làm cho mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản và với toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, tạo cơ sở kinh tế, xã hội quyết định địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản. 

Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Marxist. Karl Marx đã nghiên cứu và đưa ra một số lý luận xung quanh khái niệm này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông. Nó được sử dụng để khẳng định lao động thặng dư của công nhân bị các nhà tư bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản.

Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cần một phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính mình.

Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư.

Giá trị hàng hóa (W) được sản xuất ra gồm hai phần: giá trị những tư liệu sản xuất đã hao phí được lao động cụ thể bảo tồn và chuyển vào sản phẩm (giá trị cũ, ký hiệu c) và giá trị mới (v+m) do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra (lớn hơn giá trị hàng hóa sức lao động). Phần giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị hàng hóa sức lao động, được nhà tư bản thu lấy mà không trả cho người lao động, được gọi là giá trị thặng dư (m).

Như vậy, lao động sống là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa (m) là giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị hàng hoá sức lao động, là lao động không được trả công của người lao động làm thuê.

Công thức: W = c + v + m.

Sản xuất giá trị thặng dư là mục tiêu và động cơ của từng nhà tư bản cũng như toàn bộ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bản chất của giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa thể hiện quan hệ bóc lột giữa người sở hữu tư liệu sản xuất và người sở hữu hàng hoá sức lao động, hay nói cách khác giữa nhà tư bản và người làm thuê.

Tư bản bất biến (c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm; tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản bất biến.

Tư liệu sản xuất gồm: máy móc, thiết bị, nhà xưởng… chuyển giá trị của nó từng phần vào sản phẩm; nhiên liệu, vật liệu khi sử dụng được chuyển ngay toàn bộ giá trị của nó vào sản phẩm.

Tư bản khả biến

Tư bản khả biển (v) là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động. Trong quá trình sản xuất bộ phận tư bản này không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên; tức là biến đổi về lượng. Một mặt, giá trị của nó chuyển thành tư liệu sinh hoạt của công nhân và mất đi trong tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá trình lao động, nhờ lao động trừu tượng của mình, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị mua sức lao động.

  • Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi.
  • Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động, cường độ lao động không đổi.
  • Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do các xí nghiệp sản xuất có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hoá theo giá trị xã hội, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác . Giá trị thặng dư siêu ngạch = Giá trị xã hội của hàng hóa - Giá trị cá biệt của hàng hóa. Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối; là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng năng suất lao động.

Khi nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, Marx đã trình bày về 3 giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp; cả 3 giai đoạn phát triển này đều làm tăng năng suất lao động, tăng giá trị thặng dư tương đối.

Hiệp tác giản đơn

Là hình thức xã hóa lao động, sự hiệp tác của nhiều người lao động cùng làm một việc theo kế hoạch trong cùng một thời gian trên cùng một không gian sản xuất ra cùng một loại hàng hóa; dưới sự điều khiển của cùng một nhà tư bản. Hiệp tác giản đơn vừa tăng sức sản xuất cá nhân, vừa tạo ra sức sản xuất tập thể lớn hơn năng lực cá nhân cộng lại. Đây là cuộc cách mạng về tổ chức lao động.

Phân công công trường thủ công

Là thực hiện sự hợp tác lao động có phân công dựa trên kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công có nhiều ưu thế hơn hẳn so với hiệp tác giản đơn. Cùng một công việc được chia thành nhiều thao tác độc lập khác nhau, cho nên mỗi người lao động cá biệt đều trở thành lao động bộ phận trong người lao động tổng thể của cái cơ cấu sống là công trường thủ công. Đây là cuộc cách mạng bản thân sức lao động, dẫn tới sự thay đổi trong công cụ lao động.

Đại công nghiệp cơ khí

Cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh diễn ra những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội. Đại công nghiệp có tác dụng đưa máy móc vào sử dụng rộng rãi trong xã hội. Đây là cuộc cách mạng về công cụ lao động.

Công thức để đo lường giá trị thặng dư: Căn cứ vào việc xác định giá thành của sản phẩm:

GT= C+ V+ m => m= GT - (C+V)

Trong đó:

  • C là phần tư bản bất biến được chuyển vào giá trị hàng hóa. C bao gồm 02 bộ phận là c1 và c2. c1 là phần khấu hao tài sản cố định phân bổ cho mỗi đơn vị hàng hóa, phần này không tăng lên hay giảm đi trong quá trình sản xuất mà nó chỉ chuyển dịch giá trị từ TSCĐ vào giá trị hàng hóa, sau đó nhà tư bản thu hồi lại bằng trích quỹ khấu hao. C2 là giá trị nguyên, nhiên, vật liệu, phụ liệu, phụ gia, phụ phẩm... và giá trị công cụ, dụng cụ rẻ tiền, mau hỏng (thường là có thời gian sử dụng không quá 01 năm) phân bổ cho mỗi đơn vị hàng hóa. Phần này được chuyển hết 01 lần vào giá trị của hàng hóa (nếu là công cụ, dụng cụ rẻ tiền mau hỏng thì phân bổ từng phần nhưng không quá 01 năm). Cả c1 và c2 đều không trực tiếp tạo ra giá trị mới (nên nó mới có tên gọi là tư bản "BẤT BIẾN"), mà nó chỉ là phương tiện để sinh ra giá trị thặng dư mà thôi, chính đặc điểm này đã che đậy GTTD mà lại biểu hiện ra bên ngoài bằng lợi nhuận.
  • V là phần tiền công mà nhà tư bản bỏ ra để mua sức lao động của người công nhân, nó còn gọi là lao động sống tạo ra giá trị mới của hàng hóa, nó không những chỉ chuyển toàn bộ giá trị của mình vào giá trị của hàng hóa mà còn tạo thêm phần giá trị tăng thêm (m), (nên mới có tên là tư bản "KHẢ BIẾN"). Phần giá trị tăng thêm này cũng được hình thành do hao phí lao động trừu tượng của người công nhân kết tinh vào hàng hóa, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt, không trả cho người tạo ra nó, tức là nhà tư bản đã mua giá trị lao động thấp hơn giá trị thật của nó, phần chênh lệch gía trị thật của sức lao động này với giá trị mà nhà tư bản bỏ ra để mua sức lao động của công nhân chính là Giá trị thặng dư - vấn đề cốt lõi đang bàn tới.

Để sản xuất hàng hóa phải có chi phí lao động quá khứ và lao động sống, khi đó giá trị hàng hóa được tạo ra là W = c + v + m.

Nhà tư bản phải mua tư liệu sản xuất (c) và thuê lao động (v), như vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là k = c + v. Khi đó, giá trị hàng hóa sẽ biểu hiện ra dưới hình thái khác là W = k + m.

Sự hình thành phạm trù chi phí sản xuất cùng với việc giá cả sức lao động biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hóa là tiền công, là nguyên nhân làm cho giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hóa là lợi nhuận (p). Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận thì giá trị hàng hóa sẽ biểu hiện thành W = k + p.

Marx nêu ra định nghĩa lợi nhuận: “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận”.

Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp

Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp do chênh lệch giữa giá bán với giá mua hàng hoá của tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất do nhà tư bản công nghiệp “nhường” cho nhà tư bản thương nghiệp.

Lợi tức của tư bản cho vay và lợi nhuận ngân hàng

Tư bản cho vay (TBCV) là một bộ phận của tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong quá trình tuần hoàn của TBCN được tách ra và vận động độc lập với TBCN. TBCV là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó.

Số lời đó gọi là lợi tức (Z). Hình thức vận động của TBCV T – T’.

Lợi nhuận ngân hàng = (Z cho vay + thu khác) – (Z đi vay + chi phí nghiệp vụ).

Địa tô

Định nghĩa

Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do lao động của công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp buộc phải nộp cho nhà địa chủ (R).

Hình thức

Địa tô chênh lệch là số dư ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên những ruộng đất tốt và trung bình so với ruộng đất kém nhất, là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình. Địa tô chênh lệch I thu được trên cơ sở đất đai có điều kiện tự nhiên thuận lợi (gắn với điều kiện tự nhiên thuận lợi bị độc chiếm. Do vậy, nó thuộc về chủ ruộng đất). Địa tô chênh lệch II do thâm canh mà có.

Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất tốt hay xấu. Đây là loại tô thu trên tất cả mọi thứ ruộng đất. Địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản thuê loại ruộng đất nào đều phải nộp cho địa chủ. Tính chất lịch sử của địa tô tuyệt đối gắn liền với quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất, với tính chất lạc hậu tương đối của sản xuất nông nghiệp so với sản xuất công nghiệp.

  • Xét thuần túy trong lĩnh vực kinh tế, công thức trên cho thấy bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào có tiền (vốn) được đưa vào trong quá trình sản xuất và kinh doanh trực tiếp hay gián tiếp như thông qua đầu tư chứng khoán, thậm chí gửi ngân hàng sẽ sinh lời. Đồng tiền chỉ trở thành công cụ sinh lời nếu đầu tư vào sản xuất hay kinh doanh. Mỗi cá nhân đều có thể trở thành nhà tư bản nếu biết sử dụng hợp lý tiền của mình trong đầu tư kinh doanh. Nếu chỉ để tích lũy thuần túy thì đó là đồng tiền chết, không những không có lợi cho cá nhân đó mà còn không có lợi cho những người khác cần vốn để sản xuất.
  • Trong bất kì xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư, nếu áp dụng được các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng được tri thức, trí tuệ vào trong quá trình sản xuất sẽ làm tăng giá trị thặng dư mà không cần phải kéo dài thời gian lao động hay cường độ lao động ảnh hưởng đến những người sản xuất.
  • Công thức cũng chỉ ra cách thức tích lũy làm tăng số tiền, là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
  • Thặng dư
  • Lao động thặng dư
  • Giá trị lao động
  • Tư bản (Karl Marx)
  • Lợi nhuận
  • Siêu lợi nhuận
  • Tích lũy tư bản
  • 'The Concepts of Alienation and Surplus-value, a Brief Look' Lưu trữ 2008-04-10 tại Wayback Machine

  • Theories of Surplus-Value (1863)
  • Value, Price and Profit (1865)
  • Capital, Volume 1, Volume 2, Volume 3 [1]
  • http://homepage.newschool.edu/%7eAShaikh/ Lưu trữ 2007-03-15 tại Wayback Machine
  • http://home.mtholyoke.edu/~fmoseley/fred.html
  • http://www.jourdan.ens.fr/~levy/ Lưu trữ 2011-08-06 tại Wayback Machine
  • http://www.debunking-economics.com/
  • http://www.probabilisticpoliticaleconomy.net

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giá_trị_thặng_dư&oldid=68399693”